Vài Mẩu chuyện về “Con Người” của GS Vũ quốc Thúc

Nguyễn văn Canh

Bài viết này đuợc giới hạn vào một số câu chuyện về “Con Người” của  GS Vũ quốc Thúc, dựa trên mối tiếp xúc cá nhân của tôi với GS Thúc.

Kể các chuyện dưới đây để tưởng nhớ một Giáo sư mà tôi luôn kính mến.

Tôi là một môn sinh rồi có vinh dự là một đồng nghiệp của ông tại Đại Học Luật Khoa, Sài g̣n.  

A. “Một Nhân Cách Lớn”.  

Giáo sư Kinh Tế Mai văn Lễ, một cựu đồng nghiệp, đến thăm tôi sau khi ông được Việt cộng cho đi định cư ở Mỹ và thời gian đó ông c̣n tạm trú tại vùng D.C. ở Hoa Thịnh Đốn. V́ mới sang Hoa Kỳ và nhất là bị giam cầm trong trại tù Việt cộng  lâu và bị cô lập một thời gian khá dài, Ông muốn biết tin tức về sự sinh sống vào lúc đó của một số đồng nghiệp cũ ở trường Luật.  

Sau khi, tôi nói về Giáo sư Thúc, GS Lễ nhận xét: “Anh Thúc có ‘một nhân cách lớn’; một con người thông thái, hiểu biết sâu rộng về môn dạy, cởi mở, hoà nhă, nên mọi người kính mến.”  

Để có một nhân cách lớn như ở “Con Người” của GS Thúc, tôi thấy ông c̣n có nhiều đức tính khác, ngoài những ǵ mà GS Lễ nói ở trên. Nhưng ở đây, tôi liệt kê vài điều ở GS Thúc, có liên hệ trực tiếp với tôi trong sinh hoạt ở trường Luật. Đó là Liêm Chính và Đức Khiêm Cung.  

Nhân Cách là yếu tố tạo ra hấp lực để  lôi cuốn người khác, hay nói khác đi là làm người ta “đến với  ông” với ḷng quư mến, kính trọng…..  

Các thí dụ sau đây chứng minh điều này:  

1. Nhóm cựu sinh viên Luật ở Nam CA đến với GS Thúc với ḷng biết ơn đối với một ông Thày cũ.  

Cách đây có lẽ trên  dưới 15 năm, Đại tá Nguyễn trọng Liệu, nguyên Chánh Sở, Sở Pháp Chế ( th́ phải), Nha Quân Pháp, Bộ Quốc Pḥng, gọi cho tôi nói rằng “chúng tôi gồm một số cựu sinh viên Luật ở dưới này (Nam California) có bàn với nhau rằng chúng tôi muốn mời GS Thúc và phu nhân sang thăm Hoa Kỳ. Mọi chi phí di chuyển khứ hồi Pháp-Hoa Kỳ, trong nội bộ Hoa Kỳ, đi bất cứ nơi nào, gồm cà ăn ở, chúng tôi lo hết. GS Thúc nếu ở Hoa Kỳ cả tháng th́ tốt. Tôi  nói rằng đấy là một sáng kiến hay. Đại tá Liệu tiếp: “Chúng tôi muốn nhờ Anh mời GS Thúc giúp”. Tôi hỏi: sao lại thế? Anh ở cùng quê ở Nam Định với GS Thúc, và anh là chủ biên Đặc San Nguyễn Khoa Nam. Mỗi khi ra báo, Anh đều gửi cho tôi. Tôi thấy Anh có liên lạc với GS Thúc xin bài. Ông ấy có viết bài cho Báo và có nhắc tên Anh mà. Vậy tại sao, Anh không liên lạc với Ông ấy mà lại nhờ đến tôi? Đại tá Liệu trả lời “ Tôi có thể viết thư mời được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng dù Anh cũng là môn sinh của GS Thúc như chúng tôi, nhưng Anh ở vị trí thích hợp hơn. Để tỏ ḷng kinh mến Ông và nhờ Anh mời giúp, hơn là chùng tôi chỉ là cựu sinh viên”                        

V́ biết cách “cư xử” của GS Thúc, tôi phải viết thư thay v́ gọi điện thoại. Trong thư tôi nhắc lại những ǵ ĐT Liệu nói với tôi. Thay v́ cc cho ĐT Liệu, tôi chụp một Bản gủi cho ĐT Liệu biết. Ít lâu sau, Ông viết thư cho tôi trả lời : “rất xúc động được các anh em học trường luật trước đây (ông rất kỹ, không dùng các chữ khác, thí dụ  như cựu môn sinh chẳng hạn)  có ḷng quí mến như vậy khi đă về hưu.” Ông từ chối v́ lư do Bà Thúc bị Alzhiemer, phải thường  trực  ở nhà trông nom, ngay cả khi Đài RFI phỏng vấn, phải dùng điện thoại….  

Tôi thấy Nhân Cách của GS Thúc là yếu tố chính yếu làm nguyên động lực thúc đẩy nhóm cựu sinh viên này “đến với GS Thúc”. Họ  mời ông sang chơi để tỏ ḷng biết ơn vị  Giáo sư khả kính của họ.  

2. Một người được gọi là “Bạn” đến với GS Thúc để dang tay giúp đỡ vào lúc nguy khốn: Ông Raymond Barr.  

Trong một thư viết tay gửi cho tôi, dài gần 20 trang, sau khi tới Pháp được chừng một tháng,  GS Thúc cho biết  ông được GS Lưu văn B́nh, ở Montréal cho địa chỉ của tôi.

Trong thư, GS Thúc kể rất nhiều điều mà ông trải qua sau khi VC chiếm Miền nam. V́ ở  trong t́nh thế khó khăn quá, ông t́m mọi cách, như đến cầu nguyện trước Tượng Đức Mẹ ở B́nh Triệu, t́m cách gửi thư cho người  con gái ở Paris, xin gặp Ông Barr đang làm Thủ Tướng giúp. Trong thư ấy, GS Thúc kể rằng ông biết ông Barr lúc thi Thạc sỹ. Khi Phạm văn Đồng sang Pháp xin Viện trợ 200 triệu MK, Ông  Barr nói với Phạm văn Đồng rằng “tôi cho Anh $200 triệu MK, nhưng với điều kiện là Anh cho “Bạn”  của tôi là Giáo sư Vũ quốc Thúc sang Pháp. Tôi mời ông ta dạy ở Đại Học Paris”. Thư nói tiếp: “Phạm văn Đồng được tiền, nhưng vần đề để tôi đi Pháp, th́ chắng thấy ǵ cả. Rồi Nội các Raymond Barr sụp đổ. Ông Barr phải ứng cử Dân Biểu trở lại và đắc cử, rồi  sau đó được tái bổ nhiệm làm Thủ Tướng. Lúc đó, VC mới xét đến việc cho tôi rời Việt nam. Nếu ông Barr không được làm Thủ tướng nữa, th́ việc đi Pháp của tôi sẽ không xảy ra.”

Tóm lại, lư do mà Thủ tướng Barr đến với GS Thúc để cứu  ông vào lúc khó khăn nhất, v́ ông có một Nhân Cách đáng phục. Như những ǵ Giáo sư Thúc  nói, ông  chỉ là người quen hay biết ông Barr, chứ không hẳn  là người Bạn.*  

*Tôi không bàn tới việc ông Barr, Thủ tướng của một đại cường quốc như Pháp đă dùng  cả một chính sách quốc gia để “ đánh đổi lầy một người bạn”- một việc mà tôi không bao giờ thấy trên đời này. Tôi chỉ xét xem GS Thúc có phải là “ Bạn” với ông Barr theo nghĩa mà mọi người hiểu không.

Trong thư kể trên, GS Thúc nói rằng Giáo sư biết ông Barr, khi Thạc sỹ Kinh Tế.

Tôi không bao giờ hỏi một cách chi tiết về việc GS Thúc là Bạn như thế nào. Tôi chỉ dựa vào vài thư của GS Thúc gửi cho tôi có ít chi tiết liên hệ, cũng như khi nói chuyện th́ t́nh cờ Ông đề cập đến.

Tôi nhớ  rằng GS Thúc được chính phủ Nguyễn văn Xuân cho đi Pháp học để thi Tiến sỹ. Ông đậu Tiến sỹ năm 1950. Như vậy trong thời gian này, GS Thúc chưa gặp ông Barr.

Có một lần khi tôi Paris, ông kể chuyện về thi Thạc sỹ:  Ngay sau khi đậu tiến sỷ (1950) , v́ ṭ ṃ, Ông thử đi hỏi xem vấn đề thi Thạc sỹ như thế nào. Sau khi biết thể thức, ông quyết định xin thi. Có một trở ngại là Bằng Tiến sỹ của ông lại là Tư Pháp, nhưng v́ nội dung đề cập đến kinh tế nông thôn, trong khi đó ông nhắm vào kinh tế để thi Thạc sỹ. Ông phải làm đơn xin đổi sang là Tiến sỹ Kinh Tế, và được chấp thuận. Và như vậy ông dự thi Thạc sỹ 4 tháng sau khi được cấp bằng Tiến sỹ. Tại kỳ thi này ông đươc “admissible”. Rồi trở về Việt nam dạy tại trường Luật Hà nội. Đến năm 1952, ông sang Pháp trở lại để dự thi, và đậu Thạc sỹ.

Vậy câu hỏi là liệu có cơ hội và th́ giờ để trở thành “Bạn”? Ông cũng như GS Nguyễn cao Hách có cho tôi biết rằng thủ tục thi Thạc sỹ gồm có 2 phần: Phần thi viết 1 ngày. Xong rồi chờ kết quả. Biết đă đậu,  th́ đến lấy đề tài vấn đáp. Phần II,  chỉ một ngày ở nhà để sửa soạn cho ngày hôm sau vào vấn đáp.  Vấn đáp có 2 phần. Phần I thí sinh tŕnh bày đề tài 1 giờ, đến giớ thứ 60, Chủ khảo gơ búa, vào lúc dó th́ Thí sính phải chấm  dứt nói. Sau đó đến phần câu hỏi của giám khảo và trả lời.

Ai bị rớt ở giai đoạn này, được phong cho chức “Hàm Thạc sỹ” (aggregatif). Ở trường Luật Sài g̣n, có 2 Giáo sư ở trong t́nh trạng này. Đó là GS Vũ quốc Thông (Công Pháp) và GS Trần thiện Vọng (Kinh Tế).

Vậy GS Thúc ở Pháp rất ngắn, và chỉ gặp ông Barr vào lúc thi cử, và vào lúc thi cử như vậy, thí sinh bị “áp lực” rất nhiều. Tôi nghĩ rắng 2 người chỉ gặp nhau để “Bonjour”, “Bonsoir” mà thôi, và biết nhau như vậy. Tôi kết luận rằng Ông Barr và Giào sư Thúc không hẳn là Bạn như mọi người quan niệm. Và họ chỉ là người quen biết nhau.  

B. Một số đức tính khác: 

1.Một người  Liêm khiết:

GS Trần như Tráng thường trực trợ giúp tôi trong các kỳ thi. Ông nói với tôi rằng vào Kỳ thi này (Khoá I, niên học 1973-1974), có các Bà Thúc và Bà Hách thi tốt nghiệp. Tôi trả lời”Thế hả. Ông in lặng về vấn đề này. Các bà ấy cũng được đối xử như các sinh viên khác. Các bà ấy học giỏi th́ đậu. Nếu không, phải học lại.”

Giáo sư Thúc và Giáo sư Hách hoàn toàn không ai can thiệp.  

 2. Có Đức Khiêm Cung:  

Tôi nói tới thái độ và cách cư xử của GS Thúc. Khi c̣n ở trường Luật ở Sài g̣n, GS Thúc  là người tỏ ra rất ḥa nhă, thân thiện với đồng nghiệp; với sinh viên, ông không có ǵ biểu lộ “hống hách” hay “quan liêu”, hay “ xa cách” dù đă gia nhập ”giới quan trường” như đă làm Tri Huyện dưới thời Pháp lúc c̣n trẻ, (từ khoảng cuối  1944 th́ phải), rồi Bộ trưởng sau khi vào Nam năm 1954…

24GSCanhThucTừ khi ông sang Pháp định cư, tôi có cơ hội tiếp xúc, trao đổi quan điểm với GS Thúc nhiều hơn. Cách cư xử của ông đối với  tôi thật là đặc biệt. Tôi đi Âu châu có hơn chục lần, và Paris là điểm đến và về. Hầu hết các các lần tới Paris, kể cả các lần đến nói chuyện cho cộng đồng, ông đều dành thỉ giờ gặp tôi, không để tôi tới thăm cho phải phép.  

Câu chuyện sau đây là một thí dụ: Năm 2015,  khi tôi sang Paris, GS Thúc mời tôi và 2 người em ăn cơm ở một Nhà Hàng Tàu, Quận 13.

Tôi đến trước và ngay sau đó Ông tới. Tôi thấy nước da mặt của ông có vẻ hồng hào, tôi nói đùa: trông Giáo sư trẻ, mặt hồng hào, lại đẹp trai. Ông nói với tôi rằng :Anh sang đây, tôi phải đến gặp. Từ nhà tôi đến đây, tôi nghỉ tất cả 3 lần. Tôi đi một lúc, thấy mệt, tôi ngồi nghỉ 10 hay 15 phút, rồi đi tiếp”. Tôi hỏi tại sao như vậy. Ông trả lời: “có 2 mạch máu đưa máu từ tim lên óc, th́ một cái bị block 95%, cái bên kia: 65%.” Tôi có gợi ư về surgery, Ông trả lời rằng “tôi già rồi.”

Tôi biết khi đi gặp tôi, ông phải nhờ một người nào đó đến trông nom Bà Giáo sư, dù tôi xin được miễn gặp.  

3. Một người có lập trường kiên định (và  thêm bằng cớ về đức khiêm cung hiếm có,thí dụ như viêt Bản sao để kính tường):

MacOS:private:var:folders:bj:525h8tfn3ygc409qtfyb6sfm0000gn:T:TemporaryItems:0.jpg
 Một nhân sĩ tại Hoa Kỳ viết thư yêu cầu GS Thúc nhận xét về một dự án với ư nghĩ mời hợp tác với Chính quyền VC. Ông lịch sự từ chối. Ông chụp Thư trả lời và thông báo cho tôi biết như Bản sao dưới đây, dù gửi riêng cho tôi với ḍng chữ viết tay thêm vào:

Bản sao kính gủi

gs Nguyễn văn Canh

“để kính tường” (viết tay ở góc trái, phía dưới).

Hai thí dụ này là biểu hiệu cái cung cách  mà ông đối xử với tôi. Tôi cũng thấy ông đối xử với người khác rất khiêm tốn.

Cước chú: Có vài điểm tôi cần thêm vào vấn đề này: a) Về Dự án này, trước khi nhận được thư của GS Thúc, tôi đă được GS Mai văn Lễ cho biết và ông đă có thái độ rơ rệt; b) Về cách GS Thúc cư xử với tôi như trên, thực ra tôi không tả nổi. Như tôi đă nói ngay ở đầu rằng  Tôi là môt cựu sinh viên của ông và là đồng nghiệp như là một em út trong hệ thống hành chánh trước đây, đúng ra ông không cần thiết  sử dụng cách thông báo như thế. Tôi không biết dùng chữ ǵ đển diễn tả, nên dùng chữ “đức khiêm cung”.  

4. Một nhà ái quốc nhiệt thành, không ngưng nghỉ:  

a). Một lần có lẽ là 1984. Khi tới Paris, GS Thúc bảo tôi sắp xếp th́ giờ dành một buổi gặp. Ông đưa tôi tới  một tiệm ăn khá sang để ăn trưa.  Ông rút trong cặp ra một hồ sơ dày, viết bằng tiếng Pháp và tôi nh́n trang cuối là 147. Ông tŕnh bày vấn đề, trong khi tôi liếc mắt qua các đề mục của các Chương, các Đoạn. Tôi để ư các trang cuối, có vấn đề pháp lư ở đây…… Đến đó ông đưa cho tôi coi 2 thư gủi cho Ông: 1 của Giám Đốc một Nha thuộc Bộ Ngoại Giao Pháp, c̣n thư kia là của một nữ thư kư thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.  

Kế đó, ông yêu cầu tôi đặt vấn đề với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, giúp giải quyết hồ sơ này.

Tôi nhận xét rằng  đây là hồ sơ pháp lư. Tôi có nêu ra một số điểm không ổn khi đi thuyết phục người ta. Tuy nhiên, đó không phải là chính. Và tôi nhấn mạnh là ḿnh không thể đạt đươc muc tiếu với hồ sơ này. Điều tôi có thể làm được là Giáo sư viết cho tôi một thư riêng, nhưng professional về h́nh thức, tiếng Pháp hay Anh cũng được. Trong thư Giáo sư nói rơ rằng  giao trách nhiệm  cho tôi đi yêu cầu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có hành động. Giáo sư chính thức gửi đến  cho tôi ở Viện Nghiên Cứu Hoover Về Chiến Tranh Cách Mạng và Hoà B́nh, Đại Học Stanford. Như vậy nó  là cái cớ để  tôi nhờ một đồng nghiệp mang tay sang DC cho ông Schultz, Bộ trưởng Ngoại Giao.

C̣n cái thư mà Giáo sư hiện có là do một thư kư gửi, v́ họ lịch sự trả lời rằng Bộ này đă nhận được tài liệu mà thôi. 

Với tài liệu của Giáo sư,  tôi không lạc quan vi lư do mà Bộ Ngoại giao sẽ không có hành động tích cực, v́ vấn đề này có dính dáng với Quốc Hội mà Quốc Hội hiện bị đám tả chi phối nặng. Thêm vào đó, vụ Nixon trước đây c̣n tiếng vang. …..

Chừng 2 tuần sau, tôi nhận được gói tài liệu. Tôi cũng  bóc thư và mở gói tài liệu, rồi mang cả lên lầu 13 của Tháp Hoover  vào văn pḥng Phó Giám Đốc Hoover, Richard Buress (trước đây là Phụ Tá TT Nixon). Tôi nói rằng hồ sơ này là của GS Vũ quốc Thúc, một ông Thày cũ dạy tôi tại trường Luật, Sài gon, nay ông là Giáo sư ở Paris. GS Thúc ưu tư vấn đề này, và đ̣i hỏi tôi phải nêu vấn đề ấy với Bộ trưởng Ngoại Giao George Schultz (Học gỉa danh dự của Hoover). Ông bàn với George xem có thể làm ǵ được không và tôi yêu cầu George hay Phụ tá viết thư trả lời GS Thúc dù thư này gửi cho tôi… Sau đó, Ông Buress mang thư và hồ sơ đi DC, gặp BT Ngoại Giao Schultz bàn về vấn đề này….. Gaston Sigur, Phụ Tá Bộ trưởng Ngoại Giao đặc trách Á Châu  được mời đến và giao trách nhiệm nghiên cứu vấn đề.

Cuối cùng , ông Sigur viết thư trả lời GS Thúc và có cc cho Ông Buress và tôi.

GS Thúc có kể lại vấn đề này trong Hồi Kư.  

b) Một dịp khác khi tôi đến Paris, tôi báo cho ông biết. Ông dặn tôi rằng dù  Anh có  phải đi đâu, nên sắp xếp dành nột buổi để gặp cụ Đỗ ( BS Trần văn Đỗ). Cụ Đỗ mời anh ăn cơm và có chuyện muốn nói.

Đến ngày hẹn, ông bảo tôi đi tởi trạm Métro (nếu tôi nhớ không lầm là Étoile). Tôi đi ra khỏi Metro, th́ ông đă chờ sẵn, rồi dẫn tôi vào nhà Cụ Đỗ, ở Q. 16… Cụ cho rằng vấn đề Việt nam nay tuỳ thuộc vào Hoa Kỳ, chứ Âu Châu th́ nên bỏ đi….. Cụ nói rằng Giáo sư ( nghĩa là tôi) là người trẻ, có đủ yếu tố để đảm đương một số công việc…  và ở bên này  chúng tôi có chừng 4 hay 5 chục anh em sẽ “tiếp tay” với Giáo sư… Tôi  cảm ơn Cụ đă chỉ dạy, nhưng không gánh vác nổi… Đến đó GS Thúc đứng lên, nói rằng Cụ thấy anh có khả năng, lại ở vào vị trí thuận lợi và nhờ tôi mời anh đến đây, và anh nên nhận lời. Thấy GS Thúc đứng lên tôi cũng đứng lên cho phải phép và thưa lại rằng : Thưa Cụ, GS Thúc trước đây là Thày dạy tôi tại trường Luật và thưa Giáo sư {Thúc], tôi hằng theo đuổi một nguyên tắc là Ông Thày bảo ǵ, th́ học tṛ phải lắng nghe và cố gắng làm. Về vấn đề này, tôi xin thưa, tôi không làm nổi. Cụ giao cho tôi công tác cùng một số nhân lực đông đảo là một vinh dự lớn. Nhưng nếu để phô trương, th́ tôi không dám….., v́ không phải đạo. Trước đây, GS Thúc đă yêu cầu tôi làm một công tác khá quan trọng mà Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ bề ngoài có thẩm quyền. Truóc khi làm, tôi có nói cho GS Thúc biết chỉ đạt được muc tiêu giới hạn mà thôi.

Và điều đó đă xảy ra như vậy.  

5. Một người có giầu thiện chí  

Tôi thực sự điều khiển và kiểm sóat hai kỳ thi của niên học 1973-1974 (1).  

Sự cổ vơ sự tôn trọng “Kỷ Luật” của GS Thúc  giúp tôi giải quyết khó khăn của trường . Một trong lư do là Giáo sư dạy năm I Ban Cử Nhân là các giáo sư hàng đầu của trường không chấm bài kịp v́ số thí sinh đông quá.  Các vị ấy đă từng làm “Quan” như Tri Huyện, Tri Phủ thời Pháp”, rồi về sau làm PicGSLuatSaigon-1Bộ trưởng ( thời Bảo Đại, rôi Ngô đ́nh Diệm). Tôi không ở vị thế có thể thúc đẩy các vị ấy.    Nhờ sự cổ vơ và áp dụng Kỷ Luật của GS Thúc   cả GS Hách

Hàng đầu. Từ phải sang trái: GS Vũ quốc Thúc, GS Nguyễn cao Hách….

Các Giáo sư tham dự Lễ  Phát Văn Bằng

 

 trong hàng ngũ Giáo sư “hàng đầu” của Trường, tôi có thể giải quyết được khó khăn này. Như dự trù trong kế hoạch, vào tháng 10, kỳ thi II đă hoàn tất  đúng hạn kỳ và sang  tháng 11,1974 trường tổ chức  lễ phát văn bằng.  Tân khoa lần lượt được xướng danh,  tiến vào lễ đài, GS Vũ quốc Thông, Khoa trưởng đích thân phát Bằng tốt nghiệp  cho từng sinh viên, hơn 1400 tân khoa ( khoá I: 840; khoá II: hơn 600) sau 4 năm theo học, trước sự hiện diện của đa số Giáo sư.

Tôi nhắc lại rằng Sĩ số ghi danh năm 1970 là 10,000**.  Đây là buổi lễ Phát Bằng long trọng đầu tiên từ khi trường được độc lập, khỏi tay người Pháp từ năm 1956.  Và cũng là lần cuối cùng.  

** Nhân dịp đề cập tới khó khăn này, tôi nói thêm rằng  Trường Luật Sài g̣n  lúc đó rất “giầu” vè sĩ số , nhưng vô cùng “nghèo nàn” về phương tiện:

a.. Niên học 1973-1974 , số thí sinh ghi danh là 25,000 khoá I. Số hiện diện là: 15,000  cho cả 4 năm) . Đa số lả sinh viên năm I. Việc chấm bài cho sinh viên năm I là khó khăn lớn. và các “ Anh Già” (như GS Hồ thới Sang gọi) là những người dậy, và chấm bài của các thí sinh này. Có thể là mỗi Giáo sư phải chấm tới 5,000 bài trong một ṿng một thời gian ngắn. b). Niên học 1974-1975, số ghi danh là 58,000.

b. Chỉ có 36 giáo sư cơ hữu, dưới 20 nhân viên hành chính kể cả (1) lao công, (1) tuỳ phái, (1) tài xế; pḥng ốc, lớp học ít ỏi và chật hẹp, ngân sách giới hạn.  

                                 VÀI TẤM H̀NH:  

a). GS Thúc thăm Bắc California năm 1990.

img012Nhân dịp này, tôi dẫn GS Thúc thăm Đại học Berkeley và Giáo sư Scalapino, Giám đốc Viện Nghiên Cứu Đông Á đi xa chưa về. Trước khi sang, tôi dặn ông Dough Pike, Giám đốc Indochina Archives  mời GS Thúc đi ăn cơm ở tiệm Việt nam. Ông này đưa chúng tôi đến tiệm có tên là Le Cheval, ở Oakland. Anh Ngô ngọc Trung, CEO của Dự án Oral Life History  có phỏng  vấn ông và tài  liệu được lưu trữ ở Indochina Archives, Viện Nghiên Cứu Đông Á.

Tôi dẫn Giáo sư thăm anh chị em Luật gia, họp ở nhà LS Thống

1990 tại cửa nhà LS Nguyễn hữu Thống. ở San Jose, CA

Từ trái sang phải: Hàng đầu: Đại sứ Nguyễn quí Anh, LS Hoàng cơ Long, GS Nguyễn văn Canh, LS Đỗ doăn Quết, LS Nguyễn hữu Thớng, LS Nam thị Hồng Vân, LS Trương thị Hồng Trinh, ,?.

Hàng  sau: LS Trần thr65n Hải, GS Vũ quốc Thúc…?….

MacOS:private:var:folders:bj:525h8tfn3ygc409qtfyb6sfm0000gn:T:TemporaryItems:0.jpgb). 2017, tôi nhờ một cựu Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh, anh Nguyễn d́nh Vương ở Paris mang tay đến nhà để biếu Giáo sư cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa & Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc (tái bản).

H́nh Nguyễn 8inh Vương,2017 GS Vũ quốc Thúc, cầm cuốn sách.

 

Năm 2018, tôi gửi  biếu bản tiếng Anh qua Bưu điện, không được trả lời. Email của tôi gửi đi, bị trả về. Trước đó, Anh Vương vẫn đến theo dơi sức khoẻ của Giáo sư và báo cho tôi biết. Về sau anh này, từ cuối 2017 cũng bị bệnh khá nặng, tôi gọi không được và email cũng không trả lời.

____________________________________________

(1) Trong một phiên họp Hội Đồng Khoa vào đầu năm  1972 tôi bị gọi tên để giao phó trách nhiệm “chấn chỉnh” lại (theo tinh thần của GS Hồ thời Sang nói với tôi sau vụ GS Hách nêu ra với tôi)  sinh hoạt  của trường luật v́ vào lúc này trường luật đă có nhiều vấn đề lắm.  Và t́nh thế đă nghiêm trọng ( nhận xét của GS Nguyễn cao Hách trước đó và muốn tôi phải nhận trách nhiệm cải tổ trường Luật). Tôi từ chối viện dẫn một trong nhiều khó khăn là trước đó có một niên học và  kỳ thi khoá I được tổ chức vào tháng 6, và chỉ kết thúc vào tháng 1 năm sau, Nếu các giáo sư chấm và không  trả bài, th́ làm sao văn pḥng có điểm để cộng, rồi công bố kết quả đúng hẹn được. Niên học vừa qua (1970-1971), văn pḥng học vụ cho tôi biết có 10,000 sinh viên ghi danh năm thứ I. Như thế, tôi không làm nổi. (Tôi ám chỉ rằng  giáo sư dạy năm I là giáo sư hàng đầu của trường, phải chấm 4 hay 5000 bài trong khoảng thời gian rất ngắn)

 Khi tôi nói tới đây, Giáo sư Thúc dơ tay ngay và tuyên bố: “Anh GS Canh nói thế là đúng. Đây là vấn đề  KỶ LUẬT phải được đặt ra. Vậy tôi đề nghị rằng anh Giáo Sư  (Canh )  phác hoạ một kế hoạch chi tiết trong một bản thời khoá biểu rơ cho mọi người, Ngày giờ nào phải nộp bài v.v , mọi người phải tuân theo”. Rồi mọi người nói ồn ào, rồi biểu quyết, giao cho tôi trách nhiệm thi hành,..

Tôi biết rằng hai Giáo sư Thúc và Hách rất tích cực việc áp dụng kỷ luật trong hàng ngũ Ban Giảng Huấn về vân đề này.  

                                               X

x                x

Tôi thấy tính khiêm cung không những  có ở Con Người Giáo sư Thúc theo các kinh nghiệm  của tôi kể trên và cả ở Giáo sư Vũ quốc Thông.  Ở đây, tôi c̣n thêm  ḷng nhân ái, bao dung của Giáo sư Thông để tạo một h́nh ảnh đạo đức truyền thống trong gia đ́nh của 2 Giáo sư.  

Hai thí dụ sau đây là bằng chứng:

1. Một buổi sáng, GS Thông mở cửa văn pḥng ông sang pḥng của tôi ( hai văn pḥng sát nhau). Ông cầm một tờ giấy, có một người đàn ông đi theo. Tôi đứng dậy. Ông giới thiệu [tên người khách] và nói ông này thời trước làm việc với tôi ở Phủ Lư (th́ phải), có lẽ lúc đó ông là Tri Phủ. Ông này có đứa cháu thi ở đây, đến xin giúp v́ cháu đă rớt và có thư giới thiệu. Ông Khoa trưởng  nói rằng : “GS Canh là Phụ tá Khoa trưởng, lo vụ thi cử ở đây. Mọi quyết định là do GS Canh “và đưa thư khiếu nại cho tôi. Tôi  nói với GS Thông rằng: “Vâng thưa ông Khoa trưởng, để tôi nhờ một Phụ Kháo lấy bài vở của thí sinh ra coi xem như thế nào. Ông Khoa trưởng yên tâm”.  Ông Khoa trưởng về pḥng. Như thường lệ, tôi đă chặn trước với ông khách rằng các giáo sư chấm bài là người quyết định.

Tôi coi thư và thấy có in tên Bộ, và bên dưới có đóng dấu màu đỏ với chức vụ khá lớn. Nội dung thư nói là có đứa cháu (con gái),……. gọi người gửi  thư bằng cậu, và  mẹ cháu hiện đang làm công chức tại…., xin cho cháu  được đậu. Chiếu theo đơn, tôi nhờ một phụ khảo mang cho tôi Biên Bản và các bài mà các giám khảo đă cho điểm. Tôi kiểm soát lại từng bài, từng điểm, rồi loan báo rằng không có ǵ sai. Sinh viên nảy rớt….Không ai có thể làm ǵ được trong t́nh trạng này……..  

Có 2 điều tôi muốn nêu ra về cung cách hành xử của GS Thông

a). Với ông khách, là một  cựu thuộc cấp- một thừa phái và  ông đích thân dẫn sang pḥng tôi giới thiệu  một  cách trang trọng.

b). Với tôi, một cựu môn sinh, và là một thuộc cấp, dù Hội Đồng Khoa mà ông đứng đầu trao quyền quyết đinh rộng răi cho tôi, ông nói rơ với ông khách rằng “GS Canh là quyết định”, chứ không phải ông.

Về cách hành động, Ông có thể ra lệnh cho tôi báo cáo t́nh trạng của sinh viên này, rồi ông quyết định. Ông đă không làm như vậy. 

Nhưng trong trường hợp này, tôi muốn thêm một chi tiết, dù đi ra ngoài chủ đề: Tôi nói với ông khách rằng tôi có một ưu tư về bức thư. Đó là người gủi thư này, nay giữ chức vụ lớn và tôi biết anh ta tốt nghiệp khoá 4 QGHC, thời  GS Vũ quốc Thông làm Viện trưởng. Ưu tư của tôi gồm 2 điểm: 1) Cựu sinh viên viết thư cho Thày yêu cầu cho đứa cháu được đỗ sau khi thi đă bị rớt. Hành vi như vậy được coi như thế nào? 2) Sẽ hỏi Thủ Tướng Khiêm về hành vi của viên chức cao cấp này. Khi nghe đến đây, ông khách xin bỏ qua và xin ra về….  

2. Trường hợp một sinh viên có hành vi vô lễ trong Văn Pḥng tôi. Kỳ thi Khoá I, đă xong. Bảng điểm ( từng môn của mỗi thí sinh) được công bố  dán trong các “hộp” có khoá với kính hay lưới mắt cáo che, để sinh viên có thể đọc, bất cứ lúc nào.  

Có 4 sinh viên năm I, xin cô thư kư cho vào gặp tôi để khiếu nại. Một trong 4 sinh viên này nói rằng tên và điếm của anh ta bị một người nào đó, dùng bút nguyên tử xoá hết, không c̣n đọc được.Tôi bảo cô thư kư mời một phụ khảo  gặp tôi để mang biên bản của nhóm trong đó có tên anh này. Xem xong, tôi bảo cháu đậu rồi. Ngay sau đó,  Cậu này có hành vi “rất vô lễ”. Tôi áp dụng biện pháp mạnh, rồi tuyên bố “Con nhà mất dạy. Tôi sẽ đuổi khỏi trường Luật và báo cho Bộ Quốc Pḥng biết để quân đội dạy dỗ trở thành người lương thiện, lễ phép”. Rồi tôi đuổi cả nhóm đi ra  ngoài ngay…

Chừng một tuần lễ sau, ông Khoa trưởng sang pḥng tôi, cho biết “có phải anh quyết định đuổi sinh viên đó hả. Bố mẹ nó đến gặp tôi, xin tha cho nó, tôi nghiệp nó”. Lúc này tôi mới kể sơ qua những ǵ xảy ra. Ông Khoa trưởng tiếp: thôi anh tha cho nó, nếu nó phải đi quân đội, tôi nghiệp cho nó. Tôi thưa rằng Ông Khoa trưởng có ư định như vậy, tôi phải theo và xin rằng ông cho Tổng Thư Kư gọi Bố Mẹ và cả nó đến bảo phải dạy nó. Nếu không, sau này nó làm luật sư, thẩm phán, th́ hoạ cho đất nước.  

Cái cung cách xử thế như trên  của GS Thông, tôi thấy cũng giống như cách hành xử của GS Thúc: rộng lượng nhân ái, khiêm cung… Thật là một gia đ́nh đáng kính.  

3. Nhân tiện tôi đi ra ngoài chủ đề để nói thêm về trường luật:Giải quyết vấn đề tham nhũng.

Các giáo sư trường luật rất nghiêm chỉnh qua 2 kỳ thi năm 1974 mà tôi kiểm soát. Cách thức tổ chức, cộng điểm, công bố mau lẹ,  giữ bài đă chấm rất cẩn thận, không ai làm ǵ được. Tuyệt đối các giáo sư lớn không lui tới trường trong thời gian này, trừ vài vị như GS Nguyễn huy Chiểu, Trần văn Liêm đến cộng điểm giúp. Trước đó, có tai tiếng, nhưng việc đó xảy ra từ phía nhân viên hành chánh. Việc này nay đă bị ngăn chặn. Vấn đề xem điểm cũng được giải quyết bằng cách công bố toàn thể các điểm của mỗi thí sinh. Nhân viên hành chánh không phải bỏ th́ giờ chép điểm cho sinh viên nhất là họ chen nhau xin xem điểm từng môn và mất tiền chè nước.  

Để giúp cho toàn thể nhân viên được phụ cấp thêm mỗi tháng v́ lương bổng theo qui chế công chức th́ rất hạn hẹp. Số nhân viên ít, họ phải làm việc nhiều hơn. GS Tráng và Tôi thường ở trường tới 10 giớ tối mới về. Khi xuống hành lang tầng trệt , thấy có khi họ c̣n thắp đèn làm việc. Tôi đề nghi GS Thông cho thu lệ phí thi cử. ngoài lệ phí ít ỏi để ghi danh, có từ thời Pháp thuộc. GS Thông  chấp thuận và tôi đưa ra vấn đề ra Hội Đồng Khoa. Có vài vị chống và tôi kêu gọi các vị bất cứ lúc nào đến trường trước 10 giờ đêm để coi. Tôi nhấn mạnh rằng trong khi có nhiều Giáo sư  lảm Luật sư hay cố vấn công ty hay ngân hàng. It nhất có 2 người làm Tổng Thư Kư hay chức vụ tương đương trong cơ quan chính quyền. Các Giáo sư chỉ phải dạy nhất 2 cours toàn niên, tổng số giờ từ 120 tới 160 giờ và  ngoài ra không lui tới trường…

Cuối cùng, mọi người thuận. Đây là tiền thuộc loại ngoại ngân sách. Ông Khoa trưởng có quyền xử dụng, nhất là trợ cấp hàng tháng cho toàn thể nhân viên hành chánh./.

Ngày 16 tháng 12, 21

Trở lại