Vợ
Lính thời Chinh chiến... Thôn Nữ Bàu Trai |
Lời
Giới Thiệu:
Tác
giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng
ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần. Đây là
một địa danh mà các quân nhân từng hành quân
ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết.
Từ câu chuyện t́nh đơn sơ, một
thiếu nữ hiền lành trở thành người
vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh,
người chồng chuẩn bị đi hành quân,
tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng
xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi,
tiếng súng đêm đêm vọng lại, những
lần từ biệt vội vàng, các chuyến về thăm
nhà bất chợt giữa các trận đánh. Người
vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc
đếm từng ngày để đến lúc tan hàng
lại tiếp tục lo cho chồng đi tù
"cải tạo". Chúng ta đă từng đọc
các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh
lửa. Bây giờ xin một lần đọc để
thông cảm cho những giọt lệ của phụ
nữ VN trong vai tṛ vợ lính thời chinh chiến.
Trong
các chị em gái của gia đ́nh, tôi là đứa con
gái nhút nhát nhất. Tôi không thích xem phim chiến tranh,
sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn
lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái
khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng.
Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi.
Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than
phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái
xe ẩu. Một
đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi
nghe tiếng gơ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi
chị em tôi vào pḥng, đóng cửa kỹ lại. Ông
bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở
cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn
ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà
tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm
trong pḥng khách. Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là
đơn vị đi hành quân về đến đây
t́m chỗ nghỉ quân. Lính
ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không
phá phách ǵ như một số người đồn
đại. Riêng vị sĩ quan ở trong pḥng khách nhà
tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm
khiêm nhượng ở một góc pḥng. Cuộc
sống gia đ́nh tôi không có ǵ thay đổi khi có
mặt vị sĩ quan này. Chúng tôi lịch sự không
đi tới lui trong pḥng khách. Ban đêm thỉnh
thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài
câu vọng cổ của các người lính trẻ
than thở nhớ gia đ́nh và người yêu. Chúng tôi
thông cảm và thương mến họ hơn. Dần
dần ba mẹ tôi có cảm t́nh với vị sĩ
quan chỉ huy.
Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện
hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia
đ́nh. Ông sĩ quan này mượn pḥng khách để
làm nơi hội họp của bộ chỉ huy,
nhờ thế gia đ́nh tôi quen biết thêm vài sĩ
quan nữa. Câu "quân
dân như cá nước"
là đúng, chúng tôi thân t́nh rất mau, có những
bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi
chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không
tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những
người lính chiến trong bộ quân phục rằn
ri không c̣n nữa. Cũng
nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đă
gặp nhà tôi sau này.
Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn
vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu
của vị sĩ quan quen thân với gia đ́nh như
đă kể trên. Một thời gian sau chúng tôi thương
nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để c̣n lên
đường đi hành quân. Có lần anh nói, gia
đ́nh hối thúc cưới vợ, nhưng "Đời
lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày
trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho
người đàn bà." Và
anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời
ly loạn. Sau đó anh đi hành quân liên tục,
thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư.
Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng
quân tại Biên Ḥa gần Sài G̣n, đây là dịp
tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám
cưới. Tôi
theo chồng về ở căn nhà trong trại quân
đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc
nhất, ngoài gia đ́nh cha mẹ thương yêu, tôi c̣n
có người chồng tính t́nh trầm tĩnh, ḥa nhă
với mọi người. Sau những ngày nghỉ phép
cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay
đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về
một lần hoặc lâu hơn tùy t́nh h́nh chiến
sự. Khi
anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết
trước nhưng dễ nhận ra ngay. Tôi thấy
những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng
dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi
vẫn mong ḿnh nghĩ lầm. Anh trở về nhà gương
mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi
hơn. Bận rộn với giấy tờ, điện
thoại và dặn ḍ người này người kia liên
tục. Tôi hiểu anh không có th́ giờ để nghĩ
đến gia đ́nh. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn
luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước
khi tôi đi theo chồng: "Con
đừng bao giờ xen vào công việc của
chồng con." Ăn
cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài
liệu. Tôi buồn v́ sắp phải xa chồng, không
biết làm ǵ hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào
sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến
gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon
ngồi, anh dặn ḍ mọi việc ở trong nhà, có
buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là
phải cất kỹ tờ giấy hôn thú. Tôi hiểu
anh muốn ám chỉ điều ǵ, tôi nghe ḷng tê tái.
Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương
tử tuất để thành góa phụ! Không, tôi
chỉ cần chồng tôi. Sau đó chúng tôi chỉ
ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân
trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào
của lính. Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nh́n ra
sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô
nặng nề, đầu đội nón sắt. Trong
số đó sẽ có người không trở lại.
Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại
lễ, những người lính trong bộ quân phục
thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành
rất đẹp. Khi
chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng
ngang hông, ḷng tôi tê tái, có một cái ǵ đó làm cho tôi
bất động, chỉ biết nh́n anh và im lặng.
Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào
má tôi nói: "Thôi anh đi".
Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn,
những lời từ giă nhiều hơn như
những lần anh đi làm việc b́nh thường
hay đi ăn cơm với bạn bè. Anh sợ làm tôi
khóc. Tôi muốn nói anh cố sớm trở về
với em, nhưng càng dặn ḍ càng đau ḷng trong
buổi chia tay. Tôi cố gắng không cho nước
mắt trào ra. Tôi nh́n anh thật kỹ, để h́nh
ảnh anh in sâu măi trong ḷng tôi. Tôi thầm nghĩ, không
biết lần này anh có c̣n trở về không? Không
thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào
giường khóc nức nở. Cảnh này cứ
diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm
vợ lính của tôi. Có lần tôi nói với anh, khi
đi hành quân cho em biết trước để em
chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng
có lẽ v́ bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân
gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện
đó. Mỗi
lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ
lớn tôi chỉ biết vào pḥng âm thầm cầu
nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến
báo tin buồn. Có lúc anh về thăm tôi th́nh ĺnh.
Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại
nghẹn ngào v́ anh ra đi sớm hơn lời hứa.
Một buổi chiều anh về và nói chiều mai
mới đi. Tôi vui mừng v́ trưa mai vợ
chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau. Nhưng
đến tối có tiếng điện thoại, anh
nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi.
Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có
tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi. Khi
tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng
quân tại Bến Tre, anh biết gia đ́nh tôi có quen
thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho. Anh hẹn
gặp tôi tại đó để anh đến thăm
v́ từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến
Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa
đến chiều mới đi. Sáng ngày ấy ba tôi
chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm
lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng
ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là
vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên
đối với anh đôi khi tôi vẫn c̣n e thẹn.
Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng
tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác
sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc
lắm. Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy
truyền tin gọi trở về đơn vị,
vậy là anh lại đi ngay. Tôi tiếp tục dùng cơm,
nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác
sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo
biệt về Sài G̣n sau buổi cơm. Trên xe ông nh́n tôi
và vuốt tóc thông cảm. Một
đêm tôi đang ngủ bỗng giật ḿnh thức
giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà
hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nh́n ra ngoài
để xem chuyện ǵ xẩy ra. Bên ngoài đêm
tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc
của người vợ trẻ vừa được
tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng
đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi.
Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng
chồng chị sẽ măi măi không trở về
nữa. Tôi trở lại giường nằm nhưng
không ngủ được, tôi thương cho người
đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân ḿnh.
Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ
khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà
mẹ già đi lănh xác chồng theo sau hai đứa con
khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn
trắng. Chúng nó vô tư không biết ǵ, thật ra ba
chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không
có lời an ủi nào làm chị vơi được
nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn
vết thương ḷng của chị mà thôi. Sau này
chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm
đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không
bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói v́ thầy bói
nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo
lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú
kêu. Một
chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân
với chồng tôi, nhà ở trong cư xá đối
diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành
quân không chắc có ngày về, tinh thần của
chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những
lần thay mặt gia đ́nh đi dự đám tang qúa
nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận.
Tinh thần đă sẵn yếu, ngày càng trở nên suy
sụp. Lúc
ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc
an thần. Sau này may mắn được di tản qua
sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh
khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí,
thể xác trông cậy vào người chồng thủy
chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến
trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá
tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người
vợ tao khang, quen biết từ thuở c̣n niên
thiếu. Ngày
tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép,
anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc
cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa
cho như vậy là không tốt là bị "mắc
phong long". Mấy ngày sau tôi rời nhà thương,
anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia.
Nh́n anh đi tôi khóc măi v́ nghe tin đồn ở
Campuchia thường bị "Cáp duồn". Mẹ tôi
khuyên "Con mới sanh khóc như thế không tốt
đâu". Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến
sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn
con tôi mất cha. Hàng
ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi
chỉ biết cầu nguyện. Đến
năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh,
mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước
nhà, nhưng anh không thích lắm. Riêng tôi vui vẻ hơn
v́ đây là dịp mẹ con tôi được
sống với anh hàng ngày. Tại đây anh vẫn
phải đi xuống thăm các quận thường
xuyên. Đă có các sĩ quan thỉnh thoảng bị
chết v́ địch phục kích dọc đường,
cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh. Ngày này
qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn
bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là
tôi biết anh đă b́nh yên trở về. Có những
chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm
được, vào pḥng ngồi bất động âm
thầm cầu nguyện. T́nh thương đă
khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở
cửa từ xa tôi đă nghe được, lúc đó
tôi mới thở phào nhẹ nhơm, đi ra ôm lấy con
và cùng nhau ra đón ba nó. Có
những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng
lấy con, một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau
khi đợt pháo kích đầu tiên đă chấm
dứt, anh phải vội vă từ giă mẹ con tôi
để băng qua cửa hông nhà đi xuống
hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ
huy yểm trợ các đơn vị đồn trú
địa phương. Muốn cho chồng luôn
được b́nh yên và tôi bớt đi nỗi lo âu
để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm
tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục
đỡ đầu đă cho anh ngày rửa tội. Tôi
nói "Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo
mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù
hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh." Tôi
biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói
thêm "Anh thương em hăy nhớ lời em
dặn." Ngày
tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng
sôi động, cho đến một ngày mẹ con tôi
từ giă anh, trở về ở với ngoại, để
anh không phải bận tâm gia đ́nh. Chúng tôi từ giă
đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nh́n anh
rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít
hơn. Khi
cuộc sống của người vợ lính thời
chiến chấm dứt th́ những ngày nghiệt ngă
mới lại bắt đầu. 30/04/75 đă
chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của
chồng tôi và anh đi tù với mười
ba năm "cải tạo".
Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con,
nỗi lo âu vẫn c̣n và sự mong đợi chồng
về mỏi ṃn hơn. Sau
cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đă trở về. Anh
vẫn c̣n giữ xâu chuỗi ngày xưa đă cùng anh
sống trong ngục tù với những chỗ bị
đứt đă nối lại và rơi mất một
hạt. Hơn
hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm
vợ tù "cải tạo" của thời b́nh, là
người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm ǵ
đâu mà suốt đời chỉ sống với nước
mắt. Chiến
tranh đă cướp mất tuổi thanh xuân của
bao nhiêu người vợ trẻ. Chỉ c̣n lại
Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân
tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và
nghèo khó. Tháng
Tư 2004 (Mến tặng Anh Chị Đồ Sơn) |