VƯỢT
BIÊN Tiểu Đĩnh |
Người
xưa tóm gọn đạo làm người trong sáu
chữ: "Có trời mà cũng có ta." Đầu
năm 1993, tôi đang ngụ tại Thành phố Carson,
Nam California th́ một hôm anh Trịnh ḥa H., cựu CHT/
Liên Đoàn Người Nhái của Hải Quân/VNCH
đến thăm, dẫn theo một người
Việt Nam. Tôi nhận ra đó là anh Nguyễn D,
nhờ nh́n thấy bàn tay trái của anh ta chỉ c̣n có
một ngón cái do thương tích của thời anh
phục vụ Lực Lượng Hải Tuần HQVN/CH
năm 1964. Gặp anh lần đó mới hay anh bị
kẹt lại Đà Nẵng từ tháng 3 năm 1975,
đi tù cải tạo, rồi vượt biên sang Hong
Kong, ba ngày sau th́ được đưa sang Mỹ. Tôi
biết anh D. từ tháng 5 năm 1961 tại BCH/Duyên Khu
Đà Nẵng khi anh xin gia nhập Binh chủng Hải
Thuyền thuộc Hải Quân VNCH. Không giấy khai sinh,
anh chỉ cho biết nơi sinh trưởng là một làng
duyên hải thuộc Cầu Hai, Lăng Cô, tỉnh
Thừa Thiên. Quê anh cơ cực đến nỗi
đa số tên họ của người dân bản
địa chỉ có hai chữ; c̣n anh th́ từ 7, 8
tuổi, phải theo người lớn ra khơi đánh
cá tuần lễ bảy ngày. Nói về chữ nghĩa
th́ thấy anh kư tên chữ Thập. Về nghề
nghiệp, nếu ai muốn biết ǵ về biển
miền Trung từ Cửa Việt, Quảng Trị đến
Sa Huỳnh Quảng Ngăi, th́ nên hỏi anh. Nh́n
mặt biển, anh biết bên dưới có tôm cá
loại ǵ, làm cách nào để bắt. Nh́n mây
trời th́ biết sấp có hay không có băo tố,
nếu có th́ lành dữ ra sao. Xuống nước, anh có
thể bơi nhiều giờ, lăn sâu đến 20 thước,
dùng chĩa đâm được cá và cả tôm hùm dưới
biển. Về sau tôi biết thêm hai việc. Một là
anh c̣n cái khả năng ngộ nghĩnh là đứng
trên thuyền bước xuống nước, dùng hai chân
bơi thẳng người sang chiếc thuyền
gần đó, đầu và hai tay không bị ướt.
Hai là bắt tôm hùm dưới nước, không khéo
sẽ bị đuôi nó búng làm đứt thịt
ở bàn tay. Môi sinh của anh là biển cả. Tháng
6 năm 1961, BCH/Duyên Khu Đà Nẵng nhận lệnh
huấn luyện hai khóa Biệt Hải. Khóa I kéo dài 10
tháng, gồm 150 tuần viên Hải Thuyền; các
huấn luyện viên là lính SEAL[1] người Mỹ
đến từ Hoa Kỳ. Chương tŕnh huấn
luyện gồm nhiều môn nguy hiểm đến độ
tỉ lệ thương vong trong khi huấn luyện cao
đến 5%, hay là tám thương vong cho cả khóa.
Anh D. t́nh nguyện theo học. Người thâm niên quân
vụ nhất trong khóa I Biệt Hải này là Hải Quân
Trung úy Trịnh ḥa H., khóa 7 Hải Quân Nha Trang Do
thế mà hai anh biết nhau, rồi thành bạn thân
từ đó. Nh́n
bề ngoài khó biết hết khả năng quân sự
của anh D.sau khi anh tốt nghiệp khóa huấn
luyện đầy gian khổ nói trên. Ngày thi măn khóa,
anh và các học viên từ trực thăng ở độ
cao 30 thước nhảy xuống biển, bơi 5
hải lư, lên bộ tiếp chạy đường trường
10 ngàn thước, đến điểm hành quân,
tấn công bằng súng tiểu liên và lựu đạn,
đánh xáp lá cà, bơi ra biển để được
kinh tốc đĩnh vớt đưa về hậu
cứ... Riêng môn này đă làm thiệt mất hai
học viên khi nhảy trực thăng, và loại
bỏ 60 học viên khác v́ thiếu điểm chuyên môn.
Khi thi môn tác xạ chính xác, anh dùng súng lục, vừa
bắn vào một lon bia nằm trên mặt đất cách
anh 10 thước, vừa đẩy nó ra xa bằng
nhiều đạn từ ṇng súng của anh bay ra.
Một chai bia Larue ném lên cao, anh cầm súng lục, hươi
ngược ṇng từ dưới lên, bấm c̣ là chai
bia nổ tan tành. Chai không nổ tan, không tính điểm. Tiếp
theo là thầy H. của anh bước ra, súng lục
cầm tay. Tiếng súng colt-12 nổ vang, lon bia chạy
trên đất nghe lon con, lon con. Hai chai bia tung lên cao, sau
vài giây là bị trúng đạn từ ṇng súng của
xạ thủ, bể nát trên không gần như cùng
một lúc. Tôi thấy hai anh. bắn hay và thật hơn
Robert Taylor trong phim High Noon, hơn Allen Ladd trong Shane, hơn
cả Clintwood trong The Good, the Bad and the Villain. Khi bắn
để đóng phim, ba ông tài tử gạo cội này
được đạo diễn dàn ra như thế,
chưa chắc họ bắn đạn thật. C̣n anh
D.và anh H. và các học viên Biệt Hải khác th́ tác
xạ đạn thật, không dàn cảnh. Thời
đó, học viên được ba xạ thủ người
Mỹ từng nhận huy chương thi bắn của
Thế Vận hội Opympic, huấn luyện rất
kỹ về môn bắn súng theo linh tính. Kế
đó các học viên xạ thủ bước ra
lần lượt biểu diễn. Kết quả
chỉ có 32 trên 80 học viên học tác xạ theo linh
tính qua được điểm loại. Để
huấn luyện hai khóa Biệt Hải này, nói thật
là đơn vị tôi phải nhờ sự yểm
trợ tinh thần của BTL/QĐ I và vật chất
của BTL/SĐ2BB của Đại tá LVP và ông Thị
trưởng Đà Nẵng, ông HTL. Cụ thể là Ṭa
Thị chính mỗi ngày cấp cho mỗi học viên
Biệt Hải một hộp sữa đặt có
đường, thanh toán những hóa đơn
đơn vị tôi ra phố mua gạo nuôi các học
viên. Sư Đoàn 2 th́ mỗi tuần cấp cho hai ḅ
tơ mổ thịt. Học viên thức dậy mỗi
ngày từ 4 giờ sáng, uống sữa, ăn sáng,
chạy bộ ra thao trường, bao giờ đói
bụng th́ HLV dẫn về cho ăn, ăn xong th́
tiếp tục huấn luyện nhiều khi cho đến
giờ muộn trong đêm. Bếp của học viên
phải sẵn cơm sẵn thức ăn 24/ 24, ngày này
qua ngày nọ cho đến khi măn khóa. Sau
khóa huấn luyện, các chiến sĩ Biệt Hải
có quân phục và huy hiệu riêng[2], thành chiến sĩ
“không chân dung[3], “ tham dự các cuộc hành quân bí
mật, lùng sục tảo thanh các mật khu, tạo
nhiều thành tích cho quân chủng. Người Nhái
Hải Quân gài ḿn hay phá ḿn do tự ḿnh hay người
khác đặt. Chiến sĩ Biệt Hải ngoài
việc đặt ḿn, gỡ ḿn c̣n chuyên ŕnh bắt
hay giết những ai đặt ḿn mà không có phép. Năm
1964, hai anh và nhiều Biệt Hải khác gia nhập
Lực lượng Hải tuần hành quân ngoài hải
phận. Khi chấm dứt cuộc chơi, anh D. về làng
cũ rồi định phận khiến anh phải vào
ṿng cải tạo. Theo
lời anh kể, khi vào trại tập trung th́ anh
giấu nhẹm việc anh từng là lính Biệt
Hải. Sống đời tù, anh không hối tiếc
những vụ bắn mổ thời anh phục vụ
binh chủng của ḿnh, cũng không thắc mắc
về những ǵ anh phải gánh chịu khi phải
bị giam, mà trái lại, anh cho tất cả là do
lẽ công chính đầy t́nh thương của
trời đất. Anh tin những ai ra đi trước
hay sau ngày 30 tháng 4, hay những ai c̣n kẹt lại
đều được bề trên xét duyên nghiệp
của từng người mà ban cho từng bài học
khác nhau về ư nghĩa của đau khổ cũng như
về tai ương trên cuộc đời này.
Những trại viên hay cai tù chỉ là diễn viên
trong một thời, đến vai th́ lên sân khấu,
hết th́ xuống, không lực nào cản nổi. Cái
cần là cá nhân ai cũng phải diễn cho hay, nghĩa
là diễn với một lương tâm b́nh thản, không
hoảng sợ. Và anh sống với niềm tin đó
cho đến khi kịch tính đầu tiên xảy ra. Một
hôm, trưởng trại cải tạo cho tập
hợp tù nhân hỏi ai biết bắt tôm. Nghe hai
tiếng “bắt tôm,” anh liền nhớ lại
nghề cũ của anh, rồi đưa tay. Có
tiếng xầm x́ giữa các bạn tù, chê việc anh
t́nh nguyện phục vụ cho địch. Nghe rơ
thế nhưng anh ẩn nhẫn làm thinh, trong khi anh nghĩ
đang cảnh cá chậu chim lồng, anh phải
tạm thời thỏa măn nó cho nó bớt làm khổ
anh em. Trại chuẩn bị đầy đủ
dụng cụ câu kéo cho anh rồi hôm sau, hai cán bộ
vơ trang vào trại, dẫn anh đến bến sông, cùng
nhau lên thuyền máy chạy ra biển. Đó
là lần đầu anh được trở về môi
trường quen thuộc của anh sau nhiều năm
bị giam cầm. Tại vùng biển này, anh thấy có
một rạng san hô rộng chừng vài mẫu Tây. Anh
cho thuyền đến gần đó thả dây câu
được 14 con tôm cỡ trung th́ đă xế bóng.
Anh đề nghị mỗi cán bộ nhận giùm 2 con,
c̣n 10 th́ mang về cho trại trưởng. Cán bộ
nh́n đồng hồ tay rồi hối anh thu đồ
nghề, chạy thuyền về bến. Từ đó
trại trưởng mỗi tuần vài ba lần kêu anh
ra biển câu tôm. Tiêu chuẩn 10 tôm mỗi chuyến. Gần
bốn năm sau, khi tổng kết anh đă bắt hơn
sáu ngàn tôm nộp cho trưởng trại, anh được
tạm tha cho về nhà, tiếp tục bị quản
chế. Lúc đầu anh theo thuyền đánh cá làm thuê
cho người khác. Nhờ biết chỗ có động
tôm ngầm dưới nước, anh cho thuyền đến
đó là câu bắt dễ dàng. Ngoài ra, nơi nào có
ổ tôm là ở đó có cua và bạch tuộc. Cua
đến ŕnh bắt tôm con mà ăn. Bạch tuộc
đến ŕnh bắt cua để bắt hút thịt.
Nhờ thế anh lặn bắt thêm hai loại này mang
về cho nhà chủ bán tăng thu nhập trông thấy.
Góp công làm của, anh gom vốn mua lại một
thuyền đánh cá có máy và cả buồm rồi xin
ra nghề. Công an địa phương thuận
cấp phép nhưng mỗi khi làm nghề, anh phải
nhận một lính công an mang súng AK với một
gấp đạn theo thuyền anh ra biển. Từ
đó anh thường ra chợ gần nhà để bán
hải sản anh bắt được. Nhờ thế
mà anh quen nhiều khách hàng. Anh đối xử
rộng tay với họ khiến lâu ngày thành chỗ thân
t́nh. Trong số những bạn mới này, có nhiều
người là thân nhân của một số lớn anh
em c̣n bị giam trong trại. Nhớ đến các
bạn c̣n bị giam, anh để dành thịt, cá,
mực, phơi khô rồi nhờ những người
đi thăm nuôi mang vào cho anh em anh quen trước. Anh
coi việc anh làm chỉ như hột muối bỏ
biển, nhưng anh đă để vào đó tất
cả tinh thần đảm nhiệm của ḿnh.
Rồi những ai trước kia từng chửi xiên
chửi xéo anh, nay được anh tiếp cho một
ít thực phẩm, liền quay sang nghĩ tốt về
anh. Có thực mới vực được đạo
là thế. C̣n anh từ khi được bồi dưỡng
đầy đủ, anh lần hồi cảm thấy
sức khỏe trở lại, tưởng như tay không
đánh chết hổ dữ [4]. Khi
nghe tin có người vượt thoát Việt Nam
bằng đường biển đi Phi Luật Tân và
Hong Kong, anh âm thầm sửa lại cột và cánh
buồm, mua thêm nhiên liệu, trữ nước
ngọt cùng lương thực, mỗi ngày anh mang
xuống thuyền một ít cho đến khi đủ
số. Chiếc thuyền cũng được sấp
xếp thành có nơi kín đáo giấu vợ con.
Với kinh nghiệm Hải Tuần năm xưa, anh t́m
mua một la bàn, một cái đồng hồ, gần
hai chục trái sáng, hai súng lục, hai súng cat-bin cũ cùng
đạn của quân đội miền Nam bỏ
lại mà lính Bắc Việt không dùng. Anh nói anh mua
những thứ “quốc cấm” tại mấy
chợ chồm hổm ở nhà quê theo kiểu có
tiền th́ mua chi cũng có. Ư của anh là vượt
biên với chiến lợi phẩm để... làm
quà cho chính quyền Hong Kong. Đến
một buổi sáng, anh và anh công an ra khơi hành
nghề. Thấy biển có thể êm được ít
nhất là bốn đến một tuần, anh D.
quyết định vượt biên. Anh kín đáo đổ
bớt dầu chạy máy xuống lường
thuyền rồi nói với viên công an rằng anh
kiểm tra thấy thùng nhiên liệu bị nứt, nhiên
liệu chảy gần hết, phải quay về nhà
đổi thùng c̣n tốt, đầy nhiên liệu. Anh
lính công an không biết sao hơn là nói thuận. Khi
về lại bến, buộc thuyền, bước lên
bờ, anh D. đưa cho anh lính công an tí tiền đi
uống rượu tại cái quán khuất sau mấy lùm
cây, trong khi anh về nhà kêu vợ và con phụ mang
mấy thùng nhiên liệu xuống thuyền, rồi
trừ anh ra, mọi người chui nằm trốn nơi
anh dọn sẵn từ trước. Kiểm tra đâu
đó an toàn, anh đi bộ ra quán gọi anh công an
xuống thuyền để tiếp tục... đánh cá
kẻo muộn giờ. Anh nói:” Lúc bấy giờ
chỉ có một ư chí là khi thuyền em ra cửa
biển mà lỡ bị phát hiện th́ bắt buộc
em phải khống chế anh công an, kể cả thanh toán
nếu cần.” Thường
khi ra biển th́ anh công an ngồi trước mũi
thuyền, súng AK để bên cạnh, không lên đạn.
Khi cần ăn th́ anh ta tự động chọn trong
số tôm cá anh D.bắt được, con nào anh ta
ưng ư th́ lấy nướng mà ăn với
muối, ăn mệt th́ nghỉ. Nhưng hôm đó,
số anh ta được ăn uống ngon lành như
thế th́nh ĺnh chấm dứt. Lư do là lúc thuyền ra
xa, không c̣n thấy bờ, anh D. tắt máy, đứng
lên, tay cầm khúc cây có cạnh, nói với anh công an:
” Hôm nay tôi vượt biên. Anh đưa súng cho tôi.” Anh
công an tỏ vẻ giận dữ, chụp súng. Nhưng
khi đảo mắt nh́n quanh thấy biển mênh mông và
anh D. to con, đứng gần bên với khúc cây trong
tay, hắn ta biết khôn nhất là nên nghe lời. Lúc
đó th́ vợ anh D. đẩy sạp, cùng con lục
tục ḅ lên. Anh công an cảm thấy ḿnh bất
lực, đành ngồi yên tại chỗ, mặt
từ đỏ chuyển sang trắng bệt. Anh
D. tịch thu khẩu AK và gấp đạn, mang về
phía lái thuyền, cho vào khoang thuyền rồi đậy
nắp lại; thêm một chiến lợi phẩm. Anh
cho máy nổ, tiếp tục đi, anh công an ngồi
đàng mũi thuyền, không trói, để nếu
thuyền bị ch́m th́ c̣n tay để bơi. Đến
quá ngọ, vợ anh lấy cơm nắm và thức
ăn cùng nước uống ra phía mũi cho anh công an,
nhưng anh ta không đụng đến. Chiều
tối anh ta cũng nhịn đói nhịn khát, mặt
buồn hiu. Anh D. lái thuyền theo hướng la bàn
chỉ số 040, hi vọng đến hải đạo
quốc tế sẽ gặp thương thuyền
ngoại quốc, trong khi vợ anh tay thủ khúc cây,
thức canh mọi động tĩnh. Các con anh th́ chui
xuống khoang dưới, nằm im. Chung quanh chỉ c̣n
nghe tiếng gió đuổi sóng vỗ vào mạn
thuyền Sau
đó th́ nghịch cảnh trên biển xảy đến,
anh nói anh như trải qua mấy tầng địa
ngục khi sóng gió nổi lên, mưa mù mịt, máy
chết, phải dùng buồm, rồi cột buồm
bị găy, thuyền tṛng trành chực đắm, anh
bắn nhiều trái sáng th́ may gặp một thương
thuyền đến tiếp cho thức ăn, nước
ngọt, sửa máy cho chạy lại, tặng anh thêm vài
can dầu cặn rồi....bỏ đi sau khi ra dấu
cho anh biết anh c̣n cách Hong Kong khoảng 100 hải lư. Anh
cố gắng lái thuyền đi tiếp hải tŕnh
khi đó đă kéo dài gần bảy ngày. Hai hôm sau th́
đến Hong Kong. Ca nô chở Cảnh sát địa phương
ra chận thuyền anh lại kiểm tra sơ khởi
rồi kéo về giao cho trại tị nạn Landau.
Giới chức trên trại khám kỹ thuyền anh,
thấy có lựu đạn và súng với cả trái sáng,
bèn trói anh và anh công an, lôi xệch lên bến, đẩy
cả hai vào xe bít bùng, chạy về bót Cảnh sát.
Anh bị ghép tội định mang vũ khí tấn công
trại, trong khi vợ con anh không biết ra sao! Tại
bót Cảnh Sát có người nói tiếng Việt Nam
lấy khẩu cung. Anh thành thật khai anh là tù cải
tạo, vượt biên, anh công an là người
được lệnh quản lư anh về mặt an
ninh, bị ép phải theo anh; c̣n số vũ khí anh mang
theo là để làm quà cho trại, và dùng đánh
bọn cướp biển nếu có, v́ anh từng là
chiến sĩ Biệt Hải Cộng Ḥa miền Nam, do
người Mỹ huấn luyện tại Đà
Nẵng năm 1961. Người lấy khẩu cung nghe
hai tiếng Biệt Hải liền ngước mắt
nh́n anh như đánh giá hư thực của lời
anh vừa nói, rồi kêu anh cho biết tên bất
cứ một người Mỹ nào từng là huấn
luyện viên của anh. Anh chau mày động năo
rồi phun ra hai tiếng: “Phít Shơ.” Cuộc
khẩu cung tạm ngưng, chờ kiểm tra lời
khai. Anh với tên lính công an được đưa
về lại pḥng giam. Hai
hôm sau, vào lúc 9 giờ sáng, bốn cảnh sát viên Hong
Kong với hai người dáng Tây phương vào pḥng
giam gọi anh theo họ lên xe đi gặp vợ con
để được đưa sang Hoa Kỳ. Anh công
an cũng được theo anh v́ có công bảo vệ
một “lính Biệt Hải VNCH do người Mỹ
huấn luyện” suốt chuyến vượt biên. Anh
công an nghe nói ḿnh phải sang Mỹ, bèn khóc lớn, xin
được trả về Việt Nam. Anh ta nói:” Người
Mỹ xâm lăng Việt Nam. Bắt tù binh lính bộ
mang về nuôi tốt. Bắt lính công an th́ mang về
mổ thịt!” Khuyên cách ǵ cũng không nghe, đành
để anh ở lại. Khi
đến Hoa Kỳ, anh D. và vợ con được hướng
dẫn thi hành thủ tục nhập nước Mỹ.
Sau đó, anh xin định cư tại San Diego, không xa
biển, cho anh có dịp đi... bắt cá bắt tôm. Nơi
đây có vợ chồng một cựu quân nhân người
Mỹ nhận bảo trợ gia đ́nh anh. Khi
được tin anh đang ở San Diego, ông thầy
Trịnh ḥa H. của anh, từ Los Angeles lái xe xuống
thăm, giúp dàn xếp cho các con anh đến trường,
riêng anh th́ học nghề cắt cỏ để
kiếm sống. Ngày rảnh anh đi câu. Cá tôm bắt
được mỗi lần vài chục cân. Anh mang
về, giữ một phần cho gia đ́nh, phần c̣n
lại anh mang tặng người bảo trợ và
những chủ nhà thuê anh làm vườn. Anh gây
được cảm t́nh với họ nhờ
những quà tặng này và sự cần mẫn trong
việc anh được thuê làm. Số người
nhờ anh chăm sóc sân vườn ngày càng đông;
anh phải thuê người phụ giúp. Các con anh ngày
nghỉ học, thay v́ đi chơi th́ làm vườn
với anh, được chia tiền công. Sau hơn 10 năm
sống ở Mỹ, anh về Việt Nam thăm làng xưa,
t́m lại những bạn tù cũ, giúp mỗi người
một ít vốn làm ăn. Sau
khi kể lại chuyện này, anh D. nói. ” Em học
được ở thầy H. của em trong đời
em phải biết có Trời, giữ đại hiếu
với cha mẹ ông bà, công b́nh với đất và
biển, chí t́nh trọn đạo với gia đ́nh,
ân nghĩa với anh em, trung thành với mảnh đất
miền Nam tự do đă nuôi dưỡng em. Em theo
đó mà phục vụ đất nước theo
khả năng thấp kém của em, đă đổ máu
v́ quê hương, và ở lại chịu cảnh tù
đày khi đất nước bị bại vong.
Nặng t́nh với đất nước, cực
khổ cách chi em cũng chịu được. Nhưng
em phải phải liều chết mang vợ con đi v́
em không chịu được lối sống em cho là trái
đạo làm người. Đời em được
như ngày nay trước là nhờ Trời thương
em, kế là ông Hồ tấn Quyền, cựu Tư
lệnh Hải Quân, người đă lập ra binh
chủng Hải Thuyền và lực lượng Biệt
Hải để cho em có dịp gia nhập. Và ông cũng
trung thành với cụ Ngô đ́nh Diệm cho đến
chết.” Tôi
tin người ta đă giết nhầm ông cố Tư
lệnh Hồ tấn Quyền về tiếng ông trung thành
với nhà Ngô. Nhầm là v́ Hải Quân là quân
chủng mang tính bảo thủ, không chấp nhận
những xáo trộn, kỵ nhất là binh biến [5] ;
chỉ có Hải Quân và Quân Đội các nước
thật là chậm tiến mới tham gia vào những
thay đổi chính quyền. Nói khác, trong những ngày
động binh tháng 11 năm 1963, cho dù người
đứng đầu miền Nam là ai chăng nữa,
th́ Hải Quân cũng cương quyết bảo
vệ chính quyền hợp pháp. Ngoài ra tự cổ
kim, bề tôi trung luôn được lịch sử
đánh giá về mặt đạo đức, cao hơn
bọn phản thần và tạo loạn. Tôi muốn góp
ư với anh D. điều này, nhưng anh tiếp: “Sau
cùng là ông thầy H., người đă kết em làm
nghĩa đệ. Và cũng chính hai tiếng Biệt
Hải và Phít Shơ em tuyên xưng tại trại giam
Hong Kong đă đưa em một bước từ
trại tị nạn ở đó, bay vù sang Mỹ.
Nếu không, em sẽ bị trả về Việt Nam,
lại vào tù rồi sẽ không bao giờ có ngày ra,
vợ con sống cũng như chết.” “Phít
Shơ” là ǵ vậy? Năm
1961 và 1962, Trung úy George M. Holt dẫn một toán 12 lính
Seal Hoa Kỳ sang Đà Nẵng giúp huấn luyện Khóa
I và khóa II Biệt Hải cho Hải Quân Việt Nam. Thượng
sĩ Allen K. Fisher là một huấn luyện viên trong nhóm.
Tôi nhớ tên ông này do thời gian huấn luyện khóa
I Biệt Hải, một hôm Trung úy trưởng toán
đến xin tôi giúp ông bốn Quân Cảnh. Lư do là ông
vừa nhận công điện từ Mỹ báo tin con gái
6 tuổi của Thượng sĩ Fisher bị chết
ch́m tại hồ bơi công cộng. Đề pḥng tin
con bị tử nạn khiến Fisher “Tarzan nổi
giận” rồi đánh người hay rút súng bắn
lung tung, Trung úy trưởng toán cần có Quân Cảnh
để ḱm hăm đương sự nếu cần
phải làm thế. Học viên trưởng khóa I
Biệt Hải là Hải Quân Trung úy Trịnh ḥa H... cũng
có mặt, nói:” Tôi có anh tuần viên D. và bốn Vọi [6]
khác, khi có lệnh là một trong anh em nhảy ra, điểm
trúng tử huyệt Bách hội và Nhĩ môn của
Fisher là xong, nhưng chúng tôi cần có Quân Cảnh
để viết biên bản, trường hợp
phải dùng vũ lực.” Đúng
vậy, lần đó Fisher khi nghe báo hung tin gia đ́nh
th́ liền phát khùng, hai mắt đỏ ngầu, cung
tay định quậy. Khi nh́n chung quanh thấy có Quân
Cảnh và mấy Vọi người
Việt, mặt lạnh như tiền, Fisher ngại
ăn đ̣n, bèn đứng yên, ngoan ngoăn nhận
lệnh chuẩn bị hành trang cá nhân, đi phi trường
Đà Nẵng, chờ máy bay về Mỹ và không
trở lại Việt Nam nữa. Trung úy trưởng toán
thở dài như vừa trút được một gánh
nặng. Chỉ
trước đó khoảng ba tuần, một hôm vào
buổi trưa nắng nỏ, ông Đại úy Đặng
văn H. chánh văn pḥng Tướng TL/QĐ1, gọi
điện chuyển lời ông tướng nhờ tôi
giải quyết tin có “Lính Mỹ nghi là cố vấn
Hải Quân đang ngồi cḥ hơ bán cá tại chợ.
“Pḥng liên lạc Hải Quân bên phố Đà Nẵng
lập tức cho người đến xem, rồi báo
cáo có một nhóm bốn lính Seal Mỹ, đầu
đội mũ đi rừng, da màu đồng đỏ,
mỗi ông trên người chỉ độc một
quần x́ líp, đang ngồi cạnh một đống
cá, miệng rao: “ Buy fish! Buy fish!” Đứng đầu
và rao to tiếng nhất là Thượng sĩ Fisher.
Trung úy Holt trưởng toán Seal đang ở nhà,
được báo tin bèn đến kiểm tra, rồi
lịch sự mời bốn ông thuộc quyền,
chịu khó mang cá về v́... chợ chiều đă tan. Tên
Fisher trong tiếng Mỹ là ngư ông. Ngư ông đi bán
cá là đúng chỉ số. Nhưng cá từ đâu mà
có? Th́ ra hừng sáng hôm đó, mấy thầy dẫn
các học viên Biệt Hải xuống xuồng cao su
chạy ra vùng biển quanh cù lao Chàm thực tập môn
nổ ḿn từ đáy nước. Số cá chết do
sức nổ được mang về bếp của
Biệt Hải, nấu làm thức ăn bồi dưỡng
cho anh em học viên. Huấn luyện viên cũng
được chia cá mang về câu lạc bộ
của họ bên phố Đà Nẵng làm thức ăn
tươi, số ăn không hết th́... mang đi bán. Tân
Ước Cộng giáo ghi Chúa Jesus thời bắt đầu
đi giảng đạo có gọi 12 vị Tông đồ
theo Ngài rao Tin Mừng. Đa số các vị này vốn
là ngư ông trên biển hồ Tiberias [7], xứ Do Thái
ngày nay. Thế th́ việc tên Fisher -người đánh
cá- của ông lính Seal mang tiếng hung hăng, giữa
trưa mặc x́ líp ngồi giữa chợ rao bán cá
kia, được bề trên dùng để cứu toàn
thể gia đ́nh của anh D. như trên th́ gọi là
ǵ? Một vài ông bạn tin theo phái vô thần và phi
thần, người đầy trí lự và dũng
cảm, cho đó là sự ngẫu nhiên của định
luật vật lư mà ra, không phải do ư trời. Tôi
thấy lư lẽ họ đưa ra để phủ
nhận Thượng đế là không vững, v́ người
xưa có câu “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền
định,” nghĩa là mọi thứ phải theo
luật nhân quả. Lại nữa, tôi không thể
trả lời cho câu hỏi “Ai là người đặt
ra luật nhân quả và luật vật lư nói trên?” Làm
sao có phương tŕnh Tương Đối nếu không
có Albert Einstein? [8] Nói hùa theo họ mà nhỡ Thượng
Đế có thật th́ biết nói năng ra sao! Ngoài
ra, những ông vô thần và phi thần thứ
thiệt, không tính thứ dỏm, thứ “nói theo cho
oai,” đếm khấp thế giới chỉ trên dưới
10 đầu ngón tay. Trong số này, từ Friedrick
Nietzsche trở đi, nay khám phá ra th́ ông nào cũng không
vướng khuyết tật bẩm sinh th́ cũng mang
bệnh mà thời quí ông đó c̣n sinh tiền, y khoa chưa
có thuốc trụ sinh để chữa. Do đó mà các
ông đă giận trời giận đất rồi
phủ nhận Thượng đế hay đặt Thượng
đế ra ngoài cuộc sống con người chăng? Khác
với Lỗ trí Thâm, Allen K. Fisher không cạo đầu,
không mặc áo nhà tu, mà c̣n mang tính hung bạo, bất
cần đời. Nhưng khi trong cơn tuyệt
vọng, anh D. chỉ nhắc đến tên ông th́
liền được ơn trên giải cứu. Anh D.
sao quên được điều này. Rồi tuy có
cuộc sống tương đối an nhàn tại
một đất nước do anh lựa chọn làm nơi
sinh sống nuôi vợ dạy con, hẳn anh đôi
lần cũng cảm nỗi đau khổ khi nhớ
lại cảnh năm 1961, khi anh chờ lệnh của
thầy H. để nhảy vào điểm tử
huyệt của Thượng sĩ Fisher. Nếu anh
lỡ quá tay, đ̣n độc của anh có thể
khiến ông Fisher nhẹ th́ bại liệt, nặng th́
tử vong. Tôi
biết được nỗi thống khổ này
của anh D. khi vài năm sau, nhân dịp đi thăm người
bạn ở đường Eagle Rock, quân hạt San
Diego, Nam California, tôi báo anh D. trước hai ngày
rằng tôi xin được ghé thăm anh tại nhà cũng
gần khu đó. Đến nơi thấy trên bàn
thờ, ngoài di ảnh của vợ anh, c̣n có tấm
bảng gỗ khắc tên Allen K. Fisher. Thấy tôi nh́n
tấm bảng, anh nói:” Khi sang Mỹ, ổn định
xong xuôi th́ em nhờ thầy H. của em t́m ông Fisher
để báo ông biết tên ông đă cứu toàn
bộ gia đ́nh em như thế nào. Nhưng lúc đó
th́ ông đă mất. Tin tức gia đ́nh của ông cũng
không luôn. Em thuê thợ khắc tên ông trên bảng
để thờ. Ngày nào đến giờ cơm, em cũng
mời vợ em và ông Fisher và một người khác
về dùng bữa với em. Ông thầy H. của em nay cũng
đă ra đi [9]. Em đang t́m xin thỉnh di ảnh
của ông thầy em về đây luôn. Nếu ông có,
ông cho em xin. Mâm cơm hàng ngày của em nay thêm một
bát thứ tư dành cho người vừa quá cố.
Con cái em nay có cuộc sống riêng của chúng. Em nghĩ
nghiệp của em quá nặng, nên ai người em thương
cũng đều bỏ em mà đi.. Em phải biết
sám hối thêm nữa mới mong được b́nh
an.” “Anh
thắc mắc điều ǵ?” tôi hỏi. Nói
được đến đó, anh cho tay trái vào túi
quần, dùng ngón cái duy nhất c̣n lại, anh kẹp
một góc chiếc khăn tay màu cháo ḷng, đưa lên
chậm mắt, trong khi cánh tay c̣n khỏe kia vịn vào
chân chiếc bàn thờ, tưởng như để giúp
anh khỏi bị quị xuống. Tuổi anh năm
đó xấp xỉ 70. Tôi
quay nh́n ra cửa sổ, bỗng thấy ṿm trời xanh
lơ như đang như bừng sáng rồi tư
từ hạ xuống rất gần, tay tôi có thể vói
sờ được [10]. Tiểu Đĩnh |