BA MƯƠI THÁNG TƯ |
Tháng
3/75, tôi đang học lớp Tham Mưu cao cấp ở
SàiG̣n, th́ được lệnh biệt phái qua Bộ
Xă Hội của BS Phan Quang Đán và đổi ra An
Thới, Phú Quốc khoảng cuối tháng 3/75 để
giúp đồng bào tị nạn từ miền Trung
chạy vào. Chính phủ sợ nếu để đồng
bào miền Trung vào Nam tự do th́ không thể kiểm
soát được, do đó đă tập trung vào
trại tỵ nạn An Thới và do HQ vùng 4
kiểm soát. Ngày 26/4 tôi xin phép về SG và 28/4 tôi đem
bà xă và đứa con 3 tuổi trở lại An
Thới. Bà xă tôi lúc này đang có bầu cháu thứ
hai độ 3-4 tháng. Phương tiện di
chuyển bằng Air VN đều do Bộ Xă Hội
đài thọ. Tôi vẫn tiếp tục làm việc
tại trại tỵ nạn, xem như đem gia đ́nh
ra Phú Quốc để tránh VC pháo kích. Đêm
29/4, mọi người đang an giấc bỗng nghe
tiếng động cơ của một số tàu tách
bến nhưng không biết chuyện ǵ đă xẩy
ra. Sáng 30/4, tôi đang làm việc ở trại tỵ
nạn, lại nghe trên máy phóng thanh loan báo tất
cả nhân viên HQ tập họp tại Bộ Tư
Lệnh HQ Vùng 4 lúc 10 giờ sáng để nghe Tư
Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải (TL/HQ/V4/DH) nói
chuyện. Ông nói rất tóm tắt rằng TT Dương
Văn Minh đă ra lệnh đầu hàng VC. Do đó
kể từ giờ phút này mọi người tự
do muốn đi đâu th́ đi v́ ông không c̣n trách
nhiệm ǵ nữa, riêng ông sẽ đi t́m tự do ở
một nơi nào đó. Không ai dám đặt câu
hỏi, vậy mấy chục ngàn người ở
trong trại tỵ nạn sẽ ra sao đây? Lính
tráng và vợ con đều hoảng loạn, không
biết chạy đi đâu trên một ḥn đảo
giữa biển khơi, bằng phương tiện nào
an toàn? Tôi
chạy về trailer tạm trú, thấy bà xă tôi khóc bù
lu bù loa, c̣n thằng con ba tuổi ngơ ngác không
hiểu sao Mẹ nó khóc. Tôi dặn bà xă bỏ áo
quần, ít ḿ gói và chai nước ngọt vào mấy
các sac (bị) vải rồi dẫn qua Căn Cứ
Yểm Trợ HQ (CCYT/HQ) gần đó may ra có phương
tiện. Khi tôi đến Căn Cứ khoảng 12
giờ trưa, thấy gia đ́nh ông Tr/tá CC Trưởng
và vài sĩ quan đang b́nh tĩnh ngồi ăn trưa,
bên cạnh đó có một ông Mỹ trắng mặc
thường phục. Khoảng 1 giờ chiểu, gia
đ́nh tôi theo gia đ́nh ông CC Trưởng mang
nhiều valise Samsonite xuống một tàu đổ
bộ nhỏ LCM 8 đậu ở cầu tàu, do ông
Mỹ hướng dẫn. Tàu tách bến đến
cầu Tư Lệnh đón gia đ́nh ông TL/HQ/V4 (HQ
Đ/tá Thiện) kèm theo hành lư Samsonite nặng nề.
Rồi LCM 8 chạy thẳng ra xa bờ khoảng 30
phút và đến cập vào chiếc xà-lan gần
một tàu buôn loại chở hàng (cargo) của Mỹ
rất lớn tên Challenger đang neo, lúc đó đă có
nhiều ghe thuyền của dân chúng đang giành nhau lên
tàu. V́ thương thuyền quá cao, họ phải dùng
cần trục để câu người đứng
trong những túi lưới hàng từ xà-lan lên boong.
Việc chuyển người lên tàu rất chậm, mà
số người từ An Thới ra càng ngày càng đông,
mặc dầu trên tàu đă có lính Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ giúp người tỵ nạn và giữ
trật tự. Cảnh chen lấn nhau lên tàu
thật hỗn độn và kinh hoàng. Một ông
Cha hay Frère trẻ đă leo lên được tàu
bằng thang dây nói trấn an qua micro cầm tay rằng
tàu hứa sẽ bốc hết đồng bào, nhưng
phải nhường cho đàn bà và trẻ em lên trước.
Lúc này t́nh h́nh trật tự có vẻ khá hơn.
Tôi đưa bà xă và con lên tàu trước do 2 người
TQLC Mỹ giúp đỡ, rồi đứng nh́n thiên
hạ v́ cứ yên chí thế nào ḿnh cũng được
bốc lên sau... Đến
khoảng 6 giờ chiều, c̣n hàng trăm người
đứng chờ như tôi trên chiếc LCM 8 và các ghe
thuyền từ bờ ra bao quanh xà-lan. Bỗng một
chiếc ghe chở một sồ người mặc áo
bà ba đen, gương mặt trông dữ tợn và
trang bị nhiều súng ống, có cả đại liên
50 ly, từ bờ tiến ra gần chiếc
Challenger. Thế là tàu Mỹ cắt dây và nhổ neo
rời khỏi An Thới tức khắc, bỏ
lại hàng trăm người lạc vợ con như tôi.
Có lẽ tàu Mỹ sợ nhóm người này đến
để cướp bóc tiền bạc và nữ trang
của những người tỵ nạn trên tàu, tương
tự như trường hợp tàu Miller ở Đà
Nẳng đă bị một số lính đào ngũ cùng
du đảng cướp của cải vàng bạc
và hiếp đàn bà trước đó mấy
tuần. Khi tàu Miller đến An Thới, những tên này
đều bị bắt nhờ đồng bào chỉ
điểm và bị bắn ngay trên băi cát do lệnh
tiền trảm hậu tấu của TL/HQ/V4/DH. Bây
giờ tất cả trở lại yên lặng, buồn
bă, không c̣n cảnh giành giựt như cách đây
chỉ mấy phút. Từ sáng đến giờ chưa
có hột cơm nào trong bụng, nhưng tôi không
thấy đói mà chỉ khô cổ họng v́
khát nước. Tôi check lại trong tùi vải mang theo
không c̣n chai nước nào và cả ḿ gói, có lẽ lúc
mọi người xô đẩy, chen lấn để
lên tàu nên các thứ đó rớt ra khi nào không
hay. Tôi đề nghị với vài anh lính hải quân
c̣n lại trên LCM 8 hăy cố gắng khởi động
máy tàu thử xem sao. Một anh thủy thủ đă
xuống hầm máy đem lên đưa tôi một ca
nhỏ với ít nước mời uống cho đỡ
khát. Lúc này tôi thật cảm động về cái t́nh
huynh đệ chi binh và cám ơn anh thủy thủ.
Một anh khác báo cáo cả hai máy đều
bất khiển dụng . Hơn 200 người tàu trên
tàu đều tỏ vẻ thất vọng, nhưng không
dám nói ra. Trời bắt đầu tối dần,
con tàu lặng lẻ trôi bềnh bồng trên sóng
bỏ xa bờ về hướng bắc đảo Phú
Quốc. Đêm nay (30/4/1975) có trăng lưỡi
liềm mờ ảo và gió nhẹ thổi về hướng
tây bắc, thật lư tưởng cho một chuyến
hải hành của chiến hạm nhưng tôi không
thể nào thưởng thức v́ đầu óc đang
nghĩ đến vợ con, không biết giờ này
đang ở đâu? Tàu tôi thỉnh thoảng
tuần dương vùng này, đă từng bắn
yểm trợ Bộ Binh bằng súng đại bác
76.2 ly, nếu cứ để tàu trôi lên bắc đảo
th́ thế nào cũng bị bọn Việt Cọng tóm
là cái chắc và sẽ không c̣n hy vọng gặp
lại vợ con. Khoảng 10 giờ đêm, ḷng tôi
nóng như lửa đốt, tôi nghĩ không lẽ
ngồi chờ chết nên bèn đề nghị mấy
anh hải quân mượn đèn Pin của đồng
bào, rồi xuồng hầm máy thử câu b́nh điện
(jump) xem sao. Độ mười phút sau, mọi người
trên tàu nghe tiếng nổ x́nh xịch từ hầm máy
đều mở mắt kêu lên tiếng “Ồ”
đầy vẻ mừng rỡ. Hầm máy báo cáo
chỉ c̣n một máy khiển dụng và nước
đang tràn vào hầm máy. Tôi nhờ một vài đồng
bào xuống giúp tát nước ra và thử hỏi ư
kiến đồng bào trên tàu muốn đi đâu bây
giờ? Có người đề nghị đi
Cambodge v́ gần đảo Phú Quốc, người khác
đề nghị chạy về An Thới. Với t́nh
trạng tàu như thế, lại thêm đa số đều
đói và khát, nên tôi ra lệnh lái tàu trở về
lại An Thới v́ tôi đoán bọn VC chưa thể
chiếm An Thới hay đảo Phú Quốc vào lúc này. Tàu
về cập cầu CCYT An Thới lúc 1 giờ sáng, tôi
c̣n thấy cờ vàng ba sọc đỏ bay phất
phới trên kỳ đài căn cứ và vài anh HQ đi
bách bộ trên cầu tàu, như vậy sự suy đoán
của tôi không sai. Tôi thông báo cho đồng bào có
thể rời tàu, nhưng không thấy một ai nhúc nhích.
Vừa lúc đó th́ anh HQ Tr/tá Hản (1), Trại Trưởng
trại tỵ nạn An Thới đến gặp và
hỏi tôi có c̣n đi nữa không? Tôi cho anh biết tôi
sẽ ra khơi lại v́ bà xă và con hiện đang
ở trên tàu Mỹ Challenger (không biết đi đâu?).
Anh không thể rời Căn Cứ ngày hôm qua (SQ thâm niên
hiện diện) v́ tụi lính dọa sẽ giết anh
nếu bỏ đi. Đồng thời bà xă cũng
dọa sẽ tự sát cả gia đ́nh bằng súng
M-16 nếu anh không t́m cách trốn thoát. Tôi hiểu hoàn
cảnh khó xử của anh và hứa sẽ giúp gia
đ́nh với điều kiện anh cho sửa hai
máy chiếc LCM 8 và hầm máy bị nước vào.
Chuyện đầu tiên là tôi đến pḥng ăn
của SQ để xem có ǵ lót bụng và uống nước
cho đỡ khát. Tôi gặp một anh bạn thiếu
tá cùng khóa mới ra đây được mấy ngày
để giúp trại tỵ nạn, gương mặt
buồn xo v́ bà xă c̣n kẹt lại ở Sài G̣n, nên
quyết định không chạy đi đâu cả.
Kết quả anh phải đi tù trên 10 năm ở ngoài
Bắc, sau khi được tha về anh vượt biên
nhiều lần cuối cùng cũng qua đuợc
Mỹ. Ba
giờ sáng ngày 1/5/1975, Trung tá Hản cho tôi
biết thêm anh đă hẹn được với Trung
tá Nhượng (2), Hạm Trưởng HQ 505 sẽ
đón gia đ́nh anh ở ḥn An Đông cách An Thới
độ 12 hài lư về hướng Đông-Nam lúc 5
giờ 30 sáng và LCM 8 đă tạm sửa chữa xong.
Sau khi đón toàn bộ gia đ́nh Trung tá Hản lên
tàu cọng với trên 200 đồng bào vẫn nằm
yên trên tàu không chịu lên bờ , tôi ra lệnh
khởi hành ngay lúc đó. Đến hơn 5 giờ sáng
th́ tàu đă đến vị trí hẹn, ḥn An Đông.
Hạm trưởng ra lệnh tàu chúng tôi ngừng máy
cách khoảng vài trăm mét và không được
cập vào HQ 505, nhưng cho du-du (một loại
thuyền máy nhỏ trên chiến hạm) qua đón gia
đ́nh Trung Tá Hản. Mọi người
hết sức thất vọng v́ nghĩ ông không
muốn đón chúng tôi và do kinh nghiệm tàu Challenger
đă bỏ lại chúng tôi cách đây hơn 10
giờ, anh tài công đă tự động rồ máy
tiến lên cập LCM 8 vào hông HQ 505 mà không ai ngờ và
kịp phản ứng. Gia đ́nh anh Hản phải
leo thang dây để lên tàu nên rất chậm, trong khi
đó đồng bào trên LCM 8 lần lượt lên
tấm bạt che trần rồi nhảy qua HQ 505 một
cách dễ dàng và nhanh chóng. Tôi lên đài chỉ huy
gặp Hạm Trưởng để biết lư do
tại sao ông không cho chúng tôi quá giang tàu. Ông cho
biết HQ 505 là chiến hạm cuối cùng chở
Đài Mẹ Việt Nam ra thiết trí tại An
Thới, nhưng khi nghe tin đầu hàng th́ ông dự
định đưa HQ505 với vài trăm người
đă ở trên tàu sang Pháp, nếu cho thêm nhiều người
quá giang th́ sẽ không đủ thức ăn và nước
ngọt. Bây giờ với số người trên tàu
đông như thế này nên ông quyết định
đi theo hạm đội di tản sang Subic Bay, một
căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ ở Phi Luật
Tân . Ngoài ra ông cũng sợ một số nhân viên không
mang theo được gia đ́nh có thể nổi
loạn, do đó ông cho phép những sĩ quan và
đoàn viên nào muốn về sum họp
với gia đ́nh, hăy xuống chiếc LCM 8 do tôi để
lại. Đồng bào trên tàu thu góp tất cả
tiền mặt VNCH đem theo tặng cho mấy
chục anh em t́nh nguyện trở về VN. Sau đó
Hạm Trưởng ra lệnh khời hành đi Subic
Bay, mọi người trên tàu đều vui vẻ v́
biết rằng ḿnh may mắn đă thoát được
gông cùm của bọn Cộng Sản và hy vọng
sẽ gặp lại vợ con trên chiếc Challenger. Sau
gần 5 ngày hải hành theo hạm đội di tản
trên biển êm như mặt hồ, cuối cùng HQ 505 cũng
đến Subic chiều 5/5/1975. Trước khi vào
hải phận (12 hải lư) Phi Luật Tân, một sĩ
quan hải quân Hoa Kỳ lên chiến hạm và yêu
cầu cho hạ cờ VNCH xuống. Hạm trưởng
cho làm lễ hạ kỳ rất nghiêm trang và cảm
động. Tất cà đồng bào quá giang trên boong tàu
đều đứng nghiêm chỉnh hướng về
quốc kỳ Việt Nam và hát bài quốc ca “Này công
dân ơi...” trong nước mắt nghẹn ngào khi
quốc kỳ từ từ hạ xuống v́ biết
rằng đây là lần cuối cùng được
nh́n thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ,
biểu tượng của nước Việt Nam
Cọng Ḥa thân yêu và không biết bao giờ có ngày
trở lại. Sau đó kéo quốc kỳ Hoa Kỳ lên
cột cờ và Hạm Trưởng bàn giao quyền
chỉ huy HQ 505 cho sĩ quan Mỹ. Khi tàu cập
bến tôi theo đoàn người lần lượt
rời HQ 505 và qua các thủ tục giấy tờ
nhập cảnh, rồi được đưa lên
một thương thuyền Mỹ loại cargo
rất lớn tương tự như tàu
Challenger và khởi hành đi Guam ngay đêm hôm đó. Gần
một tuần hải hành trong thời tiết thuận
tiện, cuối cùng chiếc thương thuyền
cập bến Guam trong sự chờ đợi nôn nóng
của mọi người để được lên
bờ hít thở không khí tự do, thoải mái. Sau khi
qua các thủ tục giấy tờ, chúng tôi
được xe bus chở đến trại Orote Point,
cách đó vài chục dặm. Trại gồm những
lều vải quân đội đóng trên một khu
đất rộng gần bờ biển, mỗi
trại có thể chứa độ 15-20 người. Lúc
chúng tôi đến th́ trại đă có hàng ngàn người
Việt tị nạn sống ở đó. Sau
khi cất hành lư vào lều, chuyện đầu tiên tôi
phải làm là đến Bộ Chỉ Huy trại để
ḍ hỏi tin tức gia đ́nh. Tôi cung cấp tên tàu cùng
tên tuổi vợ con và yêu cầu họ cho biết tàu
đă đến Guam chưa, đến ngày nào và
hiện gia đ́nh tôi đang ở đâu? Sau hơn
nửa giờ chờ đợi, họ nói chỉ
biết tàu đă đến Guam hơn một tuần
nay, nhưng không biết vợ con tôi c̣n ở trại
này hay đă dời sang trại khác để chờ
sang Mỹ, v́ người tị nạn ra vào mỗi
ngày quá đông nên họ không nắm vững t́nh h́nh.
Tôi vội chạy sang khu Hồng Thập Tự quốc
tế với hy vọng họ có danh sách cập
nhật những ngày trước đây. Sau những
giờ phút chờ đợi dài bằng cả thế
kỷ, v́ đây là niềm hy vọng cuối cùng có
thể t́m ra dấu vết vợ con, nhưng họ
trả lời không khác ǵ Bộ Chỉ Huy trại và
đoán có thể gia đ́nh tôi đă sang California.
Nếu điều này đúng th́ lại càng khó khăn
hơn cho tôi trong việc t́m kiếm thân nhân. Ḷng đầy
thất vọng và buồn vô hạn, tôi chẳng
biết trách ai bây giờ mà chỉ trách cho số
phận đầy trắc trở của ḿnh. Tôi đi
lang thang từ lều này sang lều khác, hỏi thăm
những người đến trước may ra t́m
thấy bóng dáng vợ con, dầu biết hy
vọng rất mong manh v́ có cả mấy trăm
lều trên một khu rộng mênh mông. Đến đâu
tôi cũng hỏi, nhưng đều được
trả lời bằng cái lắc đầu, họ nh́n
tôi đầy vẻ thương hại nhưng
chẳng giúp được ǵ. Tôi vừa đi vừa
niệm thầm danh hiệu "Nam Mô Bồ
Tát Quan Thế Âm ", qua không biết bao nhiêu lều
trại, nên ḷng đă thanh thản trở lại. Đi
bộ nhiều quá nên bắt đầu muốn
tiểu tiện, tôi bèn t́m nhà vệ sinh dă
chiến hầu giải quyết "bầu tâm
sự" để rồi c̣n tiếp tục việc
t́m kiếm vợ con. May quá khu vệ sinh đây rồi
! Có khoảng 10 nhà vệ sinh đặt rải rác hai bên
lối đi, mùi a-mô-nhắc khai nồng khó chịu
tạt vào mũi giữa ban trưa nóng bức. V́ nhu
cầu thúc bách, tôi chọn ngay một cái đầu
tiên không có người xử dụng và định
mở cửa, bỗng một hàng chữ viết
nguệch ngoạc bằng than màu đen trên cao đập
vào mắt tôi: "T́m anh Nguyễn Văn Minh, khóa Đệ
I Song Ngư. Kim Cúc và con hiện ở lều số
13". Tôi tưởng ḿnh đang nằm mơ, nên
đọc đi đọc lại hàng chữ trên
nhiều lần cho chắc ăn 100%. Khi tin chắc đó
là những chữ do bà xă viết, tôi ba chân bốn
cẳng chạy đi t́m lều số 13 và quên
việc phải xổ "bầu tâm sự".
Thật oái oăm thay! Lều số 13 gần ngay
cạnh Bộ chỉ huy, nhưng vài giờ trước
tôi hỏi th́ chẳng ai biết vợ con ở đâu.
Tôi bước vào lều lúc buổi trưa nên
vắng lặng như tờ, có lẽ giờ này
mọi người đang bận sắp hàng lănh
phần ăn. Tôi thấy đứa bé trai độ
3 tuổi mặc áo T-shirt rằn sọc xanh nước
biển, đầu đội mũ thủy thủ màu
trắng, ngồi xây lưng về phía tôi và đang chơi
một ḿnh trước lều. Nh́n dáng dấp, tôi
biết ngay em là đứa con yêu quư của ḿnh, nên tôi
nhẹ nhàng đến ôm chầm lấy bé từ phía
sau lưng để gây cho em một sự ngạc nhiên
bất ngờ. Em ngỡ ngàng quay lại nh́n tôi râu ria
xồm xoàm với đôi mắt tṛn xoe, chưa
nhận ra ai đây mà sao mỉm cười thân mật
với ḿnh, nhưng một phút sau em ôm chặc lấy
cổ tôi vừa reo lên: -
Ba!!! Ba đă về, Má!!! Vợ
tôi đang bận xếp áo quần trong lều,
bỗng nghe tiếng con la lớn nhưng chưa hiểu
ǵ nên vội vàng bước ra, vừa đúng lúc tôi
bồng con vào lều, nàng khựng lại vài giây
rồi chạy đến ôm chầm lấy tôi nói trong
nước mắt nghẹn ngào: -
Anh!!! -
Em!!! Tôi
và nàng bốn mắt nh́n nhau không nói nên lời, nhưng
nụ cười rạng rỡ nở trên môi đă nói
lên biết bao hạnh phúc tưởng đă mất nay
t́m lại được. Niềm vui vỡ oà trong
sự vắng lặng của buổi trưa hè, h́nh như
chỉ dành cho sự trùng phùng kỳ diệu của gia
đ́nh chúng tôi nên không có bất cứ người nào
ở cùng lều lúc đó chứng kiến hay chia
sẻ. Ngoài kia sóng biển ŕ rào như chung vui cùng ba
người hạnh phúc nhất đời... Đâu
đây văng vẳng tiếng thơ tán thán Mẹ
hiền Bồ Tát Quán Thế Âm:
Biển động tiếng triều vọng Phổ Môn,(3)
Chín hoa sen trắng hiện hài đồng.
Cành dương một giọt mưa cam lộ,
Gieo rắc mùa Xuân khắp núi sông. MINH NGUYỆN Kỷ
niệm 30/4/1975 20-04-2019 (1) HQ
Trung tá Trần Văn Hản, khóa 8 SQHQ/Nha Trang, đă
qua đời tại Houston, TX cách đây đă lâu. (2)
HQ Trung tá Nguyễn Văn Nhượng, khóa 9 SQHQ/Nha
Trang, không biết ở Canada hay Mỹ ? đă
bốc gia đ́nh Tr/t á Hản v́ hai gia đ́nh ở
cạnh nhau trong cư xá HQ Cữu Long. (3)
Phẩm Phổ Môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói
về hạnh nguyện của Đức Bồ Tát Quán
Thế Âm. Tác giả tạm dịch từ bài thi tán
nguyên văn bằng chữ Hán:
Hải chấn triều âm thuyết Phổ Môn,
Cửu liên hoa lư hiện đồng chơn.
Dương chi nhất đích chân cam lộ,
Tán tác sơn hà đại địa Xuân.
|