Lời nói đầu
của Phúc Nguyễn:
Vào
năm 1993, trong quyển tự truyện “It Doesnt Take a
Hero,” Đại Tướng Norman H. Schwazkopf đă dành
nguyên một chương để viết về
cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư
Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Năm 1995, tác giả
Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển “Angles
in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War,” gồm
nhiều h́nh ảnh và bài viết của các cựu
cố vấn Hoa Kỳ phục vụ trong Sư Đoàn
Nhảy Dù.
Tướng
về hưu Barry R. McCaffrey kể về một sĩ
quan Mỹ bị thương: “Những người lính
Nhảy Dù Việt Nam đă ở với anh, nhỏ con
hơn anh nhiều, đă cố gắng nhưng không
thể kéo anh ra khỏi rănh. Thay v́ rút lui và bỏ
mặc anh, họ giữ vững tuyến và chiến
thắng cuộc chiến đấu hung tợn cho cái thân
xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào ḷng
dũng cảm của họ. (Đặc San Mũ Đỏ/
nhaydu.com)
Năm
2009, Đại Tá hồi hưu Robert L. Tonsetic viết
quyển “Forsaken Warriors: The Story of an American Advisor who
Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne,” về
những kỷ niệm thời chinh chiến, phục
vụ trong vai tṛ cố vấn với hai binh chủng này,
Tiểu Đoàn 42 và 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2 Dù.
Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike
McDermott viết quyển sách “True Faith and Allegiance: An
American Paratrooper and the 1972 Battle for An Loc,” về thời
gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong
trận đánh An Lộc.
Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J.
Duffy viết tập thơ “The Battle for Charlie,” về
trận đánh Đồi Charlie của Tiểu Đoàn
11 Dù. Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis phi công
Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn
Nhảy Dù viết quyển “Red Markers, Close Air Support for
the Vietnamese Airborne, 1962-1975,” về các phi công bay yểm
trợ không yểm, liên lạc với các cố
vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho
những trận đánh của binh chủng Nhảy Dù.
Cả sáu quyển sách này đều đề cao
sự chiến đấu dũng mănh của các người
lính Nhảy Dù Việt Nam.
Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên
đủ nói lên được tấm ḷng của các
viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người
bạn Nhảy Dù Việt Nam của họ. Nhưng,
mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng Tám, Đại Tướng
hồi hưu Barry McCaffrey đă dành một sự
ngạc nhiên cho người Việt tị nạn chúng
ta, khi ông viết một bài viết ngắn trên báo New
York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về
những người lính Nhảy Dù Việt Nam, với
tấm ḷng cảm phục và sự tiếc nuối vô
bờ.
Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài
viết: “Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lăng
Quên”.
Tôi đến Việt Nam vào tháng Bảy năm 1966, và
cho nguyên cả năm sau tôi làm việc cố vấn
với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm
cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng.
Đó là năm cuối mà chúng ta có thể định
nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng là
như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa
lạc quan, của gia tăng quân số và nhận lănh
cuộc chiến từ người Việt - và con
số thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.
Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên
chiến trường. Con số lính Mỹ tử
trận năm ấy gần như gấp đôi con
số của năm 1966. Giữa tất cả các
sự việc đó, sự hy sinh, ḷng dũng cảm và
việc hiến dâng của Quân Đội Việt Nam
Cộng Ḥa cho đất nước họ hầu như
đă biến mất từ ư thức của giới
truyền thông và chánh trị Hoa Kỳ.
Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đă tham gia
với tính cách là viên cố vấn phụ tá cho
tiểu đoàn, là một đơn vị chiến
đấu ưu tú. Cho đến năm 1967, các người
lính Nhảy Dù, với quân phục ngụy trang và mũ
đỏ riêng biệt, đă lên đến 13,000 quân
nhân, tất cả đều là lính t́nh nguyện.
Những người như chúng tôi được vinh
dự làm việc với họ, rất kinh ngạc
bởi ḷng dũng cảm và chiến thuật táo
bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ
quan thâm niên là những người lính rất tài năng
và có đầy kinh nghiệm chiến trường;
thật là một điều dễ quên khi biết các
người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối
với đất nước Việt Nam, trong khi
nhiều người trong bọn họ đă có mặt
với cuộc chiến từ năm 1951.
Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm
việc như một cán bộ hay sĩ quan liên lạc
từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ
đoàn. Chúng tôi đă dành một năm để
chuẩn bị tại California, tính luôn cả 16 giờ
đồng hồ của mỗi ngày để học
về văn hóa và ngôn ngữ tại học viện
Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong khóa,
học và hiểu để nói tiếng Việt. Các
chiến thuật về phản du kích và huấn
luyện hệ thống về vơ khí thời Đệ
Nhị Thế Chiến mà người Việt vẫn c̣n
sử dụng th́ học tại căn cứ Fort Bragg,
North Carolina.
Chúng tôi làm việc với một vai tṛ rộng
lớn; phối hợp yểm trợ pháo binh và không
yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và
cứu thương, và cung cấp tin tức t́nh báo cùng
giúp đỡ về tiếp liệu. Chúng tôi không cho
lịnh, và chúng tôi không cần phải làm vậy. Các
người bạn đồng nhiệm là những người
mà chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có
được chúng tôi – và hỏa lực Hoa Kỳ
– cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ.
Chúng tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn
toàn vào họ. Tôi thường có một người lính
Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh cũng là người
lính cận vệ.
Thông thường, một toán cố vấn cấp
tiểu đoàn như tôi bao gồm ba người:
một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một
viên trung úy và một viên hạ sĩ quan, thường
là một trung sĩ. Các viên trung sĩ là thành phần
nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên:
đến và đi; các viên trung sĩ ở lại
với các đơn vị được chỉ định
cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay
cho đến khi họ hy sinh, hay bị loại khỏi
chiến trường.
Lần tôi được giới thiệu về
Việt Nam lại là một kinh nghiệm đầy xương
máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang
đỉnh Hải Quân và trực thăng của
Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông śnh lầy
của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở
phía nam Sài G̣n. Đây là trận chiến chả có vinh
quang, chiến đấu và chết ch́m dưới śnh
lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có
một chút phiêu lưu mà chúng tôi đă cảm giác khi
học một khóa học của Biệt Động Quân.
Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên
nghiệp và cũng là người cố vấn trưởng
tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi
giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng
đây chỉ là một khởi đầu.
Sau bốn tháng trong “tua” với Nhảy Dù, chúng tôi có
liên quan đến một trận đánh lớn và
đẩm máu, tiếp sức cho các đơn vị
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông
Hà, gần bờ biển, nằm về hướng
bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn
của chúng tôi được trực thăng
đưa vào vùng Phi Quân Sự, t́m kiếm và chận
đứng một đoàn quân quan trọng của
Bắc Việt, đang di chuyển về hướng
Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận
khốc liệt và đầy máu. Viên cố vấn trưởng
bị hy sinh. Người hạ sĩ quan dũng
cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn
đầy người. Anh kêu tôi lắp băng đạn
vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên
ngực, để cho anh có thể “chiến đấu
cho tới chết” như những người lính c̣n
lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).
Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như
bị tràn ngập. Nhưng những người lính
Nhảy Dù chiến đấu dũng mănh và bền
bỉ. Trong lần nguy khẩn, với sự yểm
trợ của không yểm và hải pháo, chúng tôi tái
phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước
thẳng người trong lúc đạn bay đầy
quanh để đến ngay hố cá nhân tôi. “Trung Úy,”
ông bảo tôi, “đây là giờ phút chúng ta mất
mạng.” Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi
nhớ tới những lời nói của ông.
Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi
đồng đội đă chết hay bị thương
trên chiến trường; ngay cả vơ khí cũng
vậy. Trong một trận đánh khác, Tommy Kerns, người
bạn cùng khóa tại trường West Point là một
người to lớn, chơi football cho trường,
bị thương nặng và bị kẹt trong một
cái rănh hẹp. Những người lính Nhảy Dù
Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh
nhiều, đă cố gắng nhưng không thể kéo
anh ra khỏi rănh. Thay v́ rút lui và bỏ mặc anh,
họ giữ vững tuyến và chiến thắng
cuộc chiến đấu hung tợn cho cái thân xác to
lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào ḷng dũng
cảm của họ.
Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các
đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù đóng
quân ngay và chung quanh thành phố Sài G̣n. Chúng tôi yêu thích
sức sống và sự náo nhiệt của thành
phố. Chúng tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn
cả người Việt. Chúng tôi hănh diện một
cách điên cuồng về tính cách của chúng tôi
với Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là
cả thế giới đă ghen tương về
nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm
việc chung với đơn vị ưu tú nhứt
của đất nước. Được trả lương
với chiến trận và cộng thêm bằng dù, chúng
tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng tôi
sống trong những ṭa nhà có máy lạnh. Chúng tôi c̣n
trẻ trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn
mạnh bạo. Các viên đại tá, trung tá Hoa Kỳ
chỉ huy đám cố vấn là những người
lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người
đàn ông dày dạn chiến trường; họ đă
từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh
những trận đánh tệ hại hơn trong
thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến
Tranh Triều Tiên.
Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn
Nhảy Dù rất khó mà đoán biết cho được.
Công việc của sư đoàn là phục vụ
với tính cách tổng trừ bị, luôn được
mang đến chiến trường bất cứ lúc nào
mà các viên tư lịnh cảm thấy t́nh h́nh nguy
kịch. Một tiểu đoàn Nhảy Dù hay nguyên
cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ
được báo động cho cuộc chuyển quân
khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi sẽ
ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận
tải cơ của Không Quân Hoa Kỳ hay Không Quân
Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với
máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không
Quân Tân Sơn Nhứt, sát cạnh Sài G̣n. Đạn dược
sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả dù
nữa. Một kế hoạch chiến trường
gấp rút ban hành.
Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở
rộng. Các tiểu đoàn sẽ được mang
đến những chỗ nào mà họ cần đến.
Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi
nào, và sẽ biết được chúng tôi đang
ở giữa một trận chiến. Rất nhiều
viên cố vấn và cả ngàn người lính
Nhảy Dù mà tôi đă chiến đấu chung đă
không trở về lại từ trong các cuộc hành quân
đó. Tôi vẫn có thể nh́n thấy các gương
mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại
Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người
lính mang máy rất trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael
Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng Cảm và
Tự Hào.
Việt Nam không phải là “tua” đầu chiến
trận của tôi. Sau khi tốt nghiệp từ trường
Vơ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82
Nhảy Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng”
Dominican Republic vào năm 1965. Chúng tôi được mang
đến một ḥn đảo và dẹp sạch đám
Cuba – cảm hứng nổi dậy của bọn
cộng sản, và ở lại như một đoàn quân
bảo vệ ḥa b́nh. Chúng tôi đă nghĩ chiến
trận là như vậy, và rồi chúng tôi trở
về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi
được đến Việt Nam – nhiều viên
trung úy trong tiểu đoàn chiến đấu của tôi
nhảy lên chiếc jeep, lái thẳng đến Bộ Tư
Lịnh Lục Quân ở Washington để t́nh
nguyện cho chiến trường Việt Nam. Chúng tôi
đă nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến
trận.
Giờ th́ chúng ta đă biết câu chuyện kết thúc
ra sao. Hai triệu người Việt đă mất
mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương
vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng
cay và rối loạn về chánh trị. Lúc ấy th́
chúng tôi không biết ǵ hết. Tôi rất lấy làm hănh
diện được chọn phục vụ với
Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ đẹp
đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương
yêu, biết tôi cần phải đi. Cha tôi, một viên
Tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh tôi,
nếu tôi chẳng may tử trận.
Tất cả các sự việc này đă biến
mất đi 50 năm trước đây. Các người
lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người
đă may mắn thoát khỏi việc sụp đổ
của miền Nam Việt Nam, hoặc là trốn thoát
qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả
một thập niên trong các trại “cải tạo” tàn
bạo kia. Gần như hầu hết những người
đó rồi cũng đến được Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hội
cố vấn người Mỹ cùng các chiến
hữu người Việt, và có cả một Đài
Tưởng Niệm cho các Cố Gắng của chúng tôi
tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi
ấy, chúng tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ
lại những kỷ niệm đă cùng nhau chiến
đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ
Đỏ. Chúng tôi cười vang với các câu
chuyện xưa kia, nhưng có một điều
rất đau ḷng là chúng tôi đă mất mát quá
nhiều, và điều ấy lại là con số không,
không có được một sự đền bù, tưởng
thưởng nào.
Nhiều người đă luôn hỏi tôi về các bài
học trong chiến trận tại Việt Nam. Những
người trong chúng ta đă từng chiến đấu
chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là
những người không bao giờ lên tiếng.
Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và
biết đến là sự chịu đựng dũng
cảm và ḷng quyết tâm của các Binh Nh́ Nhảy Dù
Việt Nam, những người lính trẻ luôn
thẳng bước vào chiến trận. Họ không có
được các tượng đài vinh danh, chỉ
trừ trong tâm tưởng và kư ức của chúng ta.
Little Saigon, 9 tháng 8, 2017
Phúc Nguyễn
|