Ḍng
sông Chia Cắt, nhân kỷ niệm Ngày Quốc Hận
20-7-1954 Đỗ Văn Phúc |
Trong đời người,
ít ra ai cũng có một ḍng sông kỷ niệm. Thời ấu thơ
th́ đó là ḍng sông nơi ta thường bơi
lội nhởn nhơ vui đùa vô tư cùng các
bạn. Đối với tuổi đôi mươi th́
đó là ḍng sông nơi ḥ hẹn lần đầu
với người yêu trong những chiều tà yên
ắng hay những đêm trăng vằng vặc. Sông ng̣i Việt Nam
nhiều đến nỗi có đủ để ban phát
cho mỗi người ít nhiều kỷ niệm êm
đềm, nên thơ hay đắng cay hờn tủi. Có
khi cả kỷ niệm chia ly, đau buồn mang theo
đến tận tuyền đài. Đối với
cả dân tộc th́ hai con sông Gianh và Bến Hải là
chứa chan bao kỷ niệm chia ĺa, nhục nhă của
sự phân tranh Nam Bắc. Hai trăm năm trước
đây, hai họ Trịnh, Nguyễn cắt đôi núi sông
v́ tranh giành quyền bính trước một cơ đồ
nhà Lê đă đến thời suy mạt. Hai trăm năm
sau, thực dân và cộng sản lại nỡ đang tâm
phân rẽ đại gia đ́nh Việt Nam v́ những
giấc mộng ngông cuồng của chủ nghĩa
đại đồng cộng sản. Chinh chiến
điêu linh kéo dài hơn hai mươi năm đă
hủy diệt mầm sống của dân tộc: hàng
triệu thanh niên ưu tú của hai miền gục ngă
trên con đường Trường Sơn, trong rừng
già Tây nguyên, śnh lầy Đồng Tháp, ngay cả trên
đất khách Lào và Kampuchea... Tài nguyên thiên nhiên
bị hủy diệt, thành phố, nông thôn tiêu điều;
gia đ́nh ly tán, niềm tin mai một. Cũng chỉ v́
một ḍng sông, cũng chỉ v́ một chủ nghĩa
ngoại lai phi nhân bản, cũng chỉ v́ một
loại người vô lương... Tôi sinh ra và sống
hết thời thơ ấu bên người mẹ
hiền ở một huyện lỵ nhỏ bé nơi vùng
giới tuyến phân chia Nam Bắc. Mở mắt chào
đời chưa bao lâu, tôi đă mất người
cha vào tay bọn Việt Minh trong ngày gọi là tổng
khởi nghĩa. Chúng đưa người ra Bắc
biệt tăm từ đó. Mẹ tôi không thể
tiếp tục cuộc đời làm dâu tôi đ̣i, dù
rằng hai bên nội ngoại tôi đều làm quan
rất lớn trong triều. Bà đă bồng bế tôi
ra miền Gio Linh lập nghiệp. Ban đầu buôn bán
theo những chuyến xe hàng, sau mở cửa hàng bán
vải vóc ngay góc phố chính của Gio Linh. Phiá sau nhà
tôi là cơ quan huyện đường, nơi người
cậu của mẹ tôi làm huyện trưởng. Tuổi thơ
của tôi hồn nhiên và hạnh phúc, v́ mẹ tôi thương
con rất mực. Chiến tranh lúc đó cũng cận
kề. Quân đội Pháp th́ có đồn Ba Dốc
trấn giữ ngay đỉnh đèo cũng tên Ba
Dốc. Nơi này nh́n thẳng ra cầu Hiền Lương
chỉ cách đó chừng năm cây số. Việt Minh
thỉnh thoảng bắn súng cối vào huyện. Có
lần hai trái đạn nổ ngay nhà tôi, làm chết
mấy người khách xin ngủ trọ. Mẹ tôi may
mắn trong đêm đi ra ngoài vườn làm vệ
sinh nên thoát chết; c̣n tôi đang ở cùng người
chị ruột tại tỉnh lỵ Quảng Trị.
Sau này, nhà vẫn c̣n giữ những bàn ghế và
tầm ván ngựa gỗ trắc bị miểng đạn
băm nhiều vết. Tôi sớm thấy
Việt Minh. Một đêm, chúng tấn công huyện
đánh cho đến sáng th́ rút lui. Bọn trẻ con
kháo nhau đi xem Việt Minh chết. Tôi cũng tháp tùng
trong đám trẻ, mon men lại gần xác chết.
Đó một người mặc quần áo ka ki vàng, chân
đất, nằm ṣng soại xéo bên cổng huyện,
mặt phủ một tấm khăn trắng. Có đứa
dạn tay lật chiếc khăn ra xem thử Việt
Minh có mấy mắt mấy miệng. Tuy c̣n bé, tôi
đă ư thức được đây chính là kẻ thù
đă bắt cha ḿnh đi biệt. Tôi thù ghét Việt
Minh từ đó. Ai có về vùng Gio
Linh mới thấy hết cảnh nghèo của thôn quê
địa đầu giới tuyến. Đất không
nghèo, v́ đất đỏ có thể trồng tiêu, chè,
cho lợi tức cao. Dân không thiếu và thường là
dân chăm chỉ, cần cù. Gio Linh nói riêng, hay
Quảng Trị nói chung nghèo là v́ chiến tranh. Mùa hè,
người nông dân làm ruộng dưới cơn nóng
hừng hực do ngọn gió Lào thổi về; mùa
đông cái rét căm căm cộng với những cơn
mưa triền miên kéo dài hàng vài ba tháng làm cho
cảnh sắc tiêu điều thêm. Gio Linh với bài hát
của Phạm Duy gợi lên h́nh ảnh bà mẹ già
nhẫn nhục: “Mẹ già cuốc đất
trồng khai, nuôi con đánh giặc đêm ngày....”
Rồi đêm nghe tin con ḿnh bị giặc chém đầu,
“Mẹ già không nói một câu, đem khăn gói
đi lấy đầu.” Thê lương thay, h́nh
ảnh “lá vàng khóc lá xanh rơi” mà măi hàng chục
năm sau vẫn c̣n tiếp diễn. Ngày đất nước
chia đôi, hai bên bờ sông Bến Hải trở thành
khu Phi Quân sự. Cái đồn canh của Pháp trên
đỉnh đèo Ba Dốc trở thành đồn
của Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Ngưng
bắn gọi tắt là ICCS. Cầu Hiền Lương
bắt qua sông Bến Hải được chia hai,
phần trong Nam sơn màu xanh, phần ngoài bắc sơn
đỏ; giữa là vạch sơn trắng, biên
giới của hai miền, của tự do và nô lệ,
của dân chủ và độc tài, của cái mỹ
danh Tiền đồn chống Cộng của Thế
giới Tự do và Tiền đồn phe Xă hội
chủ nghĩa. Từ đó bắt đầu cuộc
chạy đua, một bên tiến lên phía trước
của văn minh phát triển, một bên tụt
lại hàng chục năm sau v́ vừa theo đường
lối Chủ Nghĩa Xă Hội, vừa dốc toàn
lực vào cuộc chiến xâm lược miền Nam. Đứng trên đèo
Ba Dốc nh́n ra phương Bắc, con đường
quốc lộ 1 thẳng tắp vượt qua cầu
Bến Hải chạy sâu vào lănh thổ huyện Đồng
Hới. Hai bên bờ là hai cột cờ mà mỗi năm
mỗi được xây cao thêm, v́ bên nào cũng
muốn tỏ ra hơn hẳn đối phương. Lá
cờ rộng có lẽ bằng cả sân làng. Bên kia,
nhiều cán bộ đă chết oan ức v́ leo lên
đỉnh gỡ rối lá cờ. Tôi có nhiều
dịp đến tận sát đầu cầu nh́n qua bên
kia. Cũng có vài lần ra đến chợ Cao Xá, nơi
khoảng cách hai bờ hẹp nhất. Con sông Hiền Lương
bắt nguồn từ núi Trường Sơn đổ
ra biển Đông ở cửa Tùng, nước chảy
lặng lờ, sóng gợn nhẹ buồn mênh mang. Trên
sông, vài con thuyền trôi êm, không tiếng ḥ, câu hát.
Chợ Cao Xá nằm sát bờ sông. Những ngày phiên
họp đông đúc, bày bán đủ thứ hàng
phong phú của miền Nam kinh tế tự do. Người
qua lại lũ lượt áo quần màu sắc
rực rỡ. Dăy loa công suất lớn gồm hàng
chục cái chỉa sang bờ Bắc, phát ra những bài
ca t́nh tứ, ca ngợi cuộc sống êm đềm,
ấm no của miền tự do. Phiá bên kia bờ,
cảnh vật đ́u hiu. Một ngôi nhà ngói đỏ
lạc lỏng giữa vài căn lều xơ xác. Vài
người nông dân đứng âm thầm giữa cánh
đồng buồn hiu; trên đường có chiếc
xe ba càng nặng nề kêu cút kít. Hàng loa tṛn ngoài
đó không mạnh đủ để đưa
những luận điệu tuyên truyền vượt
qua con sông hẹp. Phải những ngày nghịch gió, ta
c̣n nghe văng vẳng vài câu hát the thé toàn chuyện chăn
nuôi, sản xuất. Nơi đây, vùng
phi chiến. Không có bóng dáng người chiến binh.
Chỉ thấy anh cảnh sát mặc đồng
phục trắng qua lại. Sau này, chính quyền ta
lập ra quận Trung Lương nhỏ bé để
đảm trách phần hành chánh của vài ba xă
nằm trong vùng. Tôi có dịp ra chơi nhiều lần
trong những dịp hè, v́ Lễ Môn là quê hương
của người anh rể tôi. Những ngày nắng
đẹp, chúng tôi chạy đuổi bắt nhau qua
những rừng đầy trái sim chín và trái chu ṃi
chua chua, ngọt ngọt. Sáng sớm th́ đi đâm
chuột ở các thửa ruộng vừa gặt xong;
những con chuột đồng béo mập, lông vàng hoe,
đem về cho vào hông với lá sả là tuyệt. Thế rồi... Cảnh thanh b́nh
đột ngột biến mất. Uỷ hội
Quốc tế rút đi, thay vào đó là toán Hiến
binh đội nón cát két đỏ. Tiếng sáo
chiều nhẹ nhàng đă bị thay bằng tiếng
đạn cối đêm đêm vọng về.
Chiến cuộc bắt đầu từ các vùng Cam
Lộ, Hướng Hoá lan dần xuống. Đông Hà
trở thành căn cứ quân sự lớn với các
chàng trai trẻ Sư đoàn 1 Bộ binh kiêu hùng.
Cộng sản phản bội Hiệp định Geneve,
thành lập cái gọi là Mặt trận Giải phóng
Miền Nam trong kỳ Đại hội đảng
20-12-1960 nhằm thôn tính miền Nam. Du kích nằm vùng
bắt đầu quậy trở lại. Chiến tranh
lớn dần, lan dần ra tận khu phi quân sự.
Đạn đại pháo từ bên kia bờ ngang nhiên
bắn phá vào làng mạc miền Nam. Các căn cứ
A-1, Côn Thiên trở thành pháo lũy kiên cường, nơi
những người chiến sĩ Trung đoàn 2
của Đại tá Vũ Văn Giai ngày đêm gian nguy
chống giữ. Sông Bến Hải lại lần
nữa chứng kiến cảnh huynh đệ tương
tàn. Năm 1965, tôi đang
làm cho một cơ quan chống khủng bố của
Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Quảng Trị.
Ngày đưa ba tên Tôn Thất Dương Kỵ,
Trịnh Đ́nh Thảo và Nguyễn Văn Huyến (tôi
không nhớ chính xác lắm về tên sau này) tống
cổ ra Bắc v́ tội ăn cơm Quốc gia,
thờ ma Cộng sản; tôi lại lần nữa ra
tận chân cầu Hiền Lương. Con sông vẫn
chảy lặng lờ, như vô t́nh trước cơn
binh lửa. Sóng gợn nhẹ lăn tăn, lấp lánh
ánh mặt trời như một điệu ru buồn năo
ruột. Hai mươi lăm
năm sau, đất nước lại thanh b́nh, tôi qua
Hiền Lương trong một chuyến xe đ̣ đi
Hà Nội lo giấy tờ và thăm cho biết quê hương
trước khi ra đi xuất cảnh. Cảnh trù phú
rộn rịp của những năm “cởi mở”
đă thực sự chấm dứt ở Đông Hà, cách
đó 15 cây số về phía nam. Từ Bến Hải
ra đến tận Hà Nội là cảnh tiêu điều
hoang sơ, nghèo ơi là nghèo. Nghèo ngoài sự tưởng
tượng. Chiếc cầu Hiền Lương c̣n trơ
khung sắt đă tróc rỉ. Mặt cầu không c̣n
lớp ván mà thay bằng những cây rừng gác
tạm bợ, buộc với nhau bằng đủ
loại dây nhợ. Hai móng cầu đă nứt nẻ,
người ta dùng dây kẽm gai chằng néo chống
đỡ. Đă mười lăm năm sau chiến
tranh mà cộng sản vẫn chưa văn hồi
được cảnh thanh b́nh an lạc nơi miền
quê đau khổ này. Bên bờ Bắc, vẫn những
tấm áo nâu sồng rách bạc, lầm lủi đi
trong mưa. Đường lộ không c̣n nền
nhựa mà chỉ đá đất lởm chởm đầy
ổ gà. Hai bên, thỉnh thoảng thấy những
cụ già, những bé thơ gầy c̣m đứng xin
ăn. Các thiếu nữ th́ che tấm chiếu chờ
những chuyến xe từ miền Nam ra gạ gẫm bán
thân, đổi lấy lon gạo trắng cho bữa cháo
ngày mai của gia đ́nh. Con sông Gianh, nơi phân
chia thời Trịnh Nguyễn, nước đục
ngầu, chiếc cầu bắc qua đă bị phá
hủy trong chiến tranh vẫn chưa được xây
lại. Xe cộ phải qua cầu phà ghép bằng đủ
loại ca nô và tấm gi sắt cũ. Người dân
xứ Nghệ Tĩnh, cục cưng của chế
độ Cộng sản thật khó thương.
Họ vừa cục cằn, thô lỗ, vừa bẩn tính.
Xe tôi dừng ngủ đêm chờ sáng. Trước khi
qua phà, tôi cầm ca và bàn chải đánh răng bước
vào một căn nhà xin nước sạch để
rửa mặt, súc miệng. Chưa đặt chân qua
cổng, đă nghe cái giọng trọ trẹ dễ ghét:
“Khoông cho mô, đừng vô.” Thử tưởng tượng,
cái giếng nước th́ đầy nhóc, mà ḷng người
th́ quá khô cạn. Th́ ra, thống nhất từ lâu, nhưng
Nam Bắc vẫn không thể chan hoà được.
Ranh giới địa lư đă xoá mờ, nhưng ranh
giới ư thức hệ, ranh giới của văn hoá,
ranh giới của t́nh người, ranh giới của
sự phát triển vẫn c̣n kéo dài cho đến
cả nhiều thập niên về sau. C̣n một con sông
Bến Hải mới giữa những người không
phương kế, phải ở lại và những người
ra đi đến bến bờ tự do trên hàng
chục nước khác nhau khắp hoàn cầu. Hàng
chục năm với hai lối sống hoàn toàn khác
biệt đă tạo ra một khoảng cách rất xa
giữa hai nếp suy nghĩ mà dễ ǵ rút ngắn
nếu ngày mai đây, khi tự do, dân chủ văn
hồi trên quê hương. Đỗ Văn
Phúc
|