Noel
ở Cẩm-Nhân Vương Mộng Long |
Tháng
7 năm 1976 tàu Sông Hương cập bến Hải-Pḥng.
Chúng tôi, khoảng ba ngàn tù cải tạo, cựu sĩ
quan của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, được
chuyển lên tạm nghỉ một ngày ở Sáu-Kho. Trong
chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù binh
đă hao hụt mất hai người. Một người
bị trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống nước
ch́m luôn ở Tân-Cảng, Sài-G̣n đêm khởi hành. Người
thứ nh́ chết trên tàu giữa biển khơi. Trước
đây, trong tháng 6 năm 1976, cũng đă có vài
chuyến tàu chuyển tù, ghé bến Sáu-Kho. Nhưng trí
ṭ ṃ của dân địa phương, nhất là
những đứa trẻ con, vẫn bị lôi cuốn
bởi h́nh ảnh khác thường của đoàn hành
khách mới tới. Người
từ phương Nam ra, đi từng cặp một,
tay trái của người đi bên phải, c̣ng
với tay phải của người đi bên trái.
Mọi người vai mang nặng, mặt mày buồn
rầu, xanh xao, thân h́nh gầy g̣, tong teo. Họ nối
đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu không
nh́n ai. Hai bên là những họng súng AK với lưỡi
lê tuốt trần. An ninh thật là nghiêm ngặt. Đoàn
tù được lùa vào khu đất rộng, có sáu cái
nhà ṿm dài và cao bằng tôn. Xung quanh khu nhà ṿm này
là băi cỏ cháy khô, hôi thối, v́ đây là băi đại
tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư
lao động gần đó. Quanh đây, dày đặc
hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu
cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo
tấm. Sau
khi được cởi khóa cái c̣ng, tôi gởi ba-lô
cho anh bạn tù Ngô Văn Niếu giữ giùm. Tôi lang
thang trên sân cỏ Sáu-Kho, rồi tạt vào căn nhà ṿm
của những tù binh cấp úy. Vừa bước
qua cửa đă có người nhận ra tôi rồi.
Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuưt xoa, –
Thái Sơn! Anh c̣n sống ư? Độ đây! Em
nghe đồn anh chết ngày Ba Mươi. Vậy mà
anh c̣n đây. Ôi! Mừng quá! Anh ngồi xuống
đi! Anh
Phạm Xuân Độ là đại úy sĩ quan chỉ huy
hậu cứ của Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân.
Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Độ
mới từ Lực Lượng Đặc Biệt
chuyển sang Biệt Động Quân. Độ
cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với
bạn của anh ta, –
Đây là Thái-Sơn, đàn anh của tớ. Xin
giới thiệu với các bồ, để các bồ
quen biết một đàn anh, đúng nghĩa một
đàn anh. Nghe
anh Độ quảng cáo ồn ào như thế, những
người bạn của anh ta liền tỏ thiện
cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi
xuống manh chiếu góc nhà. Họ mời tôi hút
thuốc lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào
trong Nam? Tôi có quen, có gặp người này, người
kia hay không? Sau
khi quân đội ta tan ră, nhiều cấp chỉ huy
trở thành những cái bia hứng chịu phỉ
nhổ của người dưới. Tuy thế, cũng
có nhiều cấp chỉ huy trở thành nỗi
luyến tiếc cho thuộc cấp, mỗi khi họ nói
về kỷ niệm một thời đă qua. Cũng
may, cái cung cách chỉ huy nghiêm khắc tại mặt
trận và thân ái ḥa đồng ở hậu cứ
của tôi, không làm thuộc cấp ghét bỏ hay
hận thù.V́ thế mà hôm ấy, ở một nơi
ngh́n trùng xa Sài-G̣n, vào cái thời buổi không c̣n ǵ
nhục nhă hơn, thật khó tin c̣n có người
lễ phép mời ḿnh ngồi uống ly cà phê nấu
bằng cơm cháy pha với đường thẻ,
rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh
liệt, vàng son. Một
người vừa sà xuống chiếu, nh́n tôi gật
đầu chào thân thiện. Tôi vội vàng gật
đầu chào lại. Người
sĩ quan này da ngăm ngăm. Má anh ta có cái nốt
ruồi bằng hạt đậu. Dáng anh ta quen quen… Tôi
ngờ ngợ đă gặp anh ta ở đâu đó? Anh
bạn mới, giọng Bắc trầm trầm, tự
giới thiệu, –
Tôi tên là Trần Gia Toản, “Toản Thuốc Lào”. Tôi
là em ruột của Trần Gia Toàn cùng khóa với anh. Tôi
là bạn thân của Độ. Tôi có rất nhiều
bạn Biệt Động Quân. Bạn tôi ai cũng thương
anh và phục anh lắm. Tôi đă nghe tên anh nhiều
lần. Nay có dịp gặp anh, thật là hân
hạnh. Tôi
chợt hiểu, th́ ra anh ta là em ruột của Trần
Gia Toàn, bạn cùng Khóa 20 Vơ Bị của tôi. Anh em nhà
này giống nhau quá, hèn nào tôi thấy anh ta trông quen
quen… Những
người tuổi trẻ thích nói thật, không ṿng
vo, quanh co. Hiểu nhau rồi th́ chúng tôi dễ trở
thành thân. Từ hôm ấy tôi có thêm một số
bạn. Những
người bạn mới lấy ḿ gói ra, giấy bao ḿ
gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi,
vỉ cơm cháy trở thành cà phê. Bỗng
nhiên, tôi thành người khách quư của nhóm bạn tù
cấp úy trong góc một căn ṿm Sáu-Kho hôm ấy. Ăn
ḿ xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca cà phê cơm cháy.
Uống cà phê mà không kèm theo khói thuốc th́ không
đúng “gu”. Anh em mời tôi hút thuốc lào. Khi
biết tôi chưa tập hút được thuốc lào,
th́ chỉ nháy mắt sau tôi đă có một bao
thuốc lá Sài-G̣n Giải-Phóng. Qua
trao đổi với họ, tôi được tin
tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn
vị như chú Lư Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú
Nguyễn Ngọc Khoan… Tôi
cũng có tin những bạn cũ đă chết v́ vượt
trại như Quách Hồng Quang và Phạm Hữu
Thịnh. Buổi
chiều, chúng tôi bị lùa xuống các hố B52, nước
màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc lên
bờ, đỉa đói c̣n bám từng chùm, lủng
lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt măi chúng
không chịu nhả ra. Sau
khi được phát mỗi người một gói lương
khô Trung-Cộng, đoàn tù được lệnh
chuẩn bị đội ngũ chờ xe lửa để
lên đường. Nghe đâu, người ta sẽ
đưa chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên
giới Trung-Hoa, thuộc tỉnh Yên-Bái, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang… Chuyến
xe lửa Hải- Pḥng Yên- Bái khởi hành lúc nửa
đêm. Chúng
tôi được dồn lên những toa chở súc
vật. Cứ bốn mươi người một toa,
khóa trái bên ngoài. Diện tích của toa xe chỉ
đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc đứng
chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái
cửa ṭ ṿ to bằng bàn tay xoè nơi bốn góc. Tôi
chui vào chiếm một góc và tḥ mũi ra lỗ cửa
ṭ ṿ để thở. Ngồi kế tôi là
Thiếu tá Hoàng Đ́nh Mẫn nguyên tiểu đoàn trưởng
Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Thiếu tá Mẫn
là vị tiểu đoàn trưởng già nhất
của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương
nhau như anh em. Xe
chạy được khoảng một giờ th́ không
khí trong toa bắt đầu ngột ngạt. Lúc
lên xe, trưởng đoàn vệ binh có chỉ định
anh cựu Đại úy tên là Thu làm trưởng toa. Từ
đầu hôm, anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ
sinh. Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu
bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và
ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh. Tôi
chưa kịp phản ứng th́ anh Thu đă dện
một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành
cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi
vào cửa ṭ ṿ hít khí trời. Ông
Mẫn vừa ôm mặt khóc, vừa chửi rủa. Anh
Thu có dáng dấp của một vơ sĩ. Anh không
cao lắm nhưng rất “đô” con. Anh
cởi áo và vắt những ḍng mồ hôi vừa nóng
vừa nồng trên đầu tôi v́ lúc đó tôi
ngồi dưới chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên
tôi, tḥ mũi ra lỗ ṭ ṿ. Mồ hôi của anh
nồng kinh khủng. Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra xa tôi
một chút. Anh
hậm hẹ, –
Đù mạ! Lộn xộn ăn đ̣n à con! Mày
nhỏ con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán
chỗ. Biết điều th́ ngồi êm! Cục
cựa ông bẻ răng à! Anh
Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng qua gáy tôi. Mùi hôi
nách làm tôi tắc hơi. Tôi lách đầu cho mũi tôi
ghé vào một góc cửa sổ. Tôi hít lấy, hít
để cái không khí thơm mùi đ̣ng đ̣ng, lúa
mới ngoài kia. Chợt
anh tù trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi
đập vào thành xe nghe “kịch!” một cái, đau
tới hoa cả mắt. –
Ê! Ê! Ê!… anh này chơi ác quá vậy? Trong
lúc quưnh quáng, tôi quưu lưỡi, nói xàm như một
đứa bé. Chưa
xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du côn chẹt cổ
tôi, tống tôi vào góc xe, –
Ngồi im! Cục cựa ông bóp chết! Tôi
chợt cảm thấy có cái ǵ đó ứ nơi
cổ. Mặt
tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào một hơi dài,
rồi thở ra từ từ. Tôi
ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi ṃ t́m… ṃ t́m… Tôi
t́m được nó rồi! Cái nĩa U.S bằng inox,
tôi cài nó trong cái túi bên hông ba lô… Cú
đâm quyết định bị trệch mục tiêu v́
thế ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt
mắt trái của anh vơ sĩ, rạch một vết rách
sâu trên trán anh. Tay
trái tôi hất mạnh một cái cùi chỏ ngay cằm
anh. Anh
chưa kịp la lên th́ cái nĩa đă nằm dưới
yết hầu. Tôi
gh́ ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay
yết hầu kẻ thù. Nhiều
lần đánh lộn thời học sinh, cũng như
trong chiến trận sau này, tôi đă áp dụng thành
thạo những đ̣n cận chiến học từ
tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện
Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954). Hồi
đó nhà tôi ở sát cạnh băi tập thể
chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước
cổng Đông làng Vẽ. Ngày
ngày chứng kiến tân binh Nhảy Dù học cận
chiến, tôi thuộc nằm ḷng những thế dao găm
đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm
xuôi… Hơn
hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc
vật, tôi phải sử dụng cái thế đâm ngược
lợi hại này, với một cái nĩa, để
hạ một đồng đội. Tôi
chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi
xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái
yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra
khỏi cần cổ nó. Tôi
nghe tiếng, –
Em lạy anh, tha cho em! Tôi
lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh vơ sĩ
và nói nhỏ, –
Cút về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi. Tên
tao là Vương Mộng Long, tao đă từng là
Tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Sau
khi xuống ga, mày có thể t́m tao bất cứ lúc nào. Bảo
Huân Ông
vơ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu ḅ về
hướng đầu toa, trả lại cái cửa ṭ
ṿ cho mười anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló
mũi ra để hít chút không khí mà sống. Tàu
đi ngang cầu Phú-Lương, Hải-Dương, tôi
xin anh em cho tôi được ngồi lâu hơn một
chút nơi cửa sổ để ngắm nh́n cây
cầu tuổi thơ của tôi. Tôi
đă đi qua cây cầu này bằng đôi chân
trần tuổi lên sáu, từ vùng “Tề” chạy
giặc trở về thành phố Hải-Dương
đổ nát điêu tàn. Trong
trí nhớ non nớt của tôi chỉ c̣n: cầu Phú-Lương
đồng nghĩa với cầu Đen. Cầu dài
lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính
gác cầu cũng là lính Marốc da đen. Tôi
qua cầu một ngày cuối năm 1948. Từ ấy tôi
không c̣n thấy nó. Cho măi tới đêm nay, tháng 7 năm
1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa. Hôm
nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa,
v́ tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối như
mực. Tôi nh́n cây cầu nơi chôn nhau cắt
rốn từ cái cửa ṭ ṿ của một toa xe
chở súc vật. Trong toa xe chở súc vật này là
những sinh vật ưu tú của một dân tộc
anh hùng. Những
sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa thành
súc vật. Những con vật này đang tranh sống. Chúng
đang giết lẫn nhau để sống. Toa
xe lao nhanh. Động cơ hơi nước ph́ phà
“śnh sịch! śnh sịch!” Bánh sắt rít trên tà
vẹt nghe “ken két! ken két!” rợn người.
Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát thành xe. Rồi
tôi không nh́n được ǵ thêm, nước mắt
đă rơi, nước mắt bốc thành hơi,
đôi mắt cay… Trời
mờ sáng th́ tàu đi ngang Vĩnh-Phúc-Yên, những
hố bom B52 c̣n như rất tươi trên ruộng lúa,
dọc hai bên đường tàu. Những đoạn
đường sắt ở đây cũng thấy như
mới được đắp vá. Không khí trong xe
ngột ngạt hơn. Chúng
tôi thay nhau cái lỗ ṭ ṿ với tốc độ mau hơn,
quyền được thở giảm bớt. Người
được thở tự đếm, “một,
hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết!” rồi
ngồi nhích sang một bên, nhường cho người
kế tiếp. Chúng
tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn. Đôi
người đă khóc, đôi người vẫn cười. Giờ
phút ấy có lẽ không ai c̣n nhớ đến vinh
quang. Nơi
góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười
sĩ quan Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa chia sẻ
nhục nhằn để sống. Ba
góc c̣n lại của toa xe không có cái trật tự
tự nguyện này. Đă có chuyện không hay. Có
ai đó nơi đầu toa bị ngộp thở. Tiếng
người nói xôn xao, –
Làm hô hấp cho anh ấy đi! Có
tiếng la to, –
Anh bộ đội ơi! Có người xỉu! Anh
bộ đội ơi! Tàu
vẫn chạy śnh sịch, śnh sịch… tiếng kêu
cứu loăng trong không gian, không lời đáp lại. Xế
trưa hôm đó chúng tôi vào ga Yên-Bái. Đang phiên
thở hít của tôi, tôi nghe tiếng người
gọi nhau, –
Tù tới! Tù tới! Tôi
thấy vài người dân vội vàng cúi lượm
những viên đá xanh lót đường tà vẹt.
Thấy không ổn, tôi thụt mũi vào trong toa. Tôi
nói với Thiếu tá Trần Ngọc Báu, Trưởng
pḥng 2 Tiểu khu Pleiku là người kế phiên hít
thở, –
Đừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó! Anh
Báu không tin. V́
tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rơ tiếng
reo, –
Thằng Mỹ mày ơi! Rồi
anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu. Một
cục đá xanh đập vỡ mũi anh. H́nh như
hai cái răng cửa đă nhảy ra khỏi miệng
anh. Khuôn
mặt Tây lai của anh biến thành cái mặt nạ máu
me bầy nhầy. Cái
cửa được bít lại ngay bởi cái thùng
đựng đạn trung liên chứa nước
của ông già Mẫn. Đoàn
xe lửa bị một trận mưa đá tới
tấp tấn công. Cho
tới khi vài viên đá lạc vào toa xe của vệ
binh th́ tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên. Rồi
tiếng đá chạm thành toa cũng ngưng. Đoàn
xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét th́ ngừng bánh. Tù
được lệnh xuống xe. Tôi là một trong
những người đạp đất sớm
nhứt. Không
đội ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở
về nơi nào đó đă định. Hai bên
đường, có những người dân mặc trang
phục Dao, Tày, Thái, Mán, Thổ, Mường… ngơ
ngác trông theo. Tới
một ngă ba, cứ một xe rẽ về trái, th́ xe
kế tiếp rẽ về phải. Th́ ra, đoàn tù
được chia làm đôi, một nửa đi
về Đông Bắc qua hồ Thác-Bà, nửa c̣n lại
qua sông Hồng đi về hướng Tây. Chiếc
xe chở tôi đi về hướng Đông Bắc. Anh
bạn cùng Khóa 20 Vơ Bị, cùng binh chủng Biệt Động
Quân là Ngô Văn Niếu cũng ngồi chung một xe
với tôi. Đoàn
776 Cộng-Sản không đủ phương tiện
đưa hết đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi
được chia ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt
hồ. Toán
của tôi là toán chót, lên ca nô sau toán đầu hai ngày,
hai đêm. Hồ
Thác-Bà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây
số. Ca nô đưa chúng tôi đi ngược lên
đầu nguồn sông Chảy, lướt chậm trên
di tích của một thung lũng cổ. Trong
đám đọt cây khô giữa làn nước
trắng, một gác chuông thánh giá đứng lẻ
loi, phần dưới của nhà thờ ch́m trong nước. Nắng
mai từ đỉnh núi hướng Đông chiếu
xuống mặt hồ, làm cho những đợt sóng lăn
tăn lấp lánh như dát bạc… Chúng
tôi đến cuối Hồ Thác-Bà, hạ trại nơi
không xa một xă người Tày. Xă đó tên là
Cẩm-Nhân. Xă Cẩm-Nhân thuộc huyện Yên- B́nh, Yên-Bái,
tỉnh Hoàng- Liên- Sơn, cách biên giới Việt-Trung
gần 50 km. Bên
bờ hồ, nơi một băi lau sậy được
đặt tên là Trại 3 Liên Trại 4, tôi và anh
bạn Ngô Văn Niếu, Tiểu đoàn trưởng
Biệt Động Quân nằm cạnh nhau. Lán trưởng
của tôi lại là anh Đại úy tên Thu đă có
lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe
lửa Hải-Pḥng Yên-Bái. Anh
Thu nh́n tôi như kẻ lạ, như chưa từng
thấy nhau. Nh́n cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh
thật là chóng quên. Tối
đầu tiên ở đây, anh bạn già Nguyễn Tuyên
Thùy cho tôi biết một tin buồn: Có ông Thiếu tá
dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc
tự tử. Dược sĩ Duy được bó
chiếu chôn bên cạnh hồ. Như vậy, trong
Nam, gia đ́nh anh Duy sẽ là những người đầu
tiên biết chồng con họ đang ở đâu. Anh
Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước,
nên chứng kiến nhiều chuyện. Anh c̣n nói
rằng, –
Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên
chuyến xe lửa từ Vinh ra Yên-Bái hồi tháng trước… Anh
nói chuyện người chết, người sống
nghe nhẹ như không. Mà thực vậy, lúc này sinh
mạng một người tù thua trận nhẹ như
không… Sáng
hôm sau anh Thu tập họp đồng đội trước
lán để truyền lại nội quy của trại
cho những người mới tới. Anh phân tích rơ
tội nào sẽ bị h́nh phạt ǵ. Những tội
cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp
phần ăn. Tội phát ngôn bừa băi có thể
bị cùm, bỏ đói…Tội vượt trại có
thể bị xử bắn…vân vân. Anh cảnh cáo
rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo
ở đầu giường anh th́ sẽ biết tay
anh. Tôi
đi quanh trại, la cà tṛ chuyện cùng vài người
quen. Những vị này, thời chiến tranh Đông-Dương,
1945-1954 đă có dịp qua đây, như Trung tá
Nguyễn Hữu Phú cựu Tham mưu trưởng
Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân/ Quân Lực
Việt-Nam Cộng-Ḥa, Thiếu tá Hoàng Đ́nh Mẫn
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động
Quân, Thiếu tá Bùi Ngọc Long Tiểu đoàn trưởng
Địa Phương Quân Tiểu khu Quảng Đức,
Thiếu tá Nguyễn Tuyên Thùy ở Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ
duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa
thế, dân t́nh quanh khu Thác-Bà. Các
vị ấy cứ lắc đầu, –
Đường xa diệu vợi lắm! Đừng
dại mà trốn trại! Mất mạng đó em ơi! Tôi
cứ nghe các anh ấy can ngăn như thế mỗi
khi tôi tỏ ư muốn… đi. Cuối
cùng tôi gặp Đặng Quốc Trụ, người
bạn cùng khóa; anh ta đă từng là Tiểu đoàn
trưởng của Trung đoàn 48 Sư Đoàn 18 Bộ
Binh. Nghe tôi ngỏ ư t́m bạn đồng hành để
đi Lào, anh Đặng Quốc Trụ hưởng
ứng ngay… Chúng
tôi chưa biết rơ xă Cẩm-Nhân nằm ở nơi
nào trên bản đồ Việt-Nam th́ toán trốn
trại đầu đă nhổ neo. Bốn đại
úy gồm hai ông ở Tổng Thống Phủ và hai ông
pilots trực thăng. Đi được ba ngày th́
bốn Papillons bị bắt lại. Ṭa
án giữa đồng được thiết lập.
Không có lời buộc tội nào từ phía cai tù
Cộng-Sản, mà chỉ có quân ta kết tội
lẫn nhau. Nghiêm khắc nhất là một cải
tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đă
đề nghị xử bắn những người
đi trốn để anh ta được yên tâm
cải tạo (!) Vài
người nữa lên phát biểu ư kiến xin
trại phạt nặng những kẻ vô kỷ
luật để làm gương cho những kẻ khác. Ban
chỉ huy Cộng-Sản của trại cũng không ư
kiến. Ṭa giải tán. Không
ai dám hé răng bàn tán về những ǵ đă xảy
ra. Bốn
anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban
chỉ huy trại. Hai
ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi. Toán này
gồm có hai người và được coi là có “kí
lô”. Họ là Đại úy Biệt Kích Trần Trung
Ginh và Đại úy Nhảy Dù Tôn Thất Ủy (Ủy là
tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư lệnh Sư
Đoàn Dù /Quân Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa). Sau
khi phát giác có thêm một vụ trốn trại
nữa, cán bộ Chính Trị Cộng-Sản của
Trại 3 tập họp tất cả chúng tôi lại, răn
đe, –
Các anh sẽ phải trả giá. Không ai thoát khỏi
mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi!
Tôi thách các anh đấy! Giữa
đêm đó Vương Mộng Long và Đặng
Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa
của bác Biệt Động Quân già Hoàng Đ́nh Mẫn
nằm trong hành trang của tôi, và chai dầu lửa
của anh đội trưởng tên Thu cũng nằm
trong hành trang của tôi. Vài
ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3 Liên
Trại 4 bị giải tán, tù nhân được chia
cho các Trại 5,7,9 kế bên. Một
đoàn tù từ bên hướng Tây sông Hồng
được đưa về đây xây Trại 3
mới. Cái
đêm 8 tháng 8 năm 1976, tôi và Đặng
Quốc Trụ trốn trại lần đầu là
một đêm mưa, khởi đầu trận băo
Số 6 khốc liệt. Trận băo này gây nên mưa gió
kéo dài hơn một tuần lễ. Mười
ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn
quẩn trong rừng tre, rồi bị vây bắt
lại. Tên
Việt-Cộng chấp cung tôi đă thẩm vấn tôi
câu đầu, –
Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để anh
đi trốn hay không? Tôi
“thành khẩn” khai báo, –
Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi
anh đội trưởng c̣n ngủ. Tên
cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm, –
Lạ nhỉ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng
không hiểu tại sao anh ấy không tự biện
bạch? Từ
đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có dịp
gặp lại anh Thu, không rơ đă có hậu quả ǵ
đến cho anh sau khi tôi đi. Tôi
và Trụ được đưa về nhốt ở
Trại 4 Liên Trại 4. Tại đây đă có 2 “đồng
bọn” đang nằm cùm, đó là Trần Trung Ginh và
Tôn Thất Ủy. Cuối
năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm
để về đội lao động. Nhiều
dân trốn trại đă được quy tụ
về đây trước đó. Trong số ấy có
một băng Vơ-Bị, gồm Trần Tấn Ḥa
(Nhảy Dù, k20 VB), Nguyễn Văn Nghiêm (Nhảy Dù, k20
VB), Trần Đăng Khôi (Nhảy Dù, k16 VB), Hồ Văn
Ḥa (Biệt Động Quân, k16 VB), Chu Trí Lệ (SĐ23, k16
VB), Trần Bá Huệ (Phủ Tổng Thống, k16 VB)
Trần Đ́nh Bính (Phủ Tổng Thống, k14 VB). Anh
Đặng Quốc Trụ được đưa về
Đội 10 dưới quyền đội trưởng là
cựu Trung tá Lâm Kỳ Sáng. Tôi
về Đội 11 dưới quyền cựu Đại úy
Đặng kim Bảng. Vừa
chui vào lán, tôi đă nghe giọng Bắc Kỳ quen, –
Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em không? Dù
lúc đó là buổi chiều mùa Đông, trong lán tranh
tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay Toản
Thuốc Lào. –
Quên sao được hả chú! Mới tháng trước
đây, chúng ḿnh chia tay nhau ở Sáu-Kho… Ngay
lúc ấy người đội trưởng bước
vào, anh ta nói tôi sẽ được cử đi gánh
gạo tiếp tế chiều nay cùng với đội
ở bên Cẩm-Nhân. Sau
nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai
cây số đường đồi tới chợ
Cẩm-Nhân, chân tôi đă muốn ră ra rồi. Đến
Hợp-Tác Xă Nông-Nghiệp tôi gặp hai anh bạn cùng
khóa là Nguyễn Xuân Hoè và Vũ Văn Minh; hai anh này
ở trại khác, cũng đi gánh gạo chiều nay,
mừng mừng, tủi tủi. Bên
kia đường, tôi thấy có người đưa
tay vẫy. Tôi t́m trong óc xem có phải anh ta cùng khóa
với ḿnh không? Không! Hóa ra đó là anh Thu! Thấy
anh, tôi nhớ chuyến tàu hôm nào từ Hải-Pḥng
đi Yên-Bái. Tôi
nhớ ra chai dầu lửa anh cố t́nh treo trên
lối ra vào của lán tù Trại 3. Đêm vượt
trại, chỉ cần giơ tay, tôi đă nẫng
được chai dầu một cách nhẹ nhàng. Tôi
định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay
của anh Thu, th́ đoàn tù gánh gạo ấy đă
đi xa rồi. Hôm
đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng lượng
cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến hai người. Toản
cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước. Chúng
tôi phải ḥ “Dô ta!” để lấy đà đứng
lên. Toản
ḥ “Dô… ta!” rồi, nhưng Toản không đứng
lên. Toản
cúi xuống lượm cái ǵ đó. Tôi hỏi, –
Sao không đi Toản? Toản
cười, –
Em có quà cho đại ca! Anh
ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi
một cục kẹo đường đen, –
Em lượm được cục kẹo, anh ăn cho
hồi sức đă mất trong nhà cùm. Tôi
cảm động, nhận cục kẹo đường
đen to bằng đầu ngón tay út. Toản
cười, –
Anh có nhớ hôm nay là Noel đó không? Tôi
cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản
một nửa, -
Merry Christmas! Thấm
thoắt đă mấy chục năm đi qua. Tôi
thấy buồn khi nh́n Noel trở lại. Tôi
thấy buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không c̣n
sức để gánh chung cùng bạn một gánh
gạo nặng 150 kg trên đoạn đường
đồi dài 2 km nữa rồi! Noel
nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh
gạo, nhớ cái vẫy tay của anh Thu, nhớ chai
dầu lửa, nhớ cục kẹo đường
đen ở Cẩm-Nhân, và nhớ Trần Gia Toản cùng
những người bạn tù thuở ấy… Vương
Mộng Long |