Lời mở đầu:
Năm nay, tôi đă 77 tuổi đời. Quay nh́n
lại đoạn đường đă qua, tôi đă
tự thống kê với 15 năm đi lính, tất nhiên
là lính Việt Nam Cộng Ḥa, gần 9 năm tù
cộng sản và hơn 20 năm làm việc lao động
cho một Xưởng In nhật báo The Washington Post
nhờ vượt biên ngay sau khi ra khỏi Trại Tù vào
tháng 3 năm 1984. Khi c̣n đi làm việc, do phẫn
uất trong ḷng, tôi cố gói ghém thời gian để
tự thực hiện 3 tập Truyện ngắn từ
năm 1990 với bút kư “Vào Nơi Gió Cát” và 2
tập truyện ngắn “Vết thương Việt
Nam” và “Chiến Tranh và T́nh Yêu”. Bên ngoài, tôi
thấy xuất hiện khá nhiều Hồi Kư của
một số Tướng lănh và viên chức của
thời Việt Nam Cộng Ḥa.
Tôi chẳng thấy thích thú ǵ khi đọc
những trang giấy chạy tội, không trung thực
chỉ nhằm bám víu vào những hư không để
cố khỏa lấp câu chưởi thậm tệ
của cố Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson là
“Một bè lũ ác ôn côn đồ”. Thế hệ
của chúng tôi lớn lên tại Miền Nam Việt Nam
trong một chế độ độc lập và dân
chủ đầu tiên, sau ngày Thực dân Pháp rút lui và
nền quân chủ của Nhà Nguyễn cáo chung. Như
nhà văn Trần Hoài Thư đă viết: “Viết
về một người cùng thế hệ, cùng
nhịp suy nghĩ, cùng con tim rực lửa, và cùng
những ngổn ngang trên vai, mà thế hệ chúng ta
đă bị gánh, bị chịu đựng, bị
lợi dụng… th́ thật là một điều
hạnh phúc. Nhất là đối với những người
có kinh nghiệm máu và nước mắt như… Hơn
thế nũa, có lẽ khác với những người
sĩ quan khác, anh đă dành th́ giờ viết cho
bạn bè, đồng đội hơn là bản thân
anh…”
Nh́n thấy thế hệ con cháu của ḿnh lớn lên
vô tư ở ngoại quốc, tôi bỗng thấy thích
kể chuyện về quảng đời 15 năm quân
ngũ để chúng đừng quên số phận
của khoảng 300 ngàn chiến sĩ đă hy sinh trong
cuộc chiến chống cộng sản bảo vệ
Miền Nam Việt Nam và cả hàng trăm ngàn Thương
và Phế binh c̣n lây lất. Chính nhờ họ chúng
mới có được một tương lai tốt
đẹp như ngày nay. Hơn thế nữa, tôi có
tham vọng muốn chứng minh cái gọi là Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam mới chính là Quân Ngụy.
Trần Ngọc Toàn - Cựu Tiểu đoàn Trưởng
TĐ4 Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH
***
Thiếu
úy non choẹt
Tôi tốt nghiệp ra trường Vơ Bị
Quốc Gia Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1962, đúng
22 tuổi đời. Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm lên chấp chánh đă cải tổ trường
Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, nguyên là E’cole des
Inter-Armes của quân đội Liên hiệp Pháp tại
Đà Lạt, thành trường Vơ Bị Quốc
Gia theo khuôn mẫu của trường West Point Hoa
Kỳ. Cơ sở được xây dựng trên
ngọn đồi 1515 về phía Tây của thành
phố Đà Lạt do viện trợ của Hoa Kỳ.
Với chương tŕnh 4 năm Đại học
về Khoa học ứng dụng và quân sự từ
cấp khinh binh đến cấp Trung và Đại
đội Trưởng liên Quân chủng, TVBQGVN nhằm
đào tạo những sĩ quan hiện dịch chuyên
nghiệp cho Quân Đội.
Bước
sang năm thứ 4, do nhu cầu chiến trường,
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đă đích thân
lên chủ tọa lễ măn khóa cho Khóa 16 chúng tôi. Con
số hơn 200 sĩ quan tốt nghiệp đă
được phân phối đi Không Quân 27 người,
Hải quân 15, Nhảy dù 3 với Thủ khoa Bùi
Quyền, Thủy Quân Lục Chiến 10 với Á khoa
Nguyễn Xuân Phúc sau này nổi danh trong trận tái
chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Lực lượng
Đặc Biệt, Biệt Động Quân, và các Sư
Đoàn Bộ Binh từ Cà Mâu ra đến Huế và
Quảng Trị. Chỉ trong ṿng 1 năm sau, số
tử trận ngoài chiến trường lên đă
gần 50 người.
Dù khóa chúng tôi đă được trui rèn thêm ở
Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở
Dục Mỹ trước ngày ra Trường, khi đến
đơn vị TQLC tôi cũng không được giao
chỉ huy Trung đội. Ít nhất cũng phải 3 tháng
mang súng đi theo học nghề từ các Hạ sĩ
quan thâm niên vốn xuất thân từ các đơn
vị Commando của Pháp.
Tôi
thuộc mẫu người phản ứng chậm, theo
phân tích tâm lư học. Lần dầu tiên, khi chính
thức được làm Trung đội trưởng
có hơn 40 TQLC với một số HSQ và hạ sĩ dày
dạn kinh nghiệm chiến trường và đám lính
ngổ ngáo, tôi cũng tỏ vẻ ḿnh cũng ĺ
lợm như ai. Trong cuộc hành quân t́m diệt địch
ở vùng đồng ruộng Cai Lậy, Mỹ Tho, khi
đang chỉ huy dàn quân tiến vào một b́a làng,
với tấm bản đồ trên tay, tôi bị
một loạt đạn Việt Cộng bắn
xối xả về phía ḿnh. Lính tráng đă đồng
loạt nằm xuống nấp. Chỉ c̣n một ḿnh tôi
đứng lớ ngớ do phản ứng chậm.
Tiếng súng im bặt ngay loạt đạn đầu.
VC chỉ bắn dọa và đánh lạc hướng.
Tôi quay nh́n sang bên phải.
Người lính gốc Miên nằm dưới mương
đă bị trúng đạn. Chiếc nón sắt
của anh lật ngửa chứa đầy óc trắng
hếu. Khẩu súng Garand vẫn dính trong tay gác trên
bờ mương. Máu phun ra ướt cả ống
quần phải của tôi. Tôi buột miệng la
lớn: “Y tá đâu?” Cùng lúc ư tưởng chạy
nhanh qua đầu. Như thế là con người
sống chết có số. Tôi c̣n đứng như
trời trồng đây. Người lính của tôi
đă nhanh nhẹn nằm núp xuống mương ngay bên
chân phải của tôi. Anh chỉ ló đầu đội
chiếc nón sắt. Nếu viên đạn hơi
lệch một mi-li-mét cũng khiến cho chiếc nón
sắt quay đi.
Đằng
này, viên đạn trúng ngay giữa tam tinh nên mới
đi xuyên qua đầu làm vỡ óc. Trong khi ấy tôi
là mục tiêu dễ trúng nhất. Lúc ấy, tôi
mới thấy lạnh xương sống. Nhưng
từ đó tôi không sợ ǵ nữa với ư tưởng
con người sống chết có số. Sau này, tôi
mới biết đám HSQ và lính tráng bảo nhau “Ông
Thiếu úy Đà Lạt này ch́ lắm.” Từ đó,
h́nh như lính tráng theo lệnh của tôi răm
rắp. Đúng là thử lửa. Tây nói là Baptême de
feu. Cũng từ đó, quả nói không ngoa, tôi đă
“Vào sinh ra tử” hơn cả chục lần trong
suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam Tự
Do cho đến cả cuộc di tản khốc liệt
từ Quảng Trị về đến Hố Nai Biên Ḥa
vào cuối tháng 4 năm 1975.
Sau này tôi mới biết, qua sách vở của VC sau năm
75, cộng sản Miền Bắc VN đă cho bọn VC
tập kết năm 1954 vào lại Miền Nam từ năm
1958 cùng với quân chính quy ngoài Bắc. Vũ khí Nga Xô,
Trung Cộng, Tiệp Khắc tuồn vào Nam trên bộ
lẫn ngoài biển. Từ năm 1962, chúng đă có
cả 100 ngàn quân với trang bị AK47, CKC, RPD và B40.
Trong khi, Tiểu đoàn 4 TQLC lâm trận B́nh Giả vào
cuối năm 1964, lính c̣n sử dụng súng Garand M1,
Carbine M1, súng phóng lựu của Mỹ thời Đệ
Nhị Thế Chiến. TQLC lại là một đơn
vị Tổng Trừ Bị tinh nhuệ của Miền
Nam. Người ta đă thử hỏi mấy ông Tướng
VNCH biết ǵ, đă làm ǵ và chỉ huy mặt
trận ra sao. Hay ngù ngờ, tranh giành quyền lực,
tham ô nhũng lạm, ăn chơi trác táng, phe đảng
nịnh bợ sau ngày Tổng thống Diệm bị
hạ sát, bỏ mặc cho lính chết ngoài mặt
trận.
Chúng tôi đă đi vào
cuộc chiến với tuổi trẻ đầy
nhiệt huyết và đầy lăng mạn.
Lăng mạn khi chàng hiệp sĩ xuống núi và túi
bị mang đầy lư tưởng. Lư tưởng
bảo vệ bờ cơi non sông mang an b́nh ấm no cho dân
chúng. Trong số những người bạn cùng khóa Vơ
Bị về TQLC, tôi có người bạn học cùng
lớp từ thời học trường Trung học
Quang Trung tại Đà Lạt là Trịnh An Thạch.
Đầu năm 1963, khi rủ nhau cùng vào tŕnh diện
Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC c̣n đóng ở
Thị Nghè, chúng tôi đồng ḷng cùng đi ra
đơn vị tác chiến. Không biết Tư
lệnh phó Nguyễn Bá Liên nghĩ ǵ đă chấm
Thạch về Tiểu đoàn Yểm Trợ Thủy
Bộ ở ngay hậu cứ. Do Trưởng pḥng Nhân
Viên đă cho chúng tôi chọn đơn vị nhưng
không ai đáp ứng nên đă quyết định phân
phối theo mẫu tự ABC từ Tiểu đoàn 1
tới TĐ4TQLC. Đi TĐ1 có Trần Văn
Hiển, TĐ2 với Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Xuân
Phúc. Ba chàng chữ T về TĐ4TQLC là Nguyễn Đàng
Tống, Đỗ Hữu Tùng và tôi. Thấy vậy,
Trịnh An Thạch nhất quyết xin vào tŕnh diện
Tư lệnh phó và xin ra tác chiến. Cuối cùng
Thạch được đi TĐ1 với Hiển.
Cuối năm 1963, Trịnh An Thạch đă tử
trận trong trận chiến ở Tây Ninh lúc mới 23
tuổi với cấp bậc Thiếu úy Trung đội
Trưởng.
Thạch mồ côi cha từ bé và lại là con trai duy
nhất trong gia đ́nh. Đau thương để
lại cho Mẹ già. Làm sao có thể để cho
sự hy sinh trọn vẹn như thế của
Trịnh An Thạch rơi vào quên lăng được.
Trong khi ấy, bên Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, chúng tôi
mất thêm người bạn cùng khóa là Lư Văn
Quảng vẫn c̣n Thiếu úy độc thân cũng ngă
xuống ở mặt trận Tây Ninh. Chúng tôi được
tin khi đang tham chiến ở một mặt trận khác.
Hồi thời Tổng Thống Diệm ra trường
với cấp bậc Thiếu úy, lương bổng
sống rất khuây khỏa. Từ hành quân trở
về Sài G̣n, chúng tôi c̣n kéo nhau đi ăn cơm Tây
và xem “Ciné”. Sau năm 1963, luơng lănh ra chỉ đủ
ăn. Mặc đă có chiến phục rằn ri
rồi lại độc thân. Sau này lên đến
Thiếu Tá, Trung Tá cũng chật vật.
Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
1-11-1963
Từ trước ngày 1/11/1963, các khóa Sĩ
quan Trừ bị ở Thủ Đức, từ K6 đến
K12 tốt nghiệp cùng lúc với chúng tôi, chưa có
quy chế đương nhiên lên Thiếu úy. Vài tháng
sau khi chính thức được giao chỉ huy Trung
đội, tôi được Trung úy Trần Văn Hoán
bổ nhiệm kiêm Đại đội phó. Tuy đă
tỏ ra có bản lănh chỉ huy nhưng do tuổi c̣n
quá trẻ nên tôi vô tư và ham chơi. TQLC vốn là
một lực lượng Tổng trừ bị của
quân đội. Tiểu đoàn TQLC được
tự trị về hành chánh với quân số lên
đến 879 tay súng với 4 đại đội tác
chiến và Đại dội Chỉ Huy & Hành Chánh.
Do đó, nơi nào chiến trường sôi động,
ngoài tầm tay của đơn vị địa phương,
Tiểu đoàn TQLC được điều động
đến để giải quyết mặt trận.
Vào đầu năm 1960, đơn vị chúng tôi
lội suốt từ Cà Mâu qua Chương Thiện,
Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười
lên rừng núi Miền Đông, Pleiku, Kontum, xuống B́nh
định, An Khê, Đỗ xá… Sau mỗi cuộc hành
quân kéo dài độ 1 tháng, chúng tôi được rút
về Hậu cứ để bổ xung, chỉnh trang
trong ṿng từ 1 đến 2 tuần lễ. Hậu
cứ của Tiểu đoàn chúng tôi ở Vũng Tàu
nên tha hồ rong chơi. Có khi, chúng tôi cũng
được lệnh về nằm ứng chiến
trong Trại Thị Nghè. Hễ úng chiến th́ bị
cấm trại. Tuy nhiên, đến chiều tối,
thấy t́nh h́nh không có ǵ, bọn tôi rủ nhau ra
phố Sài G̣n. Sài G̣n là Thủ đô Hoa Lệ nên thượng
vàng hạ cám đều có đủ. Đi hành quân
miết nên tiền bạc cũng rủng rỉnh.
Lần nào ghé Sài G̣n tôi cũng ṃ vào mấy tiệm sách
t́m mua sách báo mang theo trên đường hành quân.
Ở Hậu cứ tôi cũng có một ngăn tủ sách
bề bộn. Một lần, tôi ghé vào tiệm sách
Khai Trí, trên đường Lê Lợi. Bước vào
cửa tôi giật ḿnh khi chợt nhận ra cô nàng Isabelle
ĐTTM ngồi chễm chệ sau quầy tính tiền. Vào
những năm 56, 57 ở Đà Lạt, trên đường
cuốc bộ đến trường, tôi thường
gặp một cô nàng gầy mong manh, có khi mặc áo dài,
cỡi xe đạp về hướng trường Lycée
Yersin, trên con đường bờ hồ. Cũng đôi
lần, tôi tinh nghịch vờ chăm chú đọc bài
trong tập vở để bước thẳng vào
đầu xe đạp khiến cô nàng la oai oái. Về
sau, mấy đứa bạn học bên Lycée mới cho
biết tên là Isabelle ĐTTM. Lần này, tôi chọn xong
một mớ sách báo rồi mang đến quầy
trả tiền. Tôi nh́n thẳng vào mắt cô nàng
hỏi:
• "Có biết tôi là ai không” Cô nàng tṛn xoe hai
mắt lúng túng: Dạ, dạ không”
• Tôi là người mấy lần suưt bị cô
đụng xe đạp trên đường bờ
hồ Đà Lạt đây.
• Thế à. Tôi không nhớ.
• Thế th́ tốt rồi. Bây giờ, tôi mới hành
quân về. Túi không có tiền. Cô cho tôi nợ lần
sau tôi trả".
Cô nàng há hốc nh́n tôi lấm lét xanh da mặt ú
ớ không nói được ǵ. Tôi bảo: Isabelle cho tôi
cái túi. Nàng ta líu ríu làm theo. Tôi túm hết sách báo
bỏ vào rồi quay ngoắt bước ra cửa. Nh́n
lại, tôi thấy nàng ta đứng trố mắt nh́n
theo. Tôi bật cười quay lại móc túi lấy
tiền trả và nói: “Đùa nghịch tí thôi”. Lúc
ấy cô nàng đang làm Tiếp viên Hàng Không Quốc
Ngoại. Khi nào rỗi ra ngồi chơi ở Nhà Sách
Khai Trí. Nào ngờ sau này nàng ta thành phu nhân của Tướng
Nguyễn Cao Kỳ xa vời vợi. Có lần, ba đứa
bạn cùng khóa Vơ Bị ở cùng Tiểu đoàn
rủ nhau đi ăn trên Chợ Lớn. Nửa khuya,
đón xe Taxi con cóc hiệu Renault về Trại gặp
chàng tài xế trẻ biểu diễn chạy bằng
hai bánh trên Đại lộ Trần Hưng Đạo
vắng xe. Chàng tăng tốc độ rồi lách
mạnh tay lái cho chiếc xe nghiêng hẳn một bên và
tiếp tục chạy cả vài trăm thước. Nào
ngờ xe Cảnh sát lưu thông bất chợt xuất
hiện hú c̣i inh ỏi. Bọn tôi phải làm mặt
ngầu mới cứu được anh tài xế
trẻ.
Những ngày vui của chúng tôi tuy vậy rất
ngắn ngủi. Miệt mài ở các mặt trận ngày
đêm. Lúc ấy, bọn VC c̣n đang tránh né để
tái tổ chức nên cũng chỉ đánh nhau lẻ
tẻ với bọn du kích trong xa xôi. Thiệt hại và
tổn thất thường do bắn sẻ, ḿn gài,
hầm chông và bẫy sập. Đi hành quân Miền Tây
tuy phải lội śnh lầy ướt quần áo
suốt ngày nhưng khi dừng quân có thức ăn
đầy đủ và không đánh lớn. Ra Miền
Trung mới thấy khổ. T́m thức ăn không ra mà
gặp VC là đánh lớn. Vào hạ tuần tháng 10 năm
1963, Tiểu đoàn chúng tôi được về
Hậu cứ Vũng Tàu sau những ngày lặn lội
ở Bến Tre. Mới được một tuần
xả hơi, bỗng có lệnh hành quân về Miền
Đông.
Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe vận tải từ
Quân đoàn 3 để xếp hàng dài trước
cổng Trại. Thày tṛ chúng tôi lục tục lên xe.
Gia đ́nh binh sĩ, như thường lệ, chạy
ra đứng đầy hai bên đường. Thấy
mà ḷng thương xót. Kiểm điểm xong quân
số là đoàn xe lăn bánh. Quân số tham chiến
buộc phải trên 70%. Chuyến đi nào cũng
thấy gay go nhưng cũng mặc. Thủy Quân Lục
Chiến mà. Đến xế chiều, đoàn xe
dừng lại ở một khu vườn cao su bát ngát
ở Lai Khê. Lệnh cho xuống đóng quân qua đêm.
Dàn quân và bố trí xong là lo đào hầm hố cá nhân
pḥng thủ. Trọn một ngày sau cũng yên tĩnh.
Tôi nằm đong đưa trên chiếc vơng nhà binh
đọc sách. Nghe nói Tiểu đoàn trưởng
đang họp với các Đại đội Trưởng.
Rạng sáng ngày 1 tháng 11 năm 1963, lệnh cho thu
xếp lên xe về Sài G̣n chống đảo chánh. Nghe
nói về Sài G̣n lính tráng cười nói hể hả.
Tôi in trí như thế. Quân đội chỉ làm theo
lệnh thôi. Không thắc mắc. Đoàn xe về đến
Xa lộ Biên Ḥa vào trạm kiểm soát Cầu Xa
lộ đă có ngay Quân Cảnh dẫn đường.
Thế là đúng rồi. Chắc có đám nào muốn
đảo chánh theo chân Tướng Nguyễn Chánh Thi
đây. Chống đảo chánh lại là phe ta đánh
phe ta mới khó xử. Đoàn xe chạy một lèo
đến Ngă Bảy Chợ Lớn rồi quẹo
đường Cộng Ḥa. Đoàn xe bỗng dừng
lại ngay trước Tổng Nha Cảnh Sát Quốc
Gia. Chưa biết chuyện ǵ đă thấy từ ngoài
vào trong Cảnh sát bỏ chạy không c̣n một
mống.
Đám lính ào ào nhảy xuống xe chạy vào Tổng
Nha Cảnh Sát trước những cặp mắt ngơ
ngác của dân chúng ngoài phố. Tôi nhảy xuống
xe, sốc lại dây ba chạc mang khẩu Colt 45 rồi
bất đắc dĩ đi vào cổng Trại.
Vừa ngang sân cờ, Binh Nhất Sơn, đệ
tử của tôi hớn hở chạy ra miệng nói lép
xép: “Thiếu úy ơi, em mới lấy được
khẩu ru-lô trong pḥng ông Đại Tá Y nè. C̣n nguyên
si hết à”
-“Đâu dắt tao vô coi.” Doanh trại không c̣n
một bóng người. Văn pḥng của Đại Tá
Tổng Giám Đốc Nguyễn Văn Y c̣n nguyên
vẹn với bảng tên trên bàn giấy. Tôi quay qua
đám lính la lớn: “Không được lấy
đồ của người ta. Ra tập họp
hết bên ngoài.” Quay t́m ông Hạ sĩ quan Trung Đội
Phó “Trung sĩ nhất Lư Pit đâu, tập họp
lại, chia các vọng gác ngoài cổng chính ngay”. Tôi
mườmg tượng chuyện ǵ không ổn đang
xảy ra. Đại đội Trưởng chỉ
vắn tắt: Ḿnh chiếm giữ Tổng Nha Cảnh Sát.
Tôi nghĩ không lẽ ḿnh làm đảo chánh. Ngay sau
đó, chúng tôi được lệnh tiến quân theo
dọc hai bên đường Cống Quỳnh tiến
ra bùng binh bến xe buưt để nhận lệnh.
Lính TQLC với ba-lô và súng cầm tay đi hai hàng
dọc trong kỷ luật. Khi vừa tới bến xe buưt,
tôi vượt lên chợt nh́n ra Đại Tá
Nguyễn Văn Thiệu, trong bộ ka-ki vàng với nón
hét [cap] mang cành lá liễu cấp tá, đứng bên
cạnh chiếc xe Jeep nói chuyện với Đại úy
Lê Hằng Minh là Tiểu đoàn trưởng của tôi.
Vừa lúc tôi nghe thoáng là TQLC phải chờ Thiết
Giáp của Đại úy Lư Ṭng Bá đến mới
đánh vào dinh Gia Long. Lúc ấy vào khoảng 1 giờ
trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tôi chợt nghĩ ra là
ḿnh đang tham gia đảo chánh Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm.
Cũng vào tháng 11 năm 1960, trong trường Vơ
Bị, tôi đang làm Sinh viên sĩ quan Trực Liên
Đoàn. Lúc ấy, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư
Lệnh Nhảy Dù, làm đảo chánh. Trường ra
lệnh cấm trại ứng chiến. Tôi gặp ông
Thi khi c̣n là Trung úy, năm 1953, trong Liên đoàn Ngự
Lâm Quân của Bảo Đại trên thành phố Đà
Lạt. Sau đó, nhờ kéo quân về ủng hộ
Tổng Thống Diệm đă được thăng
nhanh lên tới Đại tá và được giao làm Tư
lệnh một lực lượng thiện chiến tín
cẩn là Nhảy Dù. Qua một đêm nằm khèo nghe
đài phát thanh Sài G̣n tôi cũng không hiểu ất giáp
như thế nào. Sáng hôm
sau, nhằm ngày Thứ
Hai, tôi được lệnh điều
khiển lễ Chào Cờ của Liên Đoàn SVSQ.
Tự nhiên, tôi tuyên bố hôm nay chào cờ không hát bài
Suy tôn Ngô Tổng Thống. Và Liên đoàn chỉ hát
Quốc Ca rồi tan hàng. Gần đến trưa hôm
ấy, một chiếc xe jeep An Ninh Quân Đội vào
Trại rước tôi ra tŕnh diện Trưởng Ty.
Đến nơi, nào ngờ tôi gặp Đại úy
Hợi là người quen trong gia đ́nh. Ông làm
mặt giận đập bàn la lớn: “Ai cho
lệnh mi không hát bài Suy tôn Ngô Tổng Thống”
“Dạ không có ai hết. Tại nghe radio thấy đảo
chánh nên đă không cho hát thôi.” “Răng mi ngu
rứa. Mi có muốn ra Trung sĩ không?” Ông c̣n
la lối nhiều nữa nhưng rồi cuối cùng ông
điểm mặt nói: “Mi liệu hồn đó.
Thôi về đi” Tôi mừng hết lớn
đi vội ra xe về Trường. Bây giờ tôi làm
đảo chánh. Lỡ thua chắc không biết có
phải chạy sang Miên không.
Ngay khi xe Thiết Giáp chưa tới chúng tôi được
lệnh tiến về phía đường Công Lư và Lê
Thánh Tôn để đánh vào dinh Gia Long. Trung úy
Trần Văn Hoán, Đại đội trưởng
cho lệnh khẩu súng không giật 57 ly tiến lên. Phát
57 ly phá tung một lỗ hỏng ngay góc Công Lư-Lê Thánh
Tôn. Lính TQLC chạy ào qua đường vượt vào
tường cao. Bên trong có vài phát đạn bắn ra
lẻ tẻ nhưng TQLC không bắn trả. Chỉ
trong chưa đầy nửa giờ, TĐ4TQLC đă hoàn
toàn chế ngự dinh Gia Long. Khi tiến vào phía sau sân
dinh tôi thấy lính đang lùa một số quân nhân
trong Liên binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống ra ngoài.
Tôi chợt nhận ra ông Thầy cũ trong Trường
Vơ Bị là Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc. Sau này ông
lên Tướng làm Tư Lệnh SĐ9BB. Tôi vội
chạy tới đưa tay chào ông và nói lớn cho
đám lính TQLC nghe: "Thưa Thiếu Tá, tôi là
cựu SVSQ khóa 16 đây” Ông giơ tay lên lưng
chừng rồi buông thơng xuống với vẻ mặt
buồn bă. Tôi không biết làm sao hơn chỉ bảo
lính dưới quyền kiếm một chiếc ghế
trong nhà ra mời ông ngồi. Ngay sau đó người
ta đưa ông đi đâu tôi không biết nhưng ḷng
tôi thật vô cùng xao xuyến như ḿnh vừa
phạm một tội lỗi ǵ đó.
Tôi đi theo trông chừng đám lính đang đi
xục xạo. Xuống tầng hầm tôi thấy pḥng
của Ngô Đ́nh Lệ Thủy đă bị xáo tung lên
hết. Có một người lính ôm một giàn máy
quay đĩa chạy ngang, tôi nổi điên rút súng la
lớn: “Bỏ xuống ngay không tao bắn” Chàng ta
vội bỏ xuống chạy lên tầng trên. H́nh như
họ đă lục lọi đến pḥng của bà
Nhu. Đảo một ṿng thấy không c̣n người
lính nào tôi quay trở lên. Ngay đêm hôm ấy, TĐ2TQLC
đă ra dinh Gia Long bàn giao vị trí. Chúng tôi được
chở về Trại Thi Nghè. Ngày hôm sau, nghe nói có phái
đoàn Phật giáo xin vào để ủy lạo cho
Tiểu đoàn đă có công lật đổ Tổng
Thống Diệm nhưng Thiếu tá mới thăng
cấp Lê Hằng Minh từ chối. Ḷng tôi trăm
mối ngổn ngang. Lần đầu tiên, tôi nằm
lặng trên vơng suy nghĩ về thế sự. Từ
đó, tôi không c̣n vô tư nữa. Cho đến ngày
phải buông súng tức tưởi. Sau đó, chỉ c̣n
bọn cầm súng chiến đấu ngoài mặt
trận phải trải máu và xương để
chống lại bọn cộng sản.
Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ
Hồi năm 1963, tôi nghe nói Đại úy TQLCHK làm
Cố vấn cho TĐ4TQLC đă bị tử thương
khi về nghỉ ở Khách sạn Majestic, Sài G̣n khi nơi
này bị VC đặt bom nổ. Về sau, khi hành quân
ở Tầm Vu, Vĩnh Long, tôi thấy anh chàng Cố
Vấn hớt hăi chạy về Bộ Chỉ Huy
Tiểu đoàn nói: “Thật khủng khiếp quá”
“Tao thấy lính của tụi mày treo ngược
một con chó trên cành cây rồi cầm lưỡi lê
cắt cổ nó. Dă man quá!” Chúng tôi chỉ cười
không nói ǵ khiến chàng ta càng bực tức. Do
cuộc hành quân đă kéo dài cả hơn tuần
lễ nên thức ăn cũng thiếu thốn, ngay
cả với Tiểu đoàn trưởng và Cố
Vấn Mỹ. Nên chiều tối hôm ấy, bữa
ăn của Thiếu Tá Minh và Cố Vấn có thêm món
thịt ngon miệng do mấy đệ tử dọn lên.
Măi đến khi ăn xong, chúng tôi mới tinh
nghịch hỏi chàng Cố Vấn: “Hôm nay, ông
ăn thịt thấy ngon không” “Thiệt quá ngon”
“Thế ông có biết thịt ǵ không?” Chàng
lắc đầu mở to mắt nh́n chờ câu
trả lời. “Th́ thịt con chó ông thấy
tụi lính treo cổ đó.” Thế là chàng ta
chạy ra sau hiên nhà móc cổ moi họng ọe cho ra.
Nhưng vô hiệu. Chắc là kỷ niệm khó quên cho
một nhiệm kỳ tham chiến ở Việt Nam.
Thật ra, từ nhỏ tôi đă được
học lịch sử Việt Nam tới nơi tới
chốn ở trường Việt nên tôi ghét Tàu và Pháp
thậm tệ. Tất nhiên, tôi cũng không thích người
Mỹ v́ họ cũng là người ngoại quốc.
“… Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một
trăm năm đô hộ giặc Tây”. Ư thức bài
ngoại như đă ăn sâu trong tâm trí của tôi.
Thế hệ trước tôi rất sính nói tiếng Tây.
Tôi nghe mấy ông Tướng chỉ nói chuyện
với nhau bằng tiếng Tây. Có khi là tiếng Tây
Bồi. Lớp chúng tôi chỉ học lư thuyết
tiếng Anh. C̣n nói được chẳng có mấy người,
trước năm 1963.
Nhờ hồi c̣n học Trung học Việt, tôi theo chân
đứa bạn vào học lớp Anh Văn của
một ông Mục sư Tin Lành giảng dậy nên tôi cũng
lắp bắp được. Trong binh chủng TQLC
nhờ thường xuyên gởi SQ sang Mỹ du học
ở khóa Basic, tại Quantico, Virginia nên có nhiều người
liên lạc được với Cố Vấn Mỹ.
Các SQ Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp Trường Vơ
Bị Hải Quân Annapolis, tại Maryland, hay từ ROTC
chuyển sang TQLC đều phải trải qua khóa Basic
School tại Quantico, Virginia. Đa số SQ Quân đội
HK không biết ǵ nhiều về Việt Nam khi họ
sang tham chiến. Từ sau cuộc chiến thắng quân
Trục Đức và Nhật, họ dến VN với ḷng
đầy cao ngạo và nghĩ chẳng bao lâu sẽ
dẹp tan “Đám dân quân du lích mặc xà lỏn
đi chân trần trốn chui trốn nhủi như h́nh
ảnh mô tả trên Truyền H́nh Hoa Kỳ”. Măi cho
đến ngày lâm trận B́nh Giả, 31/12/1964, tôi
mới có kỷ niệm sâu sắc về người
SQ Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ.
Người
Bạn Mỹ đầu tiên, cho đến nay, vẫn c̣n
liên lạc là Trung úy Phil O Brady. Sau cùng anh lên Đại
úy tại mặt trận B́nh Giả rồi giải ngũ.
Gần cuối năm 1964, khi tôi làm Đại đội
trưởng ĐĐ1 của TĐ4 TQLC, Cố Vấn
Mỹ là Đại úy Frank Pete Eller. Nhân một ngày
đem Đại đội ra ứng chiến tại
Phi trường Biên Ḥa, tôi được Cố
vấn đưa đi theo một anh chàng Trung úy TQLCHK
cao to hơn tôi cả cái đầu. Lúc ấy tôi c̣n
mang lon Thiếu úy. Chàng ta đến gặp tôi với
vẻ mặt nghiêm nghị và tự xưng “Tao là
Trung úy Brady, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.” Tôi
đưa tay chào và nói “Tao là Thiếu úy Toàn.”
Thế thôi. Theo thói thường khi đi hành quân,
xuống đoàn xe tải, thầy tṛ chúng tôi cứ kéo
nhau đi ngổn ngang trên sân bay. Chợt Trung úy Brady
chạy tới nói lớn với tôi: “Sao mày không
tập họp Đại đội rồi đi đều
bước đàng hoàng mà để lính đi lộn
xộn như vậy.” Tôi nổi nóng định x́
nẹt nó một trận nhưng nghĩ lại không nói
ǵ mà chỉ cười khẩy. Tôi thầm nghĩ
thằng này mới ra Trường đâu biết ǵ.
Không
hiểu sao, từ đó chàng ta thích t́m tôi nói
chuyện. Lúc ấy, tôi mới nói với chàng ta
rằng tao cũng xuất thân từ trường Vơ
Bị Quốc Gia và cũng đă từng đi diễn
hành ở Sài G̣n nhiều lần. Cơ bản thao
diễn là nghề của tao mà. Tao đi chiến đấu
đă gần 2 năm rồi. Nếu mày thắc mắc
ǵ cứ hỏi tao, OK. Điều quan trọng nhất
là từ nay mày cố giữ liên lạc với Quân
Đội Mỹ để yểm trợ và tải thương
cho tụi tao thay v́ bắn lầm vào quân bạn.
Có
một hôm, sau khi đi ḷng ṿng thăm chỗ đóng
quân, Brady ghé đến chỗ tôi nói: “Tao đi ḷng ṿng
thấy tụi lính đứa nào cũng ôm một
chiếc Radio nghe nhạc ǵ tao không biết. Tao nghe
tiếng e é lên xuống trầm bổng.” Tôi cố
gắng giải thích: “Chắc mày thấy tụi nó
nghe Cải Lương Vọng cổ đó. Giống như
Mỹ nghe Country Music đó mà”. Ba-lô của Brady lúc nào
cũng đầy các thức ăn lạnh và đồ
hộp Mỹ với chai rượu Whisky mỏng
dẹp. Cho đến ngày Tiểu đoàn chúng tôi
nhảy Trực thăng vào mặt trận Binh Giả,
Phước Tuy. Brady hầu như không rời tôi
một bước. Có khi, tôi nói nửa đùa nửa
thật: “Mày cao lớn quá, lại mang theo máy
truyền tin gắn ăng-ten cao ngồng nên tránh xa tao
ra, không lỡ VC bắn sẻ trúng tao đó.”
Sau khi
Thiếu tá Eller, cố vấn trưởng bị trúng
đạn lúc tiến quân vào rừng Cao su Long Giao, Phil
Brady lên thay thế. Chàng đă nhanh chân chạy thoát
khỏi trận địa vào ngày 31/12/1964. Trở ra làng
B́nh Giả, chàng đă cố gắng phối hợp quân
bạn để lập lại chủ động trên
chiến trường cũng như tản thương
những người lính sống sót. Chàng cũng đă
liều lĩnh theo chân quân bạn trở vào chiến
địa t́m tôi mhưng không kết quả. Bởi 3
ngày sau, tôi mới một ḿnh ḅ về lại làng B́nh
Giả với 3 vết đạn thù trên ngực và chân
phải. Trong khi ấy, Brady được gọi
về Sài G̣n để được trao tặng huy chương
Silver Star với chữ V và thăng cấp Đại úy.
Tôi cũng mới được đương nhiên lên
Trung úy ngày 22/12/1964 sau 2 năm ra Trường. Hết
nhiệm kỳ 1 năm, Brady xin giải ngũ. Ngay sau
đó, chàng ta xin trở lại VN làm việc cho USAID
rồi phóng viên cho hệ thống truyền h́nh NBC
của Hoa Kỳ. Chàng c̣n lập gia đ́nh với
một cô gái B́nh Dương và chung sống cho măi
đến nay.
Sau này,
vào năm 1972, khi theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu
của TQLCHK, tại Quantico, Virginia, tôi được
mời dự cuộc họp mặt của các cựu
Cố Vấn TQLCHK tại Woodbridge, VA. Từ đó, tôi
mới biết thêm về ư nghĩ của các SQ đă
từng làm Cố vấn cho TQLCVN. Với họ, chúng tôi
đối xử không thân thiện như các quân binh
chủng khác và thậm chí c̣n thù nghịch nữa. Như
trường hợp Đại Tá Nguyễn Thành Yên,
Thiếu Tá Hồ Quang Lịch cầm súng rượt
đánh CV Mỹ v́ không làm theo yêu cầu tản thương
cho lính dưới quyền. Đại Tá Nguyễn
Thế Luơng bỏ đói Cố Vấn. Trung Tá Đỗ
Hữu Tùng đuổi CV Mỹ về lại Sài G̣n,
v.v. Tôi đă phải cố soạn một bài viết
ngắn để lên diễn đàn giải thích cho
họ hiểu và được vỗ tay tán thưởng
nồng nhiệt khi tôi lấy trường hợp
của tôi với Phil Brady. Cho đến nay, trong số
hơn 100 SQTQLC Hoa Kỳ đă từng làm Cố Vấn
đă có 52 người lên Tướng của Quân
Đội Hoa Kỳ. Trong số có Đại Tướng
Boomer và Đại Tướng Joe Hoar.
Trong
suốt cuộc chiến Việt nam, từ năm 1960
đến 75, nhờ Phái Bộ Cố Vấn TQLC Hoa
Kỳ sát cận nên chúng tôi luôn nhận viện
trợ trực tiếp của TQLC Hoa Kỳ, vốn là
một binh chủng lừng danh. Nguồn tiếp vận
không qua tay Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa. Tuy nhiên, đối với Quân
Đội Hoa Kỳ, ngân sách của TQLC nằm trong
Bộ Hải Quân và tương đối nhỏ so
với Lực lượng Hải Quân. Dù sao, nguồn tài
trợ hay quân dụng và quân cụ cũng không bị
thất thoát qua guồng máy tham nhũng. Người
Cố Vấn TQLCHK sau cùng của tôi là Trung tá Joey
Strickland. Thực ra Strickland cũng không phải là CV mà
là bạn học cùng khóa Chỉ Huy và Tham Mưu TQLC Hoa
Kỳ, tại Quantico, VA, với tôi.
Sau ngày
măn khóa, Joey t́nh nguyện sang phục vụ bên Việt
Nam. Strickland nguyên là Tiểu đoàn trưởng Trinh Sát
của TQLCHK. Năm 1973, Strickland đảm nhận công
tác trong phái bộ Quốc Pḥng HK bên cạnh Sư
đoàn TQLCVN, đương nhiên là Cố Vấn làm
việc trực tiếp với Tư Lệnh SĐTQLC. Lúc
ấy, hệ thống Cố Vấn Hoa Kỳ đă
giải tán trong kế hoạch Việt Nam Hóa chiến
tranh cho Mỹ rút quân. Khi ra thăm TQLC trấn đóng
ngoài Quảng Trị, Strickland đă một ḿnh t́m ra
tận nơi đóng quân của TĐ4TQLC ở Chợ
Cạn để gặp tôi. Do t́nh bạn đă h́nh thành
khi học trong Trường, chúng tôi khá thân với
nhau. Sau năm 75, nhờ Strickland tôi mới c̣n có
được một số h́nh ảnh chụp ngoài
chiến trường Quảng Trị. Tôi đă
thẳng thắn cho Strickland biết rơ t́nh h́nh mặt
trận. Ngược lại, Srickland cũng không
ngại cho biết về t́nh h́nh chính trị bên
Mỹ và cuộc rút quân Mỹ ra khỏi VN.
Dù sao, tôi
cũng không tin CS có thể dễ dàng tiến chiếm
Miền Nam như đă xảy ra. Chúng tôi cũng
sẽ đánh nhau tới cùng. Vào tháng 10 năm 1974,
Strickland được triệu hồi về Mỹ. Trước
ngày về nước, Strickland thu xếp ghé thăm tôi
và khuyến cáo tôi nên lo cho gia đ́nh v́ chắc
chắn Mỹ sẽ bỏ Việt Nam. Tôi không làm ǵ
được v́ trong tay c̣n trách nhiệm cả
gần 800 tay súng. Bạn bè chúng tôi cũng trao đổi
rằng nếu cùng lắm sẽ phải tử thủ
Miền Tây Nam Phần của VN. Tất cả đều
tan trong mây khói. Sang Mỹ, sau chuyến vượt biên
vào tháng 5 năm 1984 đến Galang, tôi được
gặp lại Joey Strickland trong một chương tŕnh
20/20 của ABC vào năm 1986 khi họ làm một phóng
sự về các cựu chiến binh sống sót sau
cuộc chiến Việt nam.
Từ
Hawai, lúc đang dạy học ở một trường
Đại Học, Strickland bay qua Virginia và trao cho tôi
một chiến phục TQLC VN với đầy đủ
huy hiệu. Strickland cho biết khi trở về làm
việc tại Bộ Tư Lệnh TQLCHK tại Hoa
Thịnh Đốn đă nghe tin Miền Nam thất
thủ, vào khoảng tháng 5 năm 1975, từ viên Trung Tá
TQLCHK bàn giao chức vụ ở Việt Nam. Về nước,
ông này c̣n được thăng lên Đại Tá.
Tức giận về việc cả hàng trăm ngàn
chiến binh Việt Nam bị bỏ rơi, Strickland xin
giải ngũ và về Hawaii đi học lại.
Strickland ḍ hỏi tin tức về tôi và nghe nói tôi
đă tự tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong
suốt cuộc chiến, tôi chỉ có 2 người
bạn Mỹ đúng nghĩa bạn là Phil Brady và Joey
Strickland.
Ngày nay,
tại Viện Bảo Tàng của TQLC Hoa Kỳ, trong căn
cứ Quantico, tại Virginia, Tổ chức thân hữu
cựu Cố Vấn Hoa Kỳ đă trưng bày khá
nhiều di vật quư giá của binh chủng TQLC
Việt Nam cho các du khách thăm viếng. Một vị
Trung Tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 3
Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ
tại Okinawa đă đọc một bài diễn văn
bằng tiếng Việt, trong một Đại Hội
TQLCVN, tại vùng Phụ Cận Hoa Thịnh Đốn.
Tướng Smith nói rằng ông rất cảm phục
tinh thần và khả năng chiến đấu của
TQLCVN và ông đă học hỏi rất nhiều từ
các cấp chỉ huy khi ông làm Cố Vấn trên
chiến trường.
Hầu như, ngày nay, các Tướng
Lănh của Hoa Kỳ đều đă từng tham
chiến tại Việt Nam. Nhiều giải huy chương
của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n
trên ngực áo Đại lễ của họ. Dù sao, Quân
Đội Hoa Kỳ cũng đă tổn thất hơn
58 ngàn quân sĩ trong cuộc chiến bảo vệ
Miền Nam Việt Nam.Nhưng đến nay, dưới
mắt tôi, Hoa Kỳ vẫn chưa rút ra một bài
học đáng giá tại Việt Nam với hơn 58 ngàn
quân lính ngoài chiến địa!
|