Việt Nam: Thảm hoạ diệt chủng, quả báo |
Webmaster: Xin đăng bài viết dưới đây có tính cách lịch sử nhận được qua email để rộng đường dư luận. Kính *** VN:
Thảm họa diệt chủng, quả báo? Ở
Việt Nam, thảm họa mất nước đă
đến, thảm họa diệt chủng đang đến
nhưng nhiều người chưa nhận ra. Các
thủ đoạn hủy diêt đă và đang diễn
ra ở Việt Nam: 1.
Hủy diệt châu thổ sông Cửu Long,
nguồn lương thực và thực phẩm chính
của cả nước. Việc này chúng thực hiên
bằng cách xây nhiều đập thủy điện
ngăn sông Mê Kông gây hạn hán và ngập mặn
trầm trọng, đất nhiều nơi đă
bị lún sâu, đồng thời dùng rất nhiều
thủ đoạn thâm độc như thả hóa
chất độc, ốc bươu vàng, … nhằm phá
hoại lúa, hoa màu và thủy sản trên toàn vùng đồng
bằng sông Cửu Long 2.
Đổ chất độc dọc bờ Biển
Đông để hủy diệt các hải sản
ở biển và các vùng nuôi hải sản ven biển,
đầu độc toàn bộ nguồn muối ăn
của người Việt, ngăn cấm ngư dân
Việt Nam đánh bắt xa bờ! 3.
Hủy diệt các sông trên toàn bộ miền Trung thông
qua hàng trăm đập thủy điện, khai thác bâu
xit, thương lái Trung Quốc bày tṛ mua chanh leo giá
cao để dân phá cà phê, hồ tiêu; mua vét rong
biển để triệt hạ vùng sinh thái của cá…
sau đó không mua nữa v́ đă phá xong. 4.
Xây nhiều đập phía thượng nguồn sông
Hông và sông Đà, làm suy kiệt sông Hồng từ
nhiều năm. Chuẩn bị đại dự án sông
Hồng với 6 đập thủy điện mới,
hủy diệt hoàn toàn hệ sinh thái châu thổ sông
Hồng. 5.
Xây dưng rất nhiều nhà máy nhiệt điên, xi
măng, sắt thép và hóa chất… để đầu
đôc khí quyển và các nguồn nước. Trong
khí thải các nhà máy ở Việt Nam dùng thiết
bị Trung Quốc, hàm lượng các khí thải độc
hại như CO, SO2, H2S, Hg … đều
cao hơn từ 19 lần tới 125 lần hàm lượng
cho phép. Chất thải đổ xuống nước
đă làm chết rất nhiều sông ng̣i như
Thị Nại, La Ngà, Bưởi… và hàng ngàn km bờ
biển. Tất
cả mới chỉ trong giai đoạn đầu. Sau
khi sát nhập vào Trung Quốc năm 2020, dân tộc
Việt Nam như cá nằm trên thớt, cuộc
diệt chủng sẽ thảm khốc hơn nhiều. Những
ǵ sẽ xẩy ra sau 4 năm tới đây? Sau 20 năm
nữa con số 90 triệu người Việt liệu
có c̣n tới 10 triệu như người Măn hay
tới 3 triệu như người Tạng không? Thảm
họa diệt chủng đă hiện ra trước
mắt, không ai có thể cứu được dân
tộc Việt Nam khỏi thảm họa này, ngoài 90
triệu người Việt. Đây
có phải là quả báo khi chính chúng ta cũng đă dùng
chính sách diệt chủng đối với dân tộc
Champa. Lịch
sử 33 năm cuối cùng của Vương Quốc Champa
BBT
Champaka.info Vương
quốc Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng
(1802-1835) là
công tŕnh nghiên cứu của Pgs. Ts. Po Dharma được
xuất bản tại Paris vào năm 1987
bởi Viện Viễn Đông Pháp, với nhan đề : Le
Panduranga (Campa). Ses rapports avec le Vietnam (1802-1835). Đây
là tác phẩm lịch sử Champa cận đại
đầu tiên viết về t́nh h́nh chính trị, quân
sự và mối quan hệ với triều đ́nh
Huế kể từ ngày vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802
cho đến khi vua Minh Mệnh xóa bỏ Champa trên
bản đồ vào năm 1832, kéo theo sự ra đời
phong trào kháng chiến của Katip Sumat (1833-1834) và
sự vùng dậy vũ trang của Katip Ja Thak Wa
(1834-1835) nhằm chống lại cuộc xâm lăng
của triều đ́nh Huế và phục hưng
lại vương quốc Champa độc lập có
chủ quyền. Lịch
sử 33 năm cuối cùng của Champa là tổng
thể của những biến cố tang thương
nhất và đẫm máu nhất chưa từng xảy
ra trong quá tŕnh h́nh thành vương quốc Champa kể
từ thế kỷ thứ II, một quốc gia hùng
mạnh dưới thời cổ đại, nhưng không
c̣n nghị lực và sức lực chống lại chính
sách tàn bạo của vua Minh Mệnh (1820-1841) nhằm
trừng phạt vô cùng dă man dân tộc Champa về
tội theo Lê Văn Duyệt và hành động
chống lại uy quyền của triều đ́nh
Huế. Đây cũng là giai đoạn đen tối
nhất của một dân tộc Champa có nền văn
tự và văn minh từ lâu đời, nhưng đành
bó tay đầu hàng và qui phục trước làn sóng
Nam Tiến, một chủ thuyết « đế
quốc » trong nghĩa rộng của nó, nhắm vào
mục tiêu xâm chiếm đất đai và tiêu
diệt dân tộc láng giềng bằng bạo lực và
súng đạn. Sau
8 thế kỷ chiến tranh tương tàn để
thực hiện chính sách Nam Tiến, Việt Nam
chiếm trọn lănh thổ Champa rộng lớn
chạy dài từ tỉnh Quàng B́nh đến biên
giới Biên Ḥa, chỉ để
lại cho hậu thế hôm nay một chuổi đền
đài điêu tàn và hoang phế nằm ngổn ngang
ở miền trung và một cộng đồng người
Chăm chưa đầy 100 ngàn người đang
sống chui nhủi và khốn cùng tại hai tỉnh
Ninh Thuận và B́nh Thuận. Chính đó là bức tranh
thật sự của lịch sử Champa vào những
thập niên đầu của thế kỷ thứ XIX mà
Pgs. Ts. Po Dharma đă đưa ra phân tích và tŕnh bày
một cách khách quan và nghiêm túc trong tác phẩm mang
tựa đề « Lịch
sử 33 năm cuối cùng của vương quốc
Champa, 1802-1835 » do
International Office of Champa (IOC-Champa) xuất bản tại
San Jose, California (Hoa Kỳ), với sự bảo trợ
của Hội Đồng Phát Triển Văn Hóa-Xă
Hội Champa (CSCD-Champa). Tác phẩm này tổng cộng
279 trang + 2 bản đồ, chia thành nhiều chương
mục. 1).
Lời mở đầu Khởi
đầu của tác phẩm là « Lời mở
đầu » trong đó Pgs. Ts. Po Dharma nêu ra nguyên nhân
của sự chọn lựa đề tài và giải thích
tại sao có sự giới hạn không gian của
chủ đề từ 1802 đến 1835, tức là
chỉ tập trung vào 33 năm cuối cùng của vương
quốc này, nhưng 33 năm của bao biến cố thăng
trầm đă diễn ra trên bàn cờ chính trị
Champa, cấu thành một tiếng chuông báo động
cho sự xụp đổ vĩnh viễn của vương
quốc này trên bản đồ Đông Dương vào
năm 1832. Ai
cũng biết Pgs. Ts. Po Dharma là người Chăm
Ninh Thuận đă từng tham gia phong trào vũ trang
Fulro vào những năm 1968-1975 và tiếp tục đấu
tranh trong trào phát huy và truyền bá di sản lịch
sử và nền văn minh Champa tại hải ngoại
cho đến hôm nay. Nhưng trong ngành nghiên cứu, Pgs.
Ts. Po Dharma không bao giờ dựa vào lăng kính hay t́nh
cảm của dân tộc Chăm để bảo
vệ quan điểm của vương quốc Champa
hay lên án vua chúa Việt Nam, mà là dựa vào nguồn tư
liệu thuyết phục cũng như phương pháp tŕnh
bày và lư luận khách quan của một nhà
lịch sử học để hoàn thành tác
phẩm : Vương quốc Champa : Lịch
sử 33 năm cuối cùng, 1802-1835. 2).
Nguồn tư liệu Lịch
sử 33 năm cuối cùng của vương quốc
Champa là tổng thể của những biến
cố đă xảy ra trong quá khứ được ghi
chép lại trên nhiều nguồn tư liệu, nhất
là văn bản viết bằng tiếng Chăm và biên
niên sử Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn.
Tiếc rằng, mỗi tư liệu viết bằng
tiếng Chăm hay Hán của nhà Nguyễn chỉ là
tiếng nói của vua chúa thời đó, thường
tŕnh bày yếu tố lịch sử theo quan điểm
và nh́n qua lăng kính của cung đ́nh hơn là bài
viết mang tính cách khách quan và khoa học. Chính
v́ thế, một biến cố đă xảy ra vào
một thời điểm nhất định, nhưng
tư liệu Chăm và biên niên sử Việt Nam nêu ra
hai xuất xứ và đưa ra hai quan điểm hoàn
toàn khác nhau. Đây là vần
đề khó khăn nhất trong ngành sử học.
Để giải quyết vấn đề trên, Pgs. Ts.
Po Dharma lúc nào cũng thận trọng và đi t́m
những kiểm chứng trước khi sử dụng
nội dung của nguồn tư liệu này để xây
dựng cho một yếu tố lịch sử. Để
thực hiện tác phẩm Vương quốc
Champa : Lịch sử 33 năm cuối cùng, 1802-1835, Pgs.
Ts. Po Dharma phải dựa vào một khối tự
liệu đáng kể trong đó có 32 tác phẩm
viết bằng tiếng Chăm, 20 biên niên sử
Việt Nam và hơn 150 bài khảo luận hay tác
phẩm khoa học đă xuất bản bằng
tiếng Pháp, Anh và Quốc Ngữ. Đây là kho tàng tư
liệu liên quan đến lịch sử 33 năm
cuối cùng của vương quốc Champa mà Pgs. Ts. Po
Dharma trích dẫn trong công tŕnh nghiên cứu của ḿnh,
chứ không phải tài liêu tham khảo ghi vào danh sách
cho có lệ, mà độc giả thường thấy
trong nhiều tác phẩm khoa học xuất bản
tại Việt Nam hôm nay 3).
Tổng luận đầu sách Gần
một thế kỷ qua, hầu hết các nhà khoa
học chuyên về Đông Nam Á đều có chung
một quan điểm về cụm từ « Thủ
Đô », tức là trung tâm
chính trị và quyền lực của một vương
quốc, nơi ngự trị của vua chúa và gia đ́nh
hoàng gia của một quốc gia. Một khi thủ
đô bị chiếm đóng th́ chủ quyền
quốc gia đó không c̣n nữa. Sự thất thủ
Sài G̣n vào tháng 4 năm 1975 đánh dấu cho sự
sụp đổ của chế độ Việt Nam
Cộng Ḥa là một thí dụ điển h́nh. Nói
đến vương quốc Champa, th́ người ta
phải nói đến ngày thất
thủ Vijaya (Đồ Bàn) vào năm 1471
dưới thời vua Lê Thánh Tông. Dựa vào sự
sụp đổ thủ đô Viyaya, nhà sử học
Pháp là G. Maspero đưa ra nhận định
trong tác phẩm Vương Quốc Champa (1828) cho
rằng Champa hoàn toàn bị xóa bỏ trên bản đồ
kể từ năm 1471 và không c̣n lư do để
tồn tại trên lănh thổ miền trung Việt Nam
nữa. Kể từ đó các nhà nghiên cứu thường
lập đi lập lại lư thuyết của G. Maspero,
nhưng không cần kiểm chứng lại giả
thuyết này có đúng hay không ! Pgs.
Ts. Po Dharma là nhà nghiên cứu đầu tiên không tin vào
giả thuyết của G. Maspero. Theo tác giả, vương
quốc Champa không phải là quốc gia có hệ
thống chính trị « trung ương tập
quyền » theo kiểu Đại Việt hay Trung
Quốc vào thời cổ đại, mà là quốc
gia liêng bang tập trung năm tiểu vương
quốc : Inrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và
Pandurang. Mỗi tiểu vương quốc có lănh
thổ riêng và vua chúa riêng. Chính v́ nguyên nhân đó,
sự sụp đổ thành Đồ Bàn vào năm
1471 chỉ biểu tượng cho sự xụp đổ
của tiểu vương quốc Vijaya ở miền
bắc. V́ rằng vương quốc Champa vẩn c̣n
hiện hửu ở miền trung Việt Nam sau năm
1471, nhưng lănh thổ đất đai Champa bị thu
hẹp lại trên lănh thổ của tiểu vương
quốc Khauthara (Khánh Ḥa) và Panduranga (Ninh
Thuận và B́nh Thuận) cho đến năm 1832. « Tổng
luận đầu sách » là chương khởi
đầu của tác phẩm trong đó Pgs. Ts. Po Dharma
phát họa lại hệ thống tổ chức hành chánh
và chính trị của vương quốc Champa sau ngày
thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 1471 và tŕnh
bày một cách hệ thống lịch sử của
tiểu vương quốc Panduranga xuất hiện
lần đầu tiên trên bia kư Champa vào năm 817. Hay nói
một cách khác, « Tổng luận đầu sách »
là phần tóm lược lịch sử Champa từ năm
1471 cho đến ngày lên ngôi của vua Gia Long vào năm
1802. 3).
Champa dưới triều đại Po
Saong Nyung Ceng (1779-1822) Chiến
thắng trên thành Đồ Bàn của Lê Thánh Tông vào
năm 1471 chỉ là hồi chuông báo động cho
sự suy thoái của thời hậu Lê, kéo theo sự
phân tranh giữa chúa Trịnh ở miền bắc và chúa
Nguyễn ở miền nam. Năm 1569,
Nguyễn Hoàng quyết định
h́nh thành một triều đại riêng trên lănh
thổ Champa bị chiếm đóng. V́
không đủ tiềm lực tiến quân ra bắc
chống lại chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng chỉ c̣n
cách mở cuộc Nam Tiến về phía nam trên lănh
thổ Champa để xây dựng uy quyền của ḿnh.
Năm 1611,
nhà Nguyễn xua quân xâm chiếm Phú
Yên và năm
1653 đặt nền đô
hộ trên tiểu vương quốc Kauthara
(Khánh Ḥa). Năm
1692, nhà Nguyễn tấn công Champa,
thay đổi danh xưng « Chiêm Thành » thành
« Trấn Thuận Thành » và thành lập phủ
B́nh Thuận đầu tiên trên lănh
thổ của vương quốc này, tập trung
những cư dân người Kinh sinh sống ở
Champa nhưng họ là công dân của triều đ́nh
Huế. Sau
mấy thập niên yên b́nh và thịnh vượng,
Champa trở thành nạn nhân của cuộc chiến
kể từ năm 1771,
giữa Tây Sơn làm chủ ở phương bắc và
Nguyễn Ánh chiếm đóng Sài G̣n để làm
hậu cứ. Nằm trên địa thế bị kèm
kẹp giữa lănh thổ của Tây Sơn và
Nguyễn Ánh, vương quốc Champa bị lôi kéo vào
cuộc chiến giữa người Việt và chấp
nhận phải qui phục phe thắng trận dù là
Nguyễn Ánh hay Tây Sơn. Kể
từ đó, định mệnh sống c̣n của
Champa hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của
cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm
1802, Nguyễn Ánh thắng trận, lên ngôi lấy niên
hiệu là Gia Long, quyết định phục hưng
lại nền độc lập Champa và giao cho Po Saong
Nyung Ceng, người đă từng giúp đỡ
Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn, quyền cai trị
của vương quốc này. Bên cạnh đó, vua Gia
Long c̣n ban cho người kế cận của ḿnh trong
chiến trường chống Tây Sơn là Lê Văn
Duyệt lên làm Tổng Trấn Gia Định Thành và
giao cho Lê Văn Duyệt quyền
bảo trợ vương quốc Champa ở
phía nam của triều đ́nh Huế. Kể từ
đó, nền ḥa b́nh và thịnh vượng trở
lại trên vương quốc Champa, một quốc gia
đặt dưới quyền đô hộ của
triều đ́nh Huế qua trung gian của Lê Văn
Duyệt, phó vương ở miền Nam Bộ thời
đó. Sau
ngày băng hà của vua Gia Long vào năm 1820, vua
Minh Mệnh lên ngôi, t́m cách xóa bỏ qui chế Gia
Định Thành của Lê Văn Duyệt và đưa
vương quốc Champa vào ṿng kiểm soát trực
tiếp của triều đ́nh Huế. Thế là
chiến tranh giữa vua Minh Mệnh và Lê Văn
Duyệt bắt đầu bùng nổ để gây
ảnh hưởng trên vương quốc Champa. Vừa
mới lên ngôi, Minh Mệnh cách chức trấn thủ
B́nh Thuận về tội quá thân cận với Lê Văn
Duyệt và triệu tập phó vương Champa là Po
Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh) về Huế trong khi
đó quốc vương Po Saong Nyung Ceng đang lâm
bệnh nặng. Năm 1822, Po Soang Nyung Ceng băng hà v́
tuổi già yếu. Minh Mệnh đề nghị người
thân cận của ḿnh là Bait Lan lên nối ngôi Champa, nhưng
không thành, v́ có sự chống đối của Lê Văn
Duyệt. 4).
Champa dưới triều đại Po Klan Thu
(1822-1828) Lợi
dụng t́nh h́nh rối ren ở Champa sau ngày từ
trần của Po Saong Nyung Ceng vào năm 1822, Ja
Lidong xua quân vùng dậy chống phá doanh trại quân
sự của triều đ́nh Huế, trong khi đó phó
vương Po Klan Thu vẩn c̣n giam giữ ở Huế.
Để giải quyết vấn đề nan giải
này, Minh Mệnh chấp nhận Po
Klan Thu trở về Champa để nối ngôi vua, với
điều kiện là tân quốc vương Champa
phải dẹp tan quân phiến loạn của Ja Lidong. Sau
ngày lên ngôi của Po Klan Thu vào năm 1822, người
ta không có tin tức ǵ về mối quan hệ giữa
Champa và Lê Văn Duyệt nữa. Nhưng sự im
lặng của Lê Văn Duyệt chỉ mang tính cách
chiến lược để xem xét t́nh h́nh mà thôi. Sau
7 năm trị v́, Po Klan Thu băng hà vào 1828. Tin từ
trần của Po Klan Thu không phải do quan lại
của triều đ́nh Champa cung cấp mà là phát
xuất từ vị trấn thủ của phủ B́nh
Thuận. Điều này đă chứng minh rằng Po
Klan Thu không chết trên lănh thổ Champa mà là ở
một nơi khác, có thể tại Huế trong lúc
bị giam giữ, v́ lư do ǵ đó.
Lănh
thổ Champa sau năm 1471 5).
Champa dưới triều đại Po
Phauk The (1828-1832) Sau
ngày từ trần của Po Klan Thu vào năm 1828, vua Minh
Mệnh t́m cách đưa người trung thành với
ḿnh lên làm quốc vương Champa trong khi đó Lê Văn
Duyệt quyết định giao quyền quốc vương
Champa cho Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa) tức
là phó vương dưới triều đại Po Klan
Thu (1822-1828) và cũng là con của vua Po Saong Nhung Ceng
(1799-1822), một vị chiến hữu của vua Gia
Long. Sau ngày lên ngôi của Po Phaok The vào năm 1828, vương
quốc Champa chấm dứt mối liên hệ với
triều đ́nh Huế, chỉ gửi triều cống
cho Lê Văn Duyệt. Kể từ
đó, nhân dân Champa hoàn toàn đặt dưới
quyền che chở của tổng trấn Gia Định
Thành, không c̣n phục tùng vua Minh Mệnh nữa.
Hoàn cảnh lịch sử này đă đưa Champa vào
con đường bế tắc và hoàn toàn lệ
thuộc vào kết quả của cuộc tranh chấp
giữa vua Minh Mệnh và Lê Văn Duyệt. Nếu Minh
Mệnh thắng trận, vị vua này sẽ có thái
độ vô cùng tàn bạo để trừng trị dân
chúng Champa về tội theo Lê Văn Duyệt và ngược
lại. Vào
cuối năm 1831, một nhóm quan lại trong triều
đ́nh Champa đă đứng ra phản đối thái
độ của vua Po Phaok The về việc ly khai
với triều đ́nh Huế để tuân thủ
mọi chỉ thị của Lê Văn Duyệt ở Gia
Định Thành. Lợi dụng t́nh h́nh rối ren
ở Champa và sức khỏe suy yếu của Lê Văn
Duyệt ở Gia Định Thành, Minh Mệnh ra
lệnh bắt quốc vương Po Phaok The và phó vương
Cei Dhar Kaok vào tháng 3 năm Th́n lịch Chăm (1832)
đưa về trại giam tại Huế. Khoảng
một tháng sau, tức là tháng 7 năm
Nhâm Th́n (1832), Lê Văn Duyệt băng hà ở Gia
Định Thành. Thế là vua Minh Mệnh ra lệnh xóa
bỏ Champa trên bản đồ và sáp nhập đất
đai của vương quốc này vào lănh thổ
Việt Nam. 6).
Minh Mệnh trừng phạt dân tộc Champa
(1832-1833) Trước
những h́nh phạt dă man của vua Minh Mệnh dành cho
người Việt theo Thiên Chúa Giáo hay bản án đào
mồ của Lê Văn Duyệt vào năm 1835, người
ta không ngạc nhiên cho lắm về chính sách tàn
bạo của vua Minh Mệnh để trừng trị
dân tộc Chăm về tội theo Lê Văn Duyệt và
không qui phục triều đ́nh Huế. Khởi
đầu cho cuộc trừng phạt, Minh Mệnh ra
lệnh cách chức và bắt giam tất cả quan
lại Champa ; tịch thu tất cả tài sản
của họ và sau đó đưa vào gông cùm để
tra tấn; buộc người Chăm phải khai báo
những ǵ liên quan đến phong tục tập quán
của vương quốc này ; ra lệnh trừng
phạt chức sắc Chăm bằng cách bắt
buộc các vị tu sĩ Chăm Bani (Hồi Giáo)
phải ăn thịt heo, thịt dông và tu sĩ Chăm
Bà La Môn phải ăn thịt ḅ ; ra lệnh đồng
hóa người Chăm thành người Kinh bằng cách
buộc người Chăm phải mang đồng
phục người Kinh, ngăn cấm tuyệt đối
người Chăm không có quyền cúng quẩy hay
thực thi nghi lễ tín ngưỡng của họ;
bắt buộc dân chúng Chăm phải làm nô dịch vô
cùng nặng nề như việc nộp cống các
loại gỗ quư, voi rừng, ngà voi, v.v, chưa nói
đến khổ dịch mang súng đạn và xung phong
trên chiến trường chống lại cuộc
nổi dậy của Lê Văn Khôi ở Gia Định
Thành vào năm 1833-1834. Minh
Mệnh c̣n cho phép quan lại người Kinh đứng
ra chỉ đạo, dùng roi gậy đánh đập
người Chăm nếu họ làm nô dịch quá
chậm chạp ; buộc người Chăm
phải nộp những món thịt của thú rừng
như hưu, nai, thỏ, ḅ, v.v.. Một khi người
Chăm không t́m ra món thịt thú rừng, các quan
lại người Kinh san bằng nghĩa trang Chăm,
chưa nói đến việc đưa người Chăm
ra xử trảm. Sau
đó Minh Mệnh c̣n buộc người Chăm
phải lấy tên họ theo người Hoa như Quảng,
Hứa, Đàng, Lâm, Châu, Thành,
v.v., xóa bỏ tất cả những chức vụ quan
lại Champa để thay vào đó những chức
vụ mà hệ thống hành chánh Việt Nam đă qui
hoạch như chánh tổng, lư trưởng, trùm,
biện, hào mục, v.v. Chính
sách trừng phạt của triều đ́nh Huế
đă làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống
tổ chức xă hội Chăm để rồi trong
gia đ́nh người em không c̣n biết người
anh là ai; cháu không c̣n tôn trọng bậc chú bác; các thành
viên trong gia đ́nh đối xử với nhau như
người Chăm-Kinh, không ngần ngại kéo nhau ra
thưa kiện trước pháp lư Việt Nam. Hết
nộp thuế nặng nề, dân chúng Champa phải
nộp một số lượng gỗ cho chính
quyền Việt Nam dùng để đóng tàu chiến,
xe ḅ hay đốt ḷ gạch ; phải xây dựng
đập nước và hệ thống dẫn thủy
nhập điền cho ruộng lúa của người
Kinh ; ra lệnh tịch thu tất cả ruộng
muối của người Chăm, được xem như
là mạch máu kinh tế của dân tộc này, Sau
năm 1832, dân tộc Chăm tiếp thu thêm một khái
niệm mới về tham nhũng mà họ chưa
từng nghe đến trong đời. Những quan
lại người Kinh không ngừng đ̣i tiền
hối lộ của người Chăm để
được miễn nô dịch ; không ngần
ngại chia đất đai người Chăm thành
mảnh vụn để đóng thuế và h́nh thành chính
sách cho vay nặng lăi để rồi chủ nợ người
Kinh tha hồ chiếm đoạt tài sản và ruộng
rẫy của người Chăm thiếu nợ, hay
bắt họ làm vật thế chấp. Nếu
người Chăm than van về thuế má quá nặng
nề, hành động thối nát và tham nhũng
của các quan lại người Kinh nhằm bóc
lột người Chăm, th́ nông dân Việt Nam vào
thời điểm đó cũng không thoát khỏi nanh
vuốt của triều đ́nh Huế.
Dân tộc Việt cũng bị các cường hào quan
lại tướt đoạt tài sản và bị đè
bẹp bởi nô dịch và thuế má. Một khi không
chịu nổi cơ cực nữa, nông dân Việt Nam
chỉ c̣n cách là nổi dậy. Cuộc khởi nghĩa
của Lê Văn Khôi ở Gia Định Thành và
cuộc vùng dậy của Lê Duy Lương và Nùng Văn
Vân ở phía bắc vào năm 1833 là thí dụ
điển h́nh. 7.
Phong trào Hồi Giáo của Katip Sumat (1833-1834) Katip
Sumat là vị tu sĩ Chăm Hồi Giáo sinh ở
Campuchia, đă từng sang Mă Lai du học về
triết lư Hồi Giáo. Nghe tin vương quốc Champa
bị xóa bỏ trên bản đồ vào năm 1832,
Katip Sumat rời Mă Lai trở về Champa để h́nh
thành một phong trào đấu tranh chống triều
đ́nh Huế vào năm 1833.
Mục tiêu của Katip Sumat là
giải phóng Champa ra khỏi ách thống trị của
Việt Nam. Muốn tiến đến
mục tiêu này, Katip Sumat dùng
triết lư Hồi Giáo làm khung cho chủ thuyết đấu
tranh đó là h́nh thành mặt trận “thánh chiến
Hồi Giáo” (Jihad) chống lại triều đ́nh
Huế. Sự
vùng dậy của Katip Sumat đă biến dân chúng
Champa thành nạn nhân của chiến cuộc. Để
dập tan quân phiến loạn, Minh Mệnh ra lệnh
cho binh lính của triều đ́nh Huế tha hồ
giết hại người Chăm vô tội và tung ra
“chiến trường đỏ lửa”
bằng cách đốt phá tất cả làng mạc người
Chăm theo Katip Sumat, nhất là những làng mạc
gần bờ biển hầu ngăn chặn người
Chăm chạy sang nước ngoài, trong khi đó dân cư
người Kinh ở B́nh Thuận sẵn có súng đạn
trong tay t́m cách giải quyết mối hận thù riêng
bằng cách giết hại người Chăm không
gớm tay Trước
lực lượng hùng mạnh của vua Minh Mệnh, Katip
Sumat buộc phải lui về miền núi nằm
ở phía tây và ra lệnh cho quân lính Chăm tiếp
tục đương đầu với triều đ́nh
Huế ở đồng bằng, nhưng không gặt hái
kết quả ǵ. Ai
cũng biết, Minh Mệnh là vị quốc vương
rất tôn sùng giá trị văn hóa của dân tộc
Việt và không bao giờ chấp nhận một tôn giáo
ngoại lai nào du nhập vào lănh thổ Việt Nam.
Kể từ đó, cuộc khởi nghĩa của người
Chăm dựa vào chủ thuyết Hồi Giáo du
nhập từ bên ngoài có thể gây ra những mối
nguy cơ mà vua Minh Mệnh phải dập tan bằng
mọi cách, càng sớm càng tốt. 8).
Cuộc khởi nghĩa của Ja
Thak Wa (1834-1835) Xuất
thân từ Palei Ram (thôn Văn Lăm, Ninh Thuận),
Ja Thak Wa không phải người Hồi Giáo chính
thống mà là vị tu sĩ Chăm Bani, quyết định
ly khai ra khỏi tổ chức cũa Katip Sumat để
h́nh thành một cuộc khởi nghĩa nhằm
giải phóng Champa ra khỏi ách thống trị của
triều đ́nh Huế. Nhằm tiến đến
mục tiêu, Ja Thak Wa thành lập một chính phủ
Champa lâm thời vào cuối năm 1834,
tôn vinh Po War Palei, gốc người Raglai, tức là em
rể của phó vương Cei Dhar Kaok (Nguyễn Văn
Nguyên) lên làm quốc vương nhằm phục
hồi lại vương niệm Champa thuộc ḍng
tộc Po Rome gốc người miền núi (Kaho hay
Churu, tùy theo dị bản) ở Đổng Nai Thượng,
nắm quyền Champa từ năm 1627 cho đến
triều đại Po Cei Brei (1783-1786). Cuộc
khởi nghĩa của Ja Thak Wa bùng nổ vào tháng 7 năm
Ngọ lịch Chăm (1834). Đây
là cuộc chiến vô cùng khốc liệt, vang dội
như sấm sét làm rung chuyển cả trời đất. Nhằm
dập tan cuộc khởi nghĩa này, biên niên sử Chăm
cho rằng vua Minh Mệnh ra lệnh cho mỗi binh lính người
Kinh phải chặt ba cái đầu của người
Chăm vào mỗi buổi sáng mới nhận được
tiền lương. Lợi dụng chỉ dụ này, người
Kinh tha hồ chém đầu người dân Chăm vô
tội, càng nhiều càng tốt, để đem
nộp cho chính quyền Việt Nam hầu nhận
tiền thưởng. Đây là cuộc chém giết người
Chăm vô cùng kinh hoàng chưa từng xảy ra trong
lịch sử Đông Nam Á. Đầu
năm 1835 là giai đoạn đánh dấu cho những
trận chiến khốc liệt tại đồng
bằng Phan Rang, nơi mà Ja Thak Wa bị tử trận
trên băi chiến trường. Lợi dụng cơ
hội này, vua Minh Mệnh ra lệnh tử h́nh quốc
vương Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa) vá phó vương
Cei Dhar Kaok (Nguyễn Văn Nguyên) vào tháng 6 năm
Ất Vị (1835) ; đốt phá tất cả thôn
làng người Chăm dọc theo bờ biển; chém
giết những người Chăm nào tham gia trong
cuộc khởi nghĩa của Ja Thak Wa ; đập
phá nghĩa địa tổ tiên của người Chăm;
đào mồ mả vua chúa Champa và đốt phá
cả đền Po Rome ở khu vực Phan Rang ;
cắt đứt hẳn mối liên lạc giữa người
Chăm và dân tộc miền núi để họ không c̣n
tụ tập chiến đấu chống triều đ́nh
Huế nữa. 9).
Thay lời kết luận Trong
phần « thay lời kết luận », Pgs. Ts.
Po Dharma đưa ra những lời nhận định
sau đây: •
Trước cuộc Nam Tiến của dân tộc
Việt, Việt Nam phải mất gần 8 thế
kỷ để xâm chiếm toàn diện lănh thổ
Champa vào năm 1832. Điều này đă chứng
minh rằng cuộc Nam Tiến đă gặp những
sự đối kháng vô cùng quyết liệt của dân
chúng Champa. •
Trong suốt thời kỳ chiến tranh giữa Tây Sơn
và Nguyễn Ánh (1771-1802), Champa đă chấm dứt
sự tồn tại của ḿnh trên mặt địa
lư. Nhờ vua Gia Long
mà vương quốc Champa được phục hưng
lại. Nhưng người ta cũng đặt ra câu
hỏi tại sao vua Gia Long quyết định phục
hưng lại nền độc lập Champa vào năm
1802 với mục đích ǵ? Và người ta cũng
không biết tại sao vua Minh Mệnh chấp nhận
cho vương quốc Champa được tồn
tại thêm mười năm nữa (1802-1822). •
Dưới triều đại Gia Long, Champa là
quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ
của triều đ́nh Huế. Nhưng quyền
kiểm soát của Champa hoàn toàn nằm trong tay của
Lê Văn Duyệt. Trong khoảng thời gian này, Champa
là vương quốc thanh b́nh. Nhưng
sự thanh b́nh và thịnh vượng này chỉ là
kết quả của mối liên hệ rất thân
thiện giữa vua Gia Long và Lê Văn Duyệt, tức
là hai nhân vật nắm toàn quyền về sự
sống c̣n của vương quốc Champa. •
Sau ngày lên ngôi của vua Minh Mệnh vào năm 1820,
Champa trở thành chủ đề tranh chấp trong
nội bộ chính trị của Việt Nam. Kể
từ đó, Champa chỉ là con tốt trên bàn cờ chính
trị đối kháng giữa triều đ́nh Huế
và Lê Văn Duyệt. •
Là nạn nhân của cuộc tranh chấp giữa Minh
Mệnh và Lê Văn Duyệt, vương quốc
Champa bị đưa đẩy vào thế đứng
nằm giữa hai gọng kiềm: chọn Minh Mệnh
hay Lê Văn Duyệt để làm người bảo
hộ cho ḿnh. Kể từ đó, tương lai
của Champa hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả
của cuộc tranh chấp giữa Minh Mệnh và Lê Văn
Duyệt. Một khi đă lựa chọn, Champa phải
chấp nhận những hậu quả kinh hoàng, nếu
phe ḿnh bị bại trận. •
Năm 1832, Lê Văn Duyệt băng hà v́ tuổi già.
Nhân danh phe thắng trận, vua Minh Mệnh xóa bỏ
ngay tên gọi Champa trên bản đồ và ra
lệnh trừng trị vô cùng khủng khiếp các quan
lại và dân chúng Champa về tội theo Lê Văn
Duyệt. Sự quyết định trừng phạt
Champa của vua Minh Mệnh không biểu tượng cho
sự thù hằn dân tộc Chăm-Việt, mà là
phản ứng tự nhiên trong quá tŕnh h́nh thành
lịch sử dưới thời cổ đại. •
Những biện pháp trừng phạt nhân dân Champa vô
cùng dă man kể từ năm 1832 không ám chỉ cho
chính sách diệt chủng của vua Minh Mệnh đối
với người Chăm. Và chính sách trừng
phạt này không mang nội dung hận thù dân tộc hay
phân biệt màu da giữa người Chăm và Kinh mà
là hành động mang màu sắc chính trị dành cho
những ai, dù họ là người Kinh hay Chăm đi
nữa, không tôn trọng uy quyền của triều
đ́nh Huế vào thời điểm đó. Nhưng trên
thực tế, những cư dân người Kinh và quan
lại thuộc phủ B́nh Thuận là tập thể có
ư đồ hành hạ và ngược đăi dân
tộc bản xứ Champa, lúc nào cũng t́m cách tước
đoạt tài sản của những người không
cùng màu da với ḿnh. Và chính họ là những người
đă gây ra những cuộc vùng dậy của dân
tộc Champa vào những năm 1833-1835. 10).
Phụ Lục Trong
phần phụ lục, tác giả đính kèm: •
Nội dung của tác phẩm viết bắng tiếng
Chăm : Ariya Po Ceng •
Nội dung của tác phẩm viết bắng tiếng
Chăm : Ariya Po Phaok •
Lịch tŕnh biến cố theo niên đại liên quan
đến tiểu vương quốc Panduranga •
Bản đồ
(nguồn champaka.info) |