Việt Cộng nằm vùng ở đâu cũng có, ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có. Trúc Giang MN |
Cụm
T́nh Báo VC A.22 trong Dinh Độc Lập 1*
Mở bài Trong
chiến tranh Việt Nam, Việt Cộng nằm vùng
thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Chúng
lặn sâu trèo cao, xâm nhập vào các cơ quan trọng
yếu của chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa. Từ
Cảnh sát Quốc Gia, Cục An ninh Quân đội,
Phủ Đặc Ủy Trung ương T́nh báo, Bộ
Tổng Tham Mưu Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa và
ngay cả trong văn pḥng của Đại tướng
Cao Văn Viên cũng có Việt Cộng nằm vùng.
Tại Hạ Viện Quốc hội cũng có nhiều
tên Việt Cộng nằm vùng Đau
nhất là trong Dinh Độc Lập cũng có Cụm t́nh
báo A-22, làm cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu. 2*.
Nguồn gốc Việt Cộng nằm vùng Sau
Hiệp định Genève 1954, trước khi tập
kết ra Bắc, Việt Cộng chôn vũ khí và cài người
ở lại. Bọn nầy t́m mọi cách len lỏi vào
các cơ quan chính quyền xă ấp. Nhiều nhất là
ở tỉnh Bến Tre. Chính quyền VNCH đă ra
Luật số 10 năm 1959 đặt những tên
Việt Cộng nầy ra ngoài ṿng pháp luật. Các chương
tŕnh Tố Cộng và Diệt Cộng được
thực hiện mọi nơi. Tại
những điểm tập kết, khi chờ tàu
chuyển ra Bắc, Việt Cộng tích cực thực
hiện chương tŕnh dân vận, ra tay giúp đỡ
những gia đ́nh ở nông thôn trong mọi công
việc hàng ngày, tôn vinh những Bà mẹ Chiến sĩ,
các “Bà Má”…Tŕnh diễn văn nghệ ngoài trời
dưới h́nh thức lửa trại, phụ nữ nông
thôn được mời tham gia, thế là những
cặp trai gái ôm nhau nhảy múa “Sol, đố, ḿ”.
Kết hôn và hẹn 2 năm sau (Theo định Genève
1954 th́ 2 năm sau sẽ tổng tuyển cử) sẽ
trở về xây dựng hạnh phúc gia đ́nh.
Thế là những bà vợ và con của những cán
binh VC luôn luôn hướng về miền Bắc, và
chờ chồng về. Đó là kế hoạch xây
dựng cơ sở để VC về nằm vùng. Một
số làm gián điệp cho VC là do thân nhân, vốn là
VC móc nối. Một số gián điệp chuyên
nghiệp trà trộn theo ḍng người di cư vào
miền Nam. Một số lén lút vượt vĩ
tuyến 17 xâm nhập miền Nam. Đó
là nguồn gốc của những tên VC nằm vùng. 3*.
Ở đâu cũng có những tên gián điệp
Việt Cộng nằm vùng. 1).
Sinh viên các trường đại học là Việt
Cộng nằm vùng. Sinh
viên các trường đại học nằm vùng
gồm có: Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Dương
Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân,
Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Vơ Ba,
Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương,
Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Vơ
Thị Tố Nga, Phan Công Tŕnh, Tôn Thất Lập,
Trần Long Ân… Đám
nầy tuyên truyền chống chính phủ, phá bầu
cử, chống chương tŕnh quân sự học
đường… 2).
Việt Cộng nằm vùng trong giới văn nghệ sĩ. Gồm
có: Kim Cương, Họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành,
nhà văn Vũ Hạnh. Trước 1975, Vũ Hạnh
bị bắt 5 lần, lần nào cũng có người
bảo lănh cho ra. Người bảo lănh sau cùng là linh
mục Thanh Lăng, Chủ tịch Hội Văn Bút. 3).
Phật giáo. Ni
sư Huỳnh Liên, ni sư trưởng Tịnh xá
Ngọc Phượng, là Việt Cộng nằm vùng. 4).
Việt Cộng nằm vùng ở Hạ Viện Quốc
Hội Việt Nam Cộng Ḥa.
Dân
biểu Đinh Văn Đệ và Nguyễn Văn Hàm Gồm
có các dân biểu Nguyễn Văn Hàm, Dương Văn
Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Lư Quư Chung, Ngô Công Đức,
Đinh Văn Đệ (Bí số U.4). Nguyễn
Văn Hàm tổ chức “Phong Trào Cứu Đói” và
“Kư giả đi ăn mày” bằng những cuộc
biểu t́nh. Sau ngày 30-4-1975 được cho nắm
giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Quân Quản
Sài G̣n. Đó là chức vụ sau cùng trước khi
bị đá ra khỏi mọi chức vụ của chính
quyền Việt Cộng. Hàm đă cho vợ con vượt
biên qua Úc, và chính hắn cũng qua Úc sống một
thời gian rồi lại trồi đầu về
Việt Nam, chờ chết trong cô đơn. Đinh
Văn Đệ, Chủ tịch Ủy ban Quốc Pḥng
Hạ Viện. Đă từng giữ chức Tỉnh trưởng
Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt
(1963). Tỉnh trưởng B́nh Thuận (1964-1967). Người
móc nối là chú, tên Đinh Văn Út (Bí danh là Chín
Mẫn). Những
thành tích: Khi Việt Cộng chiếm Phước Long,
Đinh Văn Đệ thông báo là VNCH sẽ đánh
bom Phước Long, nên VC rút ra khỏi Lộc Ninh, không
bị thiệt hại ǵ. Đệ (U.4) được
VC ban thưởng Huân Chương Chiến Công Hạng
Nhất. Thành tích thứ hai là Tổng thống
Thiệu đă cử Đinh Văn Đệ làm trưởng
đoàn đi
Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Mục đích
để cho Mỹ cắt viện trợ, Đinh Văn
Đệ (U.4) đưa h́nh binh sĩ Việt Nam
Cộng Ḥa không muốn chiến đấu, bỏ
chạy bằng cách bám vào càng trực thăng chạy
ra khỏi chiến trường. Đinh
Văn Đệ c̣n đưa một gián điệp VC
bí danh “Số 6”, vừa tốt nghiệp Cao học
ở nước ngoài, vào làm nhân viên Ủy ban
Quốc pḥng của Đệ ở Hạ Viện. 5).
Việt Cộng nằm vùng ở Nha Cảnh sát Đô
Thành Đó
là Đại úy Triệu Quốc Mạnh mà Dương
Văn Minh phong chức Giám đốc Nha Cảnh Sát
Quốc Gia Đô thành. Tên Mạnh mượn danh Dương
Văn Minh giải tán Nha CSQG Đô thành, bằng cách cho
phép các quận trưởng cảnh sát ở 11
quận đô thành, được phép về nhà thu
xếp việc gia đ́nh, khi VC trên đường vào
Sài G̣n. Các quận trưởng về nhà th́ nhân viên
cảnh sát cũng tự tan hàng. 4*.
Thiếu tướng t́nh báo Việt Cộng Đặng
Trần Đức trong Phủ Đặc Ủy Trung
Ương T́nh Báo Việt Nam Cộng Ḥa. 4.1.
Vài nét tổng quát về Phủ Đặc Ủy Trung
Ương T́nh Báo Việt Nam Cộng Ḥa Phủ
Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo (Phủ ĐU/TW/TB)
(Central Intelligence Office-CIO) là cơ quan t́nh báo chiến lược,
trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tên giao
dịch hành chánh là “Nha Hành Chánh và Nhân Viên Phủ
Tổng Thống”. Trụ
sở ở số 3 Bến Bạch Đằng, bên
cạnh Nha Quân Pháp và Bộ Tư Lệnh Hải Quân. 1).
Những tổ chức trực thuộc ·
Cục T́nh Báo
Quốc Nội gồm có: Nha Điệp Báo (Ban K), Nha
Phản Gián (Ban U), Nha Chính Trị (Ban Z). ·
Cục T́nh Báo
Quốc Ngoại gồm có các tổ chức: Phú Xuân
(Pháp), Lam Sơn (Anh), Thái B́nh Dương (Nhật),
Tiền Giang (Thái Lan), Phú Quốc (Campuchia) và Singapore. 2).
Các Đặc Ủy Trưởng Theo
thời gian, gồm có: Đại tá Lê Liêm, Đại
tá Nguyễn Văn Y, Trung tướng Mai Hữu Xuân,
Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tướng
Linh Quang Viên, Thiếu tướng Nguyễn Khắc B́nh. Sau
30-4-1975, phần lớn nhân viên Phủ Đặc
Ủy bị kẹt lại ở Việt Nam. Chiều
ngày 28-4-1975, ṭa Đại sứ Mỹ yêu cầu
tất cả nhân viên tập hợp tại trụ
sở số 3 Bến Bạch Đằng. Sau đó,
chuyển sang số 2 đường Nguyễn Hậu.
Đến 1 giờ sáng ngày 30-4-75 th́ mất liên
lạc giữa Phủ Đặc Ủy và ṭa Đại
sứ Mỹ. 4.2.
Gián điệp Việt Cộng Đặng Trần
Đức 1).
Tiểu sử Đặng Trần Đức
(Từ
trái qua) Thiếu tướng Đặng Trần Đức
(tức Ba Quốc), Thiếu tướng Vũ Ngọc
Nhạ và Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn. Đặng
Trần Đức (1922 – 2004) c̣n có tên là Nguyễn Văn
Tá, sinh tại Thanh Tŕ, Hà Nội. Bí danh Ba Quốc. Năm
1954, Đặng Trần Đức và vợ cùng 3 con, trà
trộn vào ḍng người di cư vào Miền Nam, mang
tên Nguyễn Văn Tá. Làm thơ kư kế toán tại
Nha Công An Nam Phần. Từ năm 1963 trở thành
phụ tá trung thành của Bác sĩ Trần Kim
Tuyến, Giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính
Trị và Xă Hội. (Sở Mật vụ). Sau khi
chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ,
bị đưa xuống làm nhân viên thường
ở Sở Giao tế Dân sự, trực thuộc
Phủ ĐU/TW/TB. Sau đó, nhờ có quan hệ tốt
với Trung tá Trần Ngọc Châu, Giám đốc
Sở nên được cho về làm việc tại
Phủ ĐU/TW/TB với chức vụ cũ. 2).
Hoạt động gián điệp của Đặng
Trần Đức Việt
Cộng nằm vùng Đặng Trần Đức (Ba
Quốc) đánh phá Việt Nam Cộng Ḥa bằng
nhiều cách: Gây chia rẻ giữa Nguyễn Cao Kỳ và
Nguyễn Văn Thiệu, gây chia rẻ giữa Bà
Thiệu và bà Trần Thiện Khiêm, gây chia rẻ các
đoàn thể dân sự, ăn cắp tài liệu bí
mật của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH thông qua
Trung úy Vũ Văn Mùi. Đồng
thời khám phá những cán bộ Việt Cộng làm
việc cho VNCH. Đó là một bác sĩ dân y của
Mặt Trận Giải Phóng tỉnh Quảng Đà, và
một tỉnh ủy viên trong Đảng bộ Tây
Ninh. Việt
Cộng nằm vùng Ba Quốc xúi giục Nguyễn Cao
Kỳ làm đảo chánh nhưng không thành công, v́ ông
Kỳ không được Phật Giáo ủng hộ và
do Mỹ không chấp nhận một cuộc đảo
chánh. Ngày
23-5-1974, được lịnh cấp trên phải ra căn
cứ gấp v́ người giao liên tên Nguyễn Văn
Thương bị bắt. Ba Quốc đến điểm
hẹn là một rạp chiếu bóng ở Mỹ Tho, và
được giao liên đưa ra căn cứ. Không
lâu sau đó, ngày 30-4-1975, Ba Quốc trở về cơ
quan cũ, ngồi ở bàn tŕnh diện đăng kư
của những nhân viên đồng nghiệp. Đặng
Trần Đức được phong Thiếu tướng
làm việc ở Tổng Cục 2 thuộc Bộ
Quốc Pḥng Việt Cộng. 5*.
Việt Cộng nằm vùng trong Bộ Tổng Tham Mưu
QLVNCH. 5.1.
Trung úy Vũ Văn Mùi. Trung
úy Vũ Văn Mùi là trưởng Trung Tâm Trận
Liệt và Lănh Thổ, trực thuộc Pḥng 2 Bộ
Tổng Tham Mưu, do người anh là Trung tá Vũ Văn
Nho làm trưởng pḥng. Vũ
Văn Mùi chuyển tài liệu mật đến
Việt Cộng nằm vùng ở Phủ ĐU/TW/TB là
Nguyễn Văn Tá (Ba Quốc). 5.2.
Việt Cộng nằm vùng trong văn pḥng của Đại
tướng Cao
Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. 1).
Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Văn Minh, bí
số H.3. Người
giữ ch́a khóa hồ sơ mật của văn pḥng
Đại tướng Cao Văn Viên là Đại tá
Việt Cộng nằm vùng, bí số H.3. Đó là Thượng
sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thơ kư đánh máy.
Tên nầy nằm vùng suốt 10 năm, từ Nguyễn
Hữu Có đến Cao Văn Viên, và đến sau ngày
30-4-75 vẫn chưa bị lộ. Phương
thức chuyển tài liệu. Nguyễn
Văn Minh chép tay tài liệu vào giấy đánh máy
(pelure) rồi chuyển cho các giao liên qua việc lái xe
ôm ngoài giờ làm việc. Đường
dây giao liên gồm có vợ, là Đinh Thị Nữ, em
gái là Nguyễn Thị Nguyệt (H.4), em trai tên
Nguyễn Văn Chí (Cảnh sát áo trắng). 2).
Những tài liệu tối mật Tên
VC nằm vùng nầy đă chuyển 90 tài liệu,
mỗi thứ có cả chục trang giấy đánh máy
viết tay. Việt Cộng đánh giá đó là
những “tài liệu vàng”. Tài
liệu gồm có: ·
Kế
hoạch năm 1974-1975 của Hải Quân Việt Nam
Cộng Ḥa ·
Kế
hoạch của Văn pḥng Tùy viên Quân Sự (DAO=Defense
Attaché Office) về kế hoạch viện trợ quân
sự cho VNCH. ·
Những văn
bản mật mà Tổng thống Thiệu gởi cho
Đại tướng Cao Văn Viên. Thậm chí
những tài liệu tối mật, chỉ có 5 người
được đọc, cũng nằm trong tay người
được Đại tướng tin cậy, VC
nằm vùng bí số H.3. Đến ngày 30-4-1975 vẫn chưa bị
lộ. Ba Minh giữ toàn bộ hồ sơ tối
mật nầy để giao lại cho Việt Cộng,
không mất một một tờ nào cả. Cho măi đến năm 2006, tại một
hội nghị quốc tế về t́nh báo trong
chiến tranh Việt Nam, ông Merle Pribbenow, cựu nhân viên
CIA cho biết: “Đúng là phải có một điệp
viên Cộng Sản nằm vùng trong ḷng Bộ Tổng
Tham Mưu. Dường như không phải là một sĩ
quan cao cấp, mà cũng không phải là một tùy viên
thân cận Tổng thống Thiệu (Có thể tiết
lộ bí mật về những tài liệu mà Dinh Độc
Lập gởi cho Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH), nhưng
chắc chắn là người nầy đă gởi ra
Bộ Chính Trị Bắc Việt những tin t́nh báo
chiến lược”. 6*.
Gián điệp Việt Cộng hoàn hảo, Phạm Xuân
Ẩn 6.1.
Thân thế và hoạt động
Phạm
Xuân Ẩn Phạm
Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại xă B́nh Trước, Biên
Ḥa, là một thiếu tướng t́nh báo của Quân
đội Cộng Sản Bắc Việt. Từng
là nhà báo. Phóng viên cho Reuters, tạp chí Time, New York
Herald Tribune, The Christian Science Monitor. Theo
học trường Collège de Can Tho. Năm
1948- Tham gia Thanh Niên Tiền Phong và sau đó, làm thơ
kư cho hăng dầu lửa Caltex. Năm
1950- Làm nhân viên Sở Quan Thuế Saigon, để thi hành
nhiệm vụ là t́m hiểu t́nh h́nh vận chuyển
hàng hóa, khí tài quân sự từ Pháp sang VN. Đây là
lần đầu tiên làm nhiệm vụ t́nh báo cùng
với 14 ngàn gián điệp được cài cắm
vào hoạt động trong chính quyền Việt Nam
Cộng Ḥa. Năm
1952- Phạm Xuân Ẩn ra Chiến Khu D và đă
được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch,
Ủy viên Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ giao cho nhiệm
vụ làm t́nh báo chiến lược. Năm
1953- Phạm Xuân Ẩn được Lê Đức
Thọ kết nạp vào đảng tại rừng U
Minh, Cà Mau. Năm
1954- Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và
được trưng dụng ngay vào làm thư kư Pḥng
Chiến Tranh Tâm Lư Bộ Tổng Hành Dinh Liên Hiệp
Pháp, tại Camps Aux Mares (Thành Ô Ma). Tại đó,
Ẩn được quen biết với Đại tá
Edward Landsdale, trưởng phái bộ đặc biệt
của Mỹ (SMM), trên thực tế, Landsdale là người
chỉ huy CIA tại Đông Dương. cũng là trưởng
phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG= United
States Military Assistance Advisory Group) tại Saigon. Năm
1955- Theo đề nghị của Phái Bộ Cố
Vấn Quân Sự Mỹ, Phạm Xuân Ẩn tham gia
soạn thảo tài liệu tham mưu, tổ chức, tác
chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội.
Tham gia thành lập cái khung của 6 sư đoàn đầu
tiên của QLVNCH, mà nồng cốt là sĩ quan, hạ
sĩ quan, binh sĩ người Việt trong quân đội
Pháp trước đó. Phạm
Xuân Ẩn c̣n được giao nhiệm vụ hợp
tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ
quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào
tạo, trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu,
sau nầy trở thành tổng thống VNCH. Năm
1957- Tháng 10 năm 1957, Mai Chí Thọ và Trần Quốc
Hương (Mười Hương) chỉ đạo
cho Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ du học ngành báo chí,
để có cơ hội đi khắp nơi, tiếp
cận với những nhân vật có quyền lực
nhất. Năm
1959. Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ
những mối quan hệ, Ẩn được bác sĩ
Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên Cứu
Chính Trị Và Văn Hóa Xă Hội (Thực chất là
cơ quan mật vụ của Phủ tổng thống),
biệt phái sang làm việc tại Việt Tấn Xă,
phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm
việc ở đó. Năm
1960. Từ năm 1960 đến giữa 1964, Phạm Xuân
Ẩn làm việc cho hăng thông tấn Reuters. Từ 65
đến 67, Ẩn là người Việt duy nhất và
chính thức làm việc cho tuần báo Time. Ngoài ra, c̣n
cộng tác với báo The Christian Science Monitor… Từ
1960 đến 1975- Với cái vỏ bọc là phóng viên,
nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao
cấp, với các nhân viên t́nh báo, an ninh quân đội
và với cả CIA , Ẩn đă thu thập được
nhiều tin tức quan trọng từ quân đội,
cảnh sát và các cơ quan t́nh báo. Những
tin tức t́nh báo chiến lược của Ẩn
đă được gởi ra Hà Nội thông qua Trung
Ương Cục Miền Nam. Tài liệu sống động
và tỷ mỉ khiến cho Vơ Nguyên Giáp đă reo lên
“Chúng ta đang ở trong Pḥng Hành Quân của Hoa
Kỳ”. Tổng
cộng, Ẩn đă gởi về Hà Nội 498 tài
liệu được sao chụp từ tài liệu
gốc. Giai
Đoạn 1973-1975- Hàng trăm bản văn quan
trọng của Ẩn làm căn cứ để Hà
Nội “Hạ Quyết Tâm Giải Phóng Miền Nam ”
của đảng CSVN. Phạm
Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo của
nhiều cơ quan t́nh báo, kể cả CIA . Ngày
30-4-1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo
chứng kiến cảnh xe tăng của VC hút đỗ
cổng Dinh Độc Lâp. Từ đó cho đến vài
tháng sau, các phóng viên, đồng bào và cả chính
quyền mới cũng chưa biết Phạm Xuân
Ẩn là một điệp viên Cộng sản.
Được xem là một điệp viên hoàn
hảo. Vợ
con của Phạm Xuân Ẩn đă di tản sang Hoa
Kỳ. Ẩn cũng được lịnh của
cấp trên sang HK để tiếp tục hoạt động
t́nh báo, nhưng Ẩn xin ngưng công tác v́ đă hoàn
thành nhiệm vụ. Do
kế hoạch thay đổi, Ẩn không đi Mỹ,
cho nên măi đến một năm sau, vợ con của
Ẩn mới quay về VN bằng đường ṿng
qua Paris, Moskva, Hà Nội, Saigon. 6.2.
Bị thất sủng Ngày
15-1-1976, trung tá “Trần Văn Trung”, tức Phạm
Xuân Ẩn, được phong tặng “Anh Hùng Lực
Lượng Vũ Trang”. Tháng
8 năm 1978, Ẩn ra Hà Nội dự khóa học
tập chính trị 10 tháng v́ Ẩn “sống quá lâu
trong ḷng địch”. Theo
Larry Berman th́ Ẩn bị nghi kỵ và bị quản
chế tại gia. Cấm liên lạc với báo chí
ngoại quốc và cấm xuất cảnh, do cách suy nghĩ
của Ẩn quá “Mỹ” và do Ẩn đă giúp bác sĩ
Trần Kim Tuyến ra khỏi VN ngày 30-4-1975 . Năm
1986. Trong 10 năm, luôn luôn có 1 công an canh gác trước
nhà của Phạm Xuân Ẩn. Năm
1990. Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng
thiếu tướng. Năm
1997. Chánh phủ VNCS từ chối không cho Ẩn đi
Hoa Kỳ để dự hội nghị tại New York,
mà Ẩn được mời với tư cách là khách
mời đặc biệt. Năm
2002- Phạm Xuân Ẩn về nghỉ hưu. Con
trai lớn của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ân, đă
du học Mỹ, làm việc tại Bộ Ngoại Giao
ở Hà Nội. Con gái của Ẩn sống ở Hoa
Kỳ. 6.3.
Ăn năn đă muộn Trong
những năm cuối đời, Phạm Xuân Ẩn
cảm thấy rất thất vọng v́ dân chúng không
được viết tự do. Ẩn trối trăn
trước khi chết là, “đừng chôn ông gần
những người Cộng Sản”. Nhận
định về Phạm Xuân Ẩn. Lê
Duẩn đă biểu dương Phạm Xuân Ẩn,
coi đó là một chiến công có tầm cỡ
quốc tế. Frank
Snepp, cựu chuyên viên CIA , tác giả cuốn sách Decent
Interval (Khoảng cách thích đáng) nói:”Phạm
Xuân Ẩn đă có được nguồn tin t́nh báo
chiến lược, điều đó rơ ràng, nhưng
chưa ai “Dẫn con mèo đi ngược” để
thực hiện một cuộc xét nghiệm pháp y
về các tác hại mà ông đă gây ra. Cơ quan CIA không
có gan để làm việc đó.” Hết trích. Murrray
Gart, thông tín viên trưởng của báo Time nói “Thằng
chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó”. 7*
Việt Cộng nằm vùng Phạm Ngọc Thảo 7.1.
Thân thế
Phạm
Ngọc Thảo Phạm
Ngọc Thảo sinh ngày 14-2-1922 tại Sàigon. Cha ông là
Phạm Ngọc Thuần, một địa chủ
lớn, có quốc tịch Pháp, người Công giáo.
Thảo c̣n có tên là Albert Thảo hoặc 9 Thảo. Sau
khi đậu tú tài, Thảo ra Hà Nội học và
tốt nghiệp kỹ sư công chánh. Thảo
tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp và tham gia kháng
chiến. 7.2.
Hoạt động VC Sau
khi tốt nghiệp trường Vơ Bị Trần
Quốc Tuấn, Thảo về nhận nhiệm vụ
giao liên ở Phú Yên. Một lần, Thảo đưa
một cán bộ về Nam Bộ. Đó Là Lê Duẩn,
người đă có ảnh hưởng lớn về
hoạt động t́nh báo của Thảo sau nầy. Được
Việt Cộng bổ làm Tiểu đoàn trưởng
TĐ 410, quân khu 9. (Có tài liệu nói là TĐ 404
hoặc 307). Trong thời gian nầy, ở trong khu
Việt Minh, Thảo hướng dẫn chiến tranh du
kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn
Kim, những người sau nầy trở thành tướng
lănh của QLVNCH. Vợ
là Phạm Thị Nhậm, em ruột của giáo sư
Phạm Thiều, nguyên đại sứ Việt
Cộng tại Tiệp Khắc. 7.3.
Lợi dụng Giám mục Ngô Đ́nh Thục Sau
Hiệp Định Genève, Lê Duẩn chỉ thị cho
Phạm Ngọc Thảo không được tập
kết ra Bắc, phải ở lại nằm vùng. Từ
đó, Thảo dạy học ở một số tư
thục Saigon. Phạm
Ngọc Thảo đă bị Đại tá Mai Hữu Xuân,
Giám Đốc An Ninh Quân Đội, lùng bắt
nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Sau cùng,
Thảo về Vĩnh Long làm nghề dạy học.
Tỉnh nầy thuộc địa phận của Giám
mục Phêrô Ngô Đ́nh Thục, vốn đă quen
biết với gia đ́nh Thảo từ trước. Ngô
Đ́nh Thục coi Phạm Ngọc Thảo như con nuôi,
và bảo lănh cho vào dạy học ở trường
Nguyễn Trường Tộ. Năm
1956. Phạm Ngọc Thảo được phép
đưa vợ con về Sài G̣n và vào làm việc
ở Ngân Hàng QG. Rồi được chuyển
ngạch sang quân đội với cấp bậc Đại
uư “Đồng Hóa”. Năm
1956. Do sự giới thiệu của Huỳnh Văn
Lang, Tổng Giám đốc Viện Hối Đoái, Bí
thư Liên Kỳ Bộ của đảng Cần Lao,
Phạm Ngọc Thảo được cử đi
học khóa Nhân Vị ở Vĩnh Long. Và Thảo đă
gia nhập đảng Cần Lao. 7.4.
Thời Đệ Nhất Cộng Ḥa. Lặn sâu trèo
cao Hoạt
động trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa: -
Chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh
Long. -
Tuyên Huấn đảng Cần Lao Nhân Vị. Thảo
biết cách khai thác nghề viết báo của ḿnh vào
Binh pháp Tôn Tử. Chỉ trong ṿng một năm,
Thảo đă viết 20 bài báo nói về chiến lược,
chiến thuật, nghệ thuật lănh đạo
chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp
Tôn Tử, Trần Hưng Đạo. Những bài báo
được giới quân sự chú ư và cả TT
Diệm và Ngô Đ́nh Nhu. Năm
1957. Phạm Ngọc Thảo được chuyển
về Pḥng Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng
thống, với cấp bậc thiếu tá. Sau đó,
giữ chức Tỉnh Đoàn trưởng Bảo An B́nh
Dương. Năm
1960. Phạm Ngọc Thảo tham dự khóa Chỉ Huy
Tham Mưu ở Đà Lạt. Giữ chức vụ
Thanh Tra Khu Trù Mật. Năm
1961. Phạm Ngọc Thảo được thăng trung
tá, giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Ḥa
để trắc nghiệm chương tŕnh b́nh định.
Thời gian nầy, Kiến Ḥa (Bến Tre) trở nên
ổn định không c̣n phục kích hay phá hoại
nữa. Tuy
nhiên có nhiều tố cáo Thảo là Cộng Sản
nằm vùng. Thảo bị ngưng chức tỉnh trưởng
Kiến Ḥa, và cho đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu
ở Hoa Kỳ.(
US Army Command and General Staff College) Fort Leavenworth thuộc bang
Kansas, Hoa Kỳ. Lư
do bị cách chức tỉnh trưởng là, Thảo
đă thả hơn 2000 tù nhân đă bị giam giữ,
và đă liên lạc với bà Nguyễn Thị Định. 7.5. Phạm
Ngọc Thảo tham gia các cuộc đảo chánh 1).
Đảo chánh lần thứ nhất, 1963 Tháng
9 năm 1963, bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám
Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị (Thực
chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc
Thảo âm mưu một cuộc đảo chánh Ngô
Đ́nh Diệm. Phạm
Ngọc Thảo đă kêu gọi được một
số đơn vị thuộc các quân đoàn như:
Quân Đoàn 3, Quân Đoàn 4, Biệt Động Quân,
Bảo An, sẵn sàng tham gia. Nhưng âm mưu bị
nghi ngờ. Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm
Tổng Lănh Sự ở Ai Cập, nhưng đă xin
tỵ nạn chính trị ở Hồng Kông. Sau
ngày đảo chánh 1-11-1963, Đệ Nhất Cộng Ḥa
sụp đỗ. Phạm Ngọc Thảo thăng
chức Đại tá làm Tuỳ Viên báo chí trong Hội
Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Một thời gian sau,
được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Ṭa
đại sứ VNCH ở Hoa Kỳ. 2).
Đảo chánh lần thứ hai năm 1965 Đầu
năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về
nước v́ Nguyễn Khánh muốn bắt Thảo. V́
thế, khi về đến phi trường Tân Sơn
Nhất, Thảo đào nhiệm, bỏ trốn và bí
mật liên lạc với các lực lượng đối
lập để tổ chức đảo chánh. Đảo
chánh với lư do rất quan trọng mà Thảo nắm
được là Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ thỏa
thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào ngày
20-2-1965 . V́ vậy phải đảo chánh lật
Nguyễn Khánh vào ngày 19-2-1965 . Ngày
19-2-1965. Phạm Ngọc Thảo và Tướng Lâm Văn
Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn
Duyệt, đài phát thanh Sài G̣n, bến Bạch Đằng
và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng
Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu. Ngày
20-2-1965. Hội Đồng các tướng lănh họp
tại Biên Ḥa, các tướng cử Nguyễn Chánh Thi
làm chỉ huy chống lại đảo chánh. Nguyễn
Chánh Thi ra lịnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn
Phát và 13 sĩ quan khác phải ra tŕnh diện trong 24
giờ. Ngày
21-2-1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên
Ḥa quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh
và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư
Lệnh QLVNCH. Ngày
22-2-1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu kư
sắc lịnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh
làm Đại sứ lưu động. (Một h́nh
thức trục xuất ra khỏi nước). Ngày
25-2-1965: Nguyễn Khánh rời Việt Nam. Phạm
Ngọc Thảo bỏ trốn. 3).
Bị bắt và qua đời Ngày
11-6-1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và
Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả
quyền lănh đạo quốc gia lại cho Quân đội. Ngày
14-6-1965, Uỷ Ban Lănh Đạo Quốc Gia được
thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm
Chủ tịch. Phạm
Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí
mật. Thảo cho xuất bản tờ báo Việt
Tiến mỗi ngày phát hành 50,000 tờ, tuyên truyền
tinh thần yêu nước chống Mỹ và Thiệu. Phạm
Ngọc Thảo có một hàng rào bảo vệ rộng
lớn từ các Xứ Đạo Biên Ḥa, Hố Nai,
Thủ Đức, Saigon. Có nhiều linh mục giúp
đở in ấn và phát hành. Chính quyền
Thiệu-Kỳ kết án tử h́nh và treo giải thưởng
3 triệu đồng cho ai bắt được
Phạm Ngọc Thảo. Vơ
Văn Kiệt (Sáu Dân) kể lại“Tôi thấy
Thảo gặp khó khăn nên đi t́m anh để
đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn c̣n
khả năng đảo chánh để ngăn chận
việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn
chinh vào miền Nam”. (Vơ Văn Kiệt) Lâm
Văn Phát ra tŕnh diện và chỉ bị cách chức. Phạm
Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối
cùng bị bắt tại Đan Viện Phước Lư,
xă Vĩnh Thạnh, quận Nhơn Trạch, Biên Ḥa. Lúc
3 giờ sáng ngày 16-7-1965, Thảo vừa ra khỏi Đan
Viện Phước Lư th́ bị An ninh Quân Đội
phục kích bắt và đưa về một con
suối nhỏ gần Biên Ḥa để thủ tiêu
một cách bí mật, là đâm 19 lát dao. Thảo
nằm bất tỉnh và sáng sớm hôm sau, người
dân phát hiện và đưa tới Linh mục Cường,
cha Tuyên Uư của Ḍng Nữ Tu Đa Minh cứu
chữa. Sau
đó Thảo bị phát giác, bị đưa về
Cục An Ninh QĐ đường Nguyễn Bĩnh Khiêm.
Thảo bị tra tấn cho đến chết vào đêm
17-7-1965. 43 tuổi. Theo
Larry Berman trong cuốn ”The Perfect Spy” th́ Tổng
thống Thiệu ra lịnh tra tấn và hành hạ
Thảo cho thật đau đớn bằng cách dùng
một cái tḥng lọng bằng da, buộc quanh cổ và
một cái khác th́ siết mạnh nơi tinh hoàn. Cũng
có tin nói rằng Đại uư Hùng Sùi bóp dái Thảo
cho đến chết. Phạm
Ngọc Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy
học. Tất cả sinh sống ở Hoa Kỳ. Phạm
Ngọc Thảo là một điệp viên đơn
tuyến. Không có thượng cấp và thuộc
cấp. Không thu thập tin tức mà chỉ tác động
vào chính quyền. Nhà
nước CSVN truy tặng Thảo danh hiệu Liệt sĩ
và quân hàm Đại tá QĐNDVN. Cũng
có nguồn tin cho rằng Phạm Ngọc Thảo là
một gián điệp nhị trùng, nghĩa là làm
việc cho CIA nữa. 8*.
Diễn tiến h́nh thành cụm t́nh báo Việt
Cộng A.22 trong Dinh Độc Lập. Cụm
t́nh báo A.22 trong Dinh Độc Lập gồm có: Vũ
Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy,
Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Ḥe, Nguyễn Xuân
Đồng và những người liên hệ bên ngoài.
Vũ Ngọc Nhạ là nhân vật then chốt trong
cụm A.22. 8.1.
Vũ Ngọc Nhạ 1).
Lư lịch
Vũ
Ngọc Nhạ xuống tàu di cư. Thiếu tướng
Vũ Ngọc Nhạ Tên
thật là Vũ Xuân Nhă, sinh ngày 30-3-1928 tại tỉnh
Thái B́nh. Được kết nạp vào đảng
CSVN năm 1947. Vũ Ngọc Nhạ c̣n nhiều cái tên
khác nữa như Pierre Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh),
Vũ Đ́nh Long (Hai Long) bí danh Lê Quang Kép, Thầy
Bốn, “Ông Cố Vấn”. 2).
Hoạt động Năm
1955. Xuống tàu di cư vào Nam. Vũ
Ngọc Nhạ cùng một số điệp viên khác trà
trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Nhạ cùng
vợ và con gái xuống tàu Hải Quân Pháp cùng hàng
triệu người Công giáo di cư vào Nam. -
Làm thư kư đánh máy ở Bộ Công Chánh. Chinh
phục được cảm t́nh của Linh mục Hoàng
Quỳnh và trở thành “Người giúp việc”
của Giám mục Lê Hữu Từ. Năm
1958. Tháng 12 năm 1958, Nhạ bị Đoàn Công Tác
Đặc Biệt Miền Trung của Dương Văn
Hiếu bắt giữ, và giam tại trại Ṭa Khâm
(Huế) để chờ điều tra xác minh. Linh
mục Hoàng Quỳnh can thiệp cho nên Nhạ được
thả ra. 3).
Người Giúp Việc của Đức Cha Lê Hữu
Từ Một
khuyết điểm lớn của Đoàn Công Tác
Đặc Biệt Miền Trung là giam giữ những
nghi can gián điệp chung với nhau tại trại Ṭa
Khâm. Chính ở đó, Vũ Ngọc Nhạ đă móc
nối với các “cơ sở” (những cá nhân) t́nh
báo khác, đặc biệt là trùm t́nh báo VC Mười
Hương. 4).
Tạo dựng niềm tin đối với Ngô Đ́nh
Cẩn. Năm
1959, Vũ Ngọc Nhạ làm tờ tŕnh “Bốn Nguy Cơ
Đe Doạ Chế Độ” được sự
chú ư của Ngô Đ́nh Cẩn và sau đó, của ông
Nhu, ông Diệm. Do sự dự đoán chính xác về
cuộc đảo chánh 11-11-1960 của tướng
Nguyễn Chánh Thi, anh em ông Diệm đă chú ư đến
và tin dùng Vũ Ngọc Nhạ. Nhờ
danh nghĩa “Người Giúp Việc” của Đức
Cha Lê Hữu Từ mà Nhạ được xử
dụng như là Người Liên Lạc giữa anh em
Họ Ngô và giới Công Giáo di cư. Nhờ đó,
Nhạ thu thập được nhiều tin tức t́nh
báo có giá trị. Từ đó, Nhạ có biệt danh là
“Ông Cố Vấn”. 9*
Xây dựng Cụm T́nh Báo Chiến Lược A.22 Sau
đảo chánh 1-11-1963, thế lực Công giáo phát
triển mạnh dưới tay của Linh mục Hoàng
Quỳnh. Cuối
năm 1965, sự tranh giành quyền lực trong “nhóm tướng
trẻ”, do sự giới thiệu của LM Hoàng
Quỳnh, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đă
xử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai tṛ liên
lạc giữa tướng Thiệu và Khối Công giáo.
Nhạ đă khéo léo lợi dụng vai tṛ đó để
tạo ảnh hưởng đến các chính trị
gia dân sự và quân sự. Năm
1967- Sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc
cử Tổng thống, cấp trên nhận thấy
cần thiết phải mở rộng mạng lưới
t́nh báo, thành lập Cụm A.22. (A.22 là mật danh
của Vũ Ngọc Nhạ) Cụm
do Nguyễn Văn Lê làm cụm trưởng, Nhạ làm
Cụm Phó trực tiếp phụ trách mạng lưới.
Toàn bộ Cụm A.22 được đặt dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của
Nguyễn Đức Trí, chỉ huy phó T́nh Báo Quân
Sự ở miền Nam. Bắt
đầu, Cụm A.22 “phát triển” thêm Nguyễn Xuân
Hoè, Vũ Hữu Ruật đều là những điệp
viên mà Nhạ đă bắt liên lạc trong khi bị
giam chung tại Ṭa Khâm. Sau đó, thu nhận thêm
Nguyễn Xuân Đồng và quan trọng nhất là vào
đầu năm 1967, bổ sung thêm Lê Hữu Thuư (hay
Thắng) mật danh là A.25. 10*
Nói thêm về Đoàn Công Tác Đặc Biệt
Miền Trung 10.1. Về tổ chức Là
cơ quan t́nh báo, phản gián của Ngô Đ́nh
Cẩn do Dương Văn Hiếu chỉ huy và
Nguyễn Tư Thái làm phụ tá về hành chánh.
Nguyễn Tư Thái có biệt hiệu là Thái Đen, Đoàn
được thành lập năm 1957 với mục
đích là “Cải tạo và xử dụng các cán
bộ cựu kháng chiến”. Trụ sở đặt
tại Trại Lê Văn Duyệt, gần Biệt Khu
Thủ Đô. Đoàn
có 8 nhân viên, gồm có hai thư kư đánh máy,
được coi như trực thuộc Ty Công An
Thừa Thiên và thành phố Huế. Dương Văn
Hiếu cho biết : “Tôi làm việc gần với ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng th́ Tổng thống Diệm gọi tôi và Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc tŕnh cho ông Ngô Đ́nh Cẩn mà thôi”. 10.2.
Những gián điệp Việt Cộng gộc bị
bắt.
Trần
Quốc Hương Đoàn
công tác nầy có những thành công đặc biệt,
đă từng bắt giữ những cán bộ t́nh báo
gộc của Việt Cộng như: Mười Hương
(tháng 6, 1958), Vũ Ngọc Nhạ (tháng 12, 1958), Lê
Hữu Thúy (năm 1959), Nguyễn Văn Nghiệp (1960),
đại tá Lê Câu (1961). Lê Câu là chỉ huy quân báo
Việt Cộng ở miền Nam. Sau vụ lật đổ tổng thống Diệm, đoàn công tác nầy bị giải tán, Dương Văn Hiếu bị điều tra và kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo. 10.3. Phương pháp thẩm vấn đặc biệt của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung Dương
Văn Hiếu, trưởng Đoàn Công Tác Đặc
Biệt Miền Trung (ĐCT/ĐB/MT) cho biết: “Trong
các nhà tù không song sắt, công an, mật vụ ăn
ở, học tập, chơi và sinh hoạt chung với
những cán bộ Việt Cộng bị sa lưới.
Các toán trưởng thu thập những lời khai
của các cán bộ VC, nạp cho Ban Cải Tạo. Khi
phát hiện những VC nằm vùng chúng tôi không bắt
công khai, mà tổ chức bắt bí mật. Giữ kín
hoàn toàn các cá nhân đầu hàng hay hợp tác. Đoàn
của tôi tạo nên một màng lưới phục kích,
bao vây từ những đường dây giao liên và các
cơ sở cũ. Khi
bị bắt về, thay v́ hỏi cung thông thường,
chúng tôi áp dụng biện pháp mạn đàm, trao đổi,
tranh luận cởi mở với các đối tượng.
Nếu cần, mua chuộc dụ dỗ chuyển hướng. Đối
với những cán bộ VC ngoan cố chúng tôi xử
dụng tập thể cải tạo để khuyên nhũ,
lôi cuốn hoặc tấn công tranh luận bằng xa luân
chiến, tranh luận áp đảo đối với các
thắc mắc và các phản ứng của những người
bị bắt. Tuyệt đối không có tra khảo hay
chửi bới… Với phương pháp nầy Đoàn đă phá hai màng lưới t́nh báo chiến lược và quân báo VC từ Bến Hải đến Sài G̣n”. Mười
Hương đă được Hội Đồng Quân
Nhân Cách Mạng phóng thích vào tháng 5 năm 1964. 11*.
Thành công của Cụm T́nh Báo A.22 Thành
công của Cụm A.22 là cài được một
điệp viên dưới quyền của Lê Hữu
Thuư là Huỳnh Văn Trọng làm “Cố Vấn” cho
tổng thống Thiệu. Chính
Huỳnh Văn Trọng đă cầm đầu một
phái đoàn VNCH sang HK, tiếp xúc, gặp gỡ hàng
loạt các tổ chức, các cá nhân trong chính phủ và
chính giới HK, để thăm ḍ thái độ
của chính phủ Johnson đối với cuộc
chiến ở VN. Huỳnh Văn Trọng thu thập
được nhiều tin tức t́nh báo chiến lược. 12*.
Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo 12.1.
CIA phát hiện cụm t́nh báo A-22 trong Dinh Độc
Lập CIA
nhanh chóng phát hiện điều bất thường là
sự tập hợp của các cá nhân là những
bị can đă bị bắt giam ở Ṭa Khâm. Giữa
năm 1968. Hồ sơ các cựu tù nhân ở Ṭa Khâm
được mở lại. Do tính phức tạp trong
ngành điệp báo, CIA phải mất một năm
mới hoàn tất hồ sơ, và chuyển giao cho
Tổng Nha Cảnh Sát QG VNCH. Vào
trung tuần tháng 7 năm 1969, một đơn vị
đặc biệt có mật danh là S2/B được
thành lập để tiến hành bắt giữ
hầu hết những người của Cụm A.22. Toàn
bộ điệp v: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuư,
Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Nguyễn Xuân
Đồng, Huỳnh Văn Trọng, và hầu hết
những gián điệp khác, kể cả giao liên là bà
Cả Nhiễm cũng bị bắt. Riêng
cụm trưởng Nguyễn Văn Lê kịp thời
trốn thoát. Cụm
t́nh báo A.22 bị phá vở hoàn toàn. Chính
quyền Sài G̣n rung động v́ 42 gián điệp
từ cơ quan đầu nảo là Phủ tổng
thống cho đến các cơ quan khác, nhất là
một “Cố vấn” của tổng thống đă
bị bắt. 12.2.
Biến vụ án gián điệp thành vụ án chính
trị
Bút
tích của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
viết cho Vũ Ngọc Nhạ (…Tôi
nhờ anh chuyển lời cám ơn Cha và những người
bạn Mỹ đă giúp đỡ chúng ta rất
nhiều…) Đây
là vụ án gián điệp lớn nhất lịch
sử. Các bị can đều khai, nhất cử
nhất động của họ đều là thi hành
chỉ thị, là do sự uỷ thác, do lịnh của
tổng thống, của các tổng trưởng,
nghị sĩ, dân biểu và do cả CIA nữa. Ṭa
án Quân Sự Mặt Trận Lưu Động Vùng 3 CT
bối rối v́ không có thể gởi trác đ̣i
những nhân chứng như tổng thống ra hầu ṭa
để đối chất. Do
không có đủ yếu tố để buộc
tội tử h́nh, cho nên ṭa tuyên án: -
Chung thân khổ sai: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu
Thuư, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hoè. -
Án từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai cho
những bị can c̣n lại. Khi
quân cảnh dẫn các tù nhân ra xe bít bùng, th́ Vũ
Ngọc Nhạ quay sang nhóm kư giả ngoại quốc và
thân nhân, nói lớn “Tôi gởi lời thăm ông
Thiệu”. 12.3.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng CIA
dàn cảnh Một
bất ngờ của vụ án là TT Thiệu không tin
đó là sự thật mà cho là CIA đă dàn cảnh.
Do đó, thời gian Vũ Ngọc Nhạ bị đày
ở Côn Đảo th́ TT Thiệu đă triệu
hồi viên tỉnh trưởng Côn Sơn về Sài G̣n
và thay thế vào đó một người thân tín
của ḿnh để có điều kiện chăm sóc
cho Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng như
là những thượng khách. V́ thế, Vũ Ngọc
Nhạ đă đánh giá: ”Đó là một cuộc
dạo chơi trên Thiên Đàng”. 12.4.
Tiếp tục hoạt động Đầu
năm 1973, Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn
Trọng được đưa về khám Chí Ḥa, Sài
G̣n. Trong thời gian ở Chí Ḥa, nhờ sự giúp
đỡ của LM Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ
móc nối, bắt bắt liên lạc với nhóm “Thành
Phần Thứ 3″ của Dương Văn Minh. Ngày
23-7-1973. Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc
Nhạ cho Mặt Trận DTGP/MNVN với danh xưng là
“Linh mục Giải Phóng”. Năm
1974, Vũ Ngọc Nhạ được CSBV phong Trung tá
QĐNDVN. Tháng 4, 1974, Vũ Ngọc Nhạ trở về
Củ Chi, hoạt động bí mật mục đích
xây dựng lại Cụm T́nh báo chiến lược,
móc nối với Thành phần thứ 3 và khối Công
giáo . Ngày
30-4-1975- Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Độc
Lập bên cạnh tướng Dương Văn Minh. 12.5.
Vũ Ngọc Nhạ bị thất sủng Ngày
30-4-1975 thân phận của Vũ Ngọc Nhạ vẫn
chưa được xác nhận. Năm
1976. Vũ Ngọc Nhạ được điều
về Cục 2 Bộ Quốc Pḥng với quân hàm Thượng
tá. Năm
1981- Được thăng Đại tá nhưng
vẫn c̣n ngồi chơi xơi nước. Hàng ngày
đọc các tin tức báo chí, tổng hợp lại
rồi tŕnh lên thượng cấp, Phạm Văn
Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh. Năm
1987- Tác giả Hữu Mai xuất bản cuốn
tiểu thuyết “Ông Cố Vấn, Hồ Sơ
Một Điệp Viên” ca ngợi thành tích t́nh báo
của Vũ Ngọc Nhạ. Công chúng đă biết
đến và Nhạ được phong Thiếu Tướng. Vũ
Ngọc Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Sài G̣n, 75
tuổi. Phần mộ của Nhạ nằm chung
với các phần mộ của các điệp viên khác
như Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức
và Phạm Ngọc Thảo. 13*.
Kết luận Việt
Cộng nằm vùng th́ thời nào cũng có, ở
đâu cũng có. Bọn phản bội, ăn cơm
quốc gia thờ ma Cộng Sản như cái đám dân
biểu Đinh Văn Đệ, Nguyễn Văn Hàm,
Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu…bà Ngô Bá Thành,
Tôn Nữ Thị Ninh… Đa số ham danh, nhẹ
dạ dễ bị lừa gạt, trót lên lưng
cọp nên phải cởi cọp. Những
người c̣n một chút xíu lương tri và liêm
sỉ th́, trước khi chết, thốt lên vài
tiếng ăn năn như Trương Như Tảng,
bác sĩ Dương Huỳnh Hoa. Nguyễn Hộ, Lê
Hiếu Đằng…và ngay cả thiếu tướng
t́nh báo Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn, trối trăn
trước khi chết là “Đừng chôn tôi gần
những người Cộng Sản. Trúc
Giang Minnesota ngày 25-6-2021 |