Đường phố đã lên
đèn. Sài Gòn ‘đêm ba mươi’ thật
nhộn nhịp. Người người tưng
bừng đón giao thừa, chào đón
ngày đầu Xuân.
Sáng sớm ngày mùng một Tết
Ất Mão (nhằm ngày 11/2/1975), Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm hướng dẫn Nội
các đến Dinh Độc Lập chúc tết
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Tuy bối cảnh của thời điểm
ấy thật là khó khăn - với
tình hình kinh tế ảm đạm và chiến
trường sôi động, mọi người
vẫn cố gắng quên đi những lo lắng
để chúc nhau sức khỏe và may mắn
trong năm mới.
Mà may mắn thật. Ngay buổi trưa
hôm ấy đã có một tin thật vui. Sự
kiện mà mọi người chờ mong bao
nhiêu lâu nay thì bây giờ đã đến.
Đài phát thanh bất chợt ngắt
chương trình ca hát mừng Xuân để
loan một tin nóng:
"Hãng
Mobil khoan dầu ngoài khơi cho biết: ngày
11/2/1975 đã thực sự thu được
lượng dầu với sản lượng
là 430 thùng một ngày và 5.600 mét khối
khí đốt."
Từ mùa Hè 1974, báo chí
đã luôn luôn đăng tải những tin tức
khả quan về dầu lửa ở thềm
lục địa. Dư luận xôn xao, nhưng chưa
ai trông thấy dầu, trừ một lượng
rất nhỏ. Văn phòng Tổng thống đã
yêu cầu hãng dầu gửi về Sài
Gòn một thùng dầu thô và được
đưa đến Biên Hòa.
Ngày Chiến sĩ Trận vong (3/11/1974),
lúc sương mù vẫn c̣n lăng đăng trên đồi
Nghĩa trang Quân đội, toàn thể nội các và nhân
viên Văn pḥng Tổng thống đă có mặt. Nghi
lễ đặt ṿng hoa bắt đầu, TT Thiệu
châm lửa vào một vạc dầu lớn để
ngay trước đài tưởng niệm.
Lửa bốc cháy sáng rực, át đi
cả ánh b́nh minh lúc vừa hé rạng. Ban Quân nhạc
chầm chậm cử bài Chiêu hồn tử sĩ,
mọi người chắp tay vái lạy, cầu xin hương
hồn các chiến sĩ anh hùng phù hộ cho đất
nước trong giờ phút hiểm nghèo này.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu châm lửa vào vạc
dầu đầu tiên để phúng viếng
Đó là ngày ‘Chiến sĩ Trận vong’
cuối cùng của VNCH.
Bây giờ, bản tin của Mobil Oil giống
như một món quà đầu Xuân chợt
được gửi đến, mọi người
lại vui vẻ ăn Tết mặc dù tình
hình chiến sự đen tối. Người
vui nhất có lẽ là TT Thiệu. Vài
ngày sau Tết, ông gọi tôi vào Dinh Độc
Lập để hàn huyên. Nhìn thấy nụ
cười hiếm hoi, tôi chia sẻ được
tâm tư của người lãnh đạo miền
Nam. Biết đâu, biết đâu đấy, Trời
đã gửi đến một tia sáng
ở cuối đường hầm. Rồi
ông nói: “Anh đi với tôi ra thăm giàn
khoan xem sao.”
Chỉ ba tuần trước, sau
khi Phước Long thất thủ, ông đã
phải viết hai lá thư liên tục (ngày 14
và 15 tháng 1/1975) cho Tổng thống Mỹ Gerald
Ford mô tả tình trạng co cụm của người
quân nhân VNCH và yêu cầu tiếp viện. Trong thư
có câu:
“Cường
độ tấn công mãnh liệt của quân
đội Bắc Việt, yểm trợ bằng
hỏa lực và thiết giáp ồ
ạt.” Và
ngược lại, “quân
đội VNCH phải đếm từng viên đạn
khi bắn để cầm cự
được lâu hơn.”
Nhưng cả hai thư đều không
có hồi âm (như được ghi lại về
trận chiến Phước Long trong cuốn
sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8
thủ đoạn nham hiểm – được xuất
bản nay mai).
Tổng
thống Thiệu đi thăm giàn khoan
Mấy hôm sau, Việt Tấn Xă loan tin:
"Hôm
nay, 15 giờ, thứ hai, ngày 24-2-1975, tổng thống
Việt Nam Cộng ḥa Nguyễn Văn Thiệu đă
rời Sài G̣n đi quan sát giếng dầu Bạch
Hổ-1X khoan cách Sài G̣n chừng 200 cây số về hướng
đông nam trên thềm lục địa Việt Nam... Cùng
tham dự với tổng thống hôm nay có thủ tướng
chính phủ Trần Thiện Khiêm, ông tổng trưởng
kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng, ông tổng
cuộc trưởng Dầu hỏa và khoáng sản
Trần Văn Khởi và ông tổng giám đốc
Mobil Vietnam Peter Gelpke."
Tin tức từ Việt Tấn
Xã được phổ biến rộng
rãi. Thấy vậy, ngoài chiến trường,
những người quân nhân trong hoàn
cảnh cùng cực đã phấn khởi:
“Người
chiến sĩ mắt sáng ngời nghe tin xuân
đang về ngàn nơi.” (‘Mộng đêm Xuân’
- Tuấn Khanh).
Trên chuyến trực thăng bay ra khơi, xa
xa khi nh́n thấy ngọn lửa cháy sáng rực trên ṿm
trời từ giàn khoan, vẻ mặt ông Thiệu tươi
hẳn lên, ông nh́n thật chăm chú. “Bao giờ th́
mới thực sự có dầu,” ông quay lại
hỏi. Tôi trả lời là theo Bộ Kinh tế ước
tính dựa trên những thông tin của các hăng th́
muộn lắm là tới cuối 1977.
Trên giàn khoan, khi chuyên gia tŕnh bày về
khả năng sản xuất, ông Thiệu lắng nghe
mọi chi tiết. Chuyên gia kết luận rằng
nếu có thêm sự khuyến khích (incentive) th́ hăng có
thể cố gắng để đào nhanh hơn.
Trên chuyến bay về Sài Gòn, ông hỏi:
“Khuyến khích làm sao để họ có thể
xuất cảng thất nhanh?” Tôi trình bầy vắn
gọn là có thể xem xét lại hợp đồng
rồi cho họ chia phần cao hơn, hoặc dùng
những điều quy định về thuế má
để cho họ ưu đăi khi bắt đầu
xuất cảng dầu. Ngoài ra còn có thể
quy định thời gian khai thác kéo dài
hơn là theo hợp đồng họ đã
ký. Ông Thiệu đồng ư ngay: “Được
chứ, được chứ.”
Trở
về Bộ Kế hoạch, chúng tôi t́m hiểu sâu hơn
về hồ sơ của những vị tiền
nhiệm.
·
5
điều cần biết về ngành dầu khí Việt
Nam24 tháng 8 năm 2017
·
Hai
mỏ khí đốt trên Biển Đông của VN góp
phần phá vỡ thỏa thuận khí hậu Paris?9
tháng 8 năm 2023
·
Biển
Đông: VN theo sát tàu TQ gần mỏ dầu do Nga khai thác
trong EEZ28 tháng 3 năm
2023
·
Hành
trình đi tim dầu lửa
Ngay từ cuối thập niên
1960, những tin tức thăm dò đã
cho thấy thực sự có túi dầu
lửa ở ngoài khơi. Cho dù không bằng
túi dầu của Indonesia, một nước trong
khối OPEC, dự trữ dầu lửa và
dầu khí ở thềm lục địa miền
Nam nằm trong một vùng rộng 500.000 cây số vuông
thì không phải là nhỏ.
Trước hết là
phải có một bộ luật về dầu lửa.
Vì miền Nam chưa có kinh nghiệm nên đã
nhờ Iran giúp đỡ. Iran dưới
thời Quốc vương Mohammad Reza Shah thì rất
gần gũi với VNCH cho nên đã đồng
ý ngay. Như kỹ sư Trần Văn Khởi,
Tổng Giám đốc Ủy ban Quốc gia Dầu
hỏa (UBQGDH), đã ghi lại trong bài “Những
hợp đồng tìm dầu đầu tiên
ở Việt Nam” (Tập san Việt học, Năm
Nhâm Thìn 2022):
“Đầu mùa Xuân năm 1971, các
chuyên viên của National Iranian Oil Company (NIOC) đến
Saigon và làm việc với chuyên viên của UBQGDH… Trong
ba tuần lễ, các chuyên viên Iran đă kể cho chúng
tôi nghe nguồn gốc và tiến hóa của chế
độ đặc nhượng dầu hỏa ở
Trung Đông. Họ tŕnh bày chi tiết những tranh
chấp với các công ty dầu, ngay từ những năm
đầu khởi công, tiếp tục qua việc thành
lập OPEC năm 1960 (Organization of Petroleum Exporting Countries)
mà Tổng trưởng Jamshid Amouzegar của Iran là
một người đề xướng thành lập.
Nghe chuyện dầu khí họ kể thấy c̣n hấp
dẫn hơn là truyện Ngàn lẻ một đêm.
Họ thẳng thắn trả lời các câu hỏi
của chúng tôi, không tỏ vẻ dấu
giếm chuyện ǵ cả.
Họ giúp soạn thảo một
Hợp đồng đặc nhượng mẫu (Model
Concession Agreement) để cùng với Luật Dầu
hỏa và các sắc lệnh, nghị định liên
hệ sẽ làm căn bản cho hồ sơ gọi
thầu quốc tế. Chúng tôi thảo luận ngày này
qua ngày kia cách thức và thủ tục gọi thầu,
và những đề mục (bid items) của đề
cung (offer), sao cho phản ảnh đúng những ưu tiên
VNCH nhắm trong công cuộc t́m dầu, và sao cho
việc thẩm lượng, so sánh các đề cung
được dễ dàng, minh bạch, tránh mâu
thuẫn và mơ hồ…
Việc giúp đỡ của các
chuyên viên Iran thực sự đă rất hữu
hiệu và bổ ích, (i) cho chúng tôi những bài học
sâu rộng về kỹ nghệ dầu khí và tương
quan với công ty dầu, (ii) soạn thảo một
hợp đồng mẫu tiến bộ và đầy
đủ, (iii) đúc kết những thủ tục
gọi thầu và chọn lựa đề mục đề
cung, sau này giúp việc gọi thầu và chọn
thầu được suôn sẻ, nhanh chóng; (iv) xác
nhận tiềm năng dầu khí sáng sủa ở ngoài
khơi, và (v) đă làm hết thảy công việc
đó nhanh chóng vào đúng lúc ḿnh cần.”
Ban hành luật số 011/70
Luật Dầu hỏa VNCH được TT Thiệu
kư và ban hành. Theo đó, thời gian các công ty t́m
kiếm dầu được quy định là
5 năm, có thể gia hạn thêm 5 năm; riêng thời
gian sản xuất là 30 năm, có thể gia hạn thêm
10 năm. Đạo luật quy định cụ
thể diện tích đặc nhượng t́m kiếm
dầu hỏa, được chia thành từng nhượng
địa, gọi là “lô.” Mỗi nhượng địa
không quá 20.000 km2. Mỗi công ty không được
cấp quá 5 nhượng địa, tức không quá
100.000 km2.
Quy định này là khôn ngoan vì giúp có
nhiều công ty cạnh tranh với nhau cũng như tránh
dẫn đến t́nh trạng ngành dầu hỏa
quốc gia phải phụ thuộc quá nhiều vào
sự độc quyền của một công ty quốc
tế.
Tới tháng 6/1971, Tổng trưởng Kinh tế
Phạm Kim Ngọc công bố sẽ cấp quyền
đặc nhượng t́m kiếm, thăm ḍ và khai thác
dầu mỏ tại thềm lục địa với
thể thức đấu thầu.
Toàn bộ vùng này nằm trong thềm lục địa
miền Nam Việt Nam, được chia thành 61 nhượng
địa, tức 61 lô. Trong đó 60 nhượng địa
có diện tích tương đối bằng nhau, riêng
nhượng địa thứ 61 rộng hơn với
tổng diện tích khoảng 300.000km2.
Kết quả đo đạc địa vật lư năm
1970 của Công ty Ray Geophycical Madrel trên thềm lục
địa miền Nam Việt Nam để làm cơ
sở cho các công ty đấu thầu.
Những bước tiến về nỗ lực thăm
ḍ, khai thác dầu hỏa của VNCH được
đánh giá là rất nhanh chóng so với các nước
khác (với thời gian thăm dò kéo
dài tới 10 năm).
Năm 1973, vừa hô lên đă có bao nhiêu hăng dầu
quốc tế nhảy vào, bất chấp là t́nh h́nh an
ninh chưa ổn định. Hai ṿng đấu thầu
năm đó cũng đă mang lại được 17
triệu đôla. Giá trị về tâm lư của số
tiền này c̣n lớn hơn gấp mấy lần. Năm
1974, người kế nhiệm ông Ngọc là
Nguyễn Đức Cường, Tổng trưởng
Thương mại và Kỹ nghệ, lại thu
được trên 30 triệu đôla do các
hãng dầu nộp thêm. Đây là số tiền
tuy nhỏ nhoi nhưng thật quý giá vào
lúc đó, khi dự trữ của Ngân
hàng Quốc gia VN chẳng còn bao nhiêu.
Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công
ty dầu lửa được khai thác 13 địa
điểm trong một khu vực 82.000 cây số vuông.
Đó mới chỉ là 16,4% của thềm lục địa.
VNCH phân lô cho những hãng
trúng thầu
Vết sáng trên bầu trời
ảm đạm
Mùa Hè 1974, giữa bối cảnh lạm
phát phi mã và những tin tức bi
đát về viện trợ, lại có những
tin vui được loan đi liên tục. Các hăng
thăm ḍ dầu lửa báo cáo đă thực sự t́m
thấy dầu trên thềm lục địa. Ngày
17/8/1974, hăng Pecten đào được dầu ở lô
08-TLD, đặt tên là HỒNG-1X.
Kết quả cho thấy có dầu dưới độ
sâu 1.374 mét. Rồi giếng thứ hai, DỪA 1-X, trong cùng
một diện tích lại t́m được khả năng
dầu thô và dầu khí c̣n cao hơn. Thử nghiệm
cho thấy tất cả có hai nguồn: mỗi nguồn
có khả năng khai thác ngay 1.514 thùng dầu thô
mỗi ngày và 5,8 triệu thước khối (cubic feet)
dầu khí.
Tới tháng 10/1974, hăng Mobil khoan giàn BẠCH HỔ 1
(White Tiger), tại lô 04-TLD, xác định là thực
sự có "lượng dầu quan
trọng" dưới độ sâu trên 2,7 cây số
(9.000 feet).
Rồi Bạch Hổ tiếp tục thử nghiệm
ở độ sâu trên 9.000 feet cho thấy khả năng
của túi dầu có thể khai thác là
2.400 thùng dầu thô (3.400 lít) và 25.000 thước khối
dầu khí một ngày.
Hăng Marathon và Union Texas quyết định khoan giếng
đầu tiên vào cuối 1974.
Một sự trùng hợp lạ lùng: hai
hăng Esso và Sunningdale có kế hoạch khoan dầu –
lại đự định đào dầu vào chính
ngày 30 tháng Tư 1975.
Dựa trên báo cáo của các hăng t́m dầu, khả năng
xuất cảng được ước
tình là vào năm 1977 VNCH sẽ có thể
xuất cảng dầu lửa từ 6 giàn khoan với
số tiền là 1 tỷ USD mỗi năm - với giá
dầu thô (vào lúc ấy) chỉ là 12 USD mỗi thùng.
Như vậy là ông Trời đă gửi đến
một v́ sao cứu tinh? Đang khi xoay xở chỉ có
300 triệu đôla để mua xăng nhớt,
tiếp liệu mà cũng không thành công, bây giờ
có khả năng là dầu sẽ mang tới cả
tỷ đôla.
Ngoài giá trị vật chất, nó c̣n có một giá
trị tinh thần: số tiền này đă mang đến
một niềm hy vọng – dù chỉ là hy vọng dang
dở - cho cả lănh đạo lẫn người dân
miền Nam.
Khi nộp đơn đấu thấu, dù các công ty chưa
biết có thực sự đào được dầu
hay không và c̣n phải chi tiêu nhiều tiền cho công
việc t́m kiếm, nhân sự, giàn khoan, mà họ đă
phải nộp tiền trước.
Như vậy là chắc chắn lắm rồi? Miền
Nam có thể nghĩ tới khả năng phát triển
lâu dài và bền vững.
Mỏ
Bạch Hổ ngày nay
Ba điểm đáng lưu ư về dầu khí
Trở lại quá tŕnh t́m kiếm dầu lửa,
chúng tôi xin ghi lại nơi đây 3 điểm đáng
lưu ư:
1. Trong chuyến viếng thăm giàn khoan dầu cùng
với TT Thiệu, các chuyên gia còn cho biết
rằng: Túi dầu lửa lớn của VNCH ở quần
đảo Trường Sa có ăn thông vào với túi
dầu của Indonesia. Như vậy, ta có thể
hỏi liệu Indonesia – một trong những thành viên
của tập đoàn dầu lửa OPEC - đă và
đang khai thác dầu lửa (và dầu khí) của
Việt Nam?
Ảnh chụp vệ tinh đảo Trường Sa
Lớn
2. Mùa Xuân 1975, hăng GSI (Geophysical Service Incorporation (GSI)
bắt đầu khảo sát dầu lửa ở vùng
Duyên hải miền Trung lên tới vĩ tuyến 17. Hai
tàu được dùng vào công cuộc khảo sát là
DUNLAP và CECILE GREEN. Hăng GSI đă có kế hoạch bán tài
liệu kỹ thuật về kết quả khảo sát
cho những hăng nào muốn tham gia t́m và đào dầu
ở khu vực này. VNCH cho GSI khảo sát
với điều kiện sẽ phải chia 50% lợi
nhuận thu được cho chính phủ.
3. Có lần chúng tôi được nghe một anh phi công
trực thăng người Pháp nói:
"Theo kinh nghiệm làm việc cho các hăng dầu
lửa nhiều năm, tôi thấy ở nơi nào có
nhiều tôm là có dầu lửa.” Tôi liền hỏi:
“Vậy anh nghĩ Việt Nam có dầu ở đất
liền không?" Anh ta vui vẻ trả lời: |Tôi không
biết rơ, nhưng tôi nghĩ rằng các ông có
dầu lửa ở Đồng bằng Cửu
Long.”
Thực hư không biết, nhưng đầu năm
1975, qua sự giới thiệu của Trung tướng
Đặng Văn Quang (Cố vấn Quân sự
của TT Thiệu), đại diện của một hăng
dầu lửa quốc tế ở Hồng Kông (chúng tôi
không nhớ tên) đă đến Bộ Kế hoạch
để tŕnh bày rằng họ đă t́m thấy
dầu khí ở vùng Đồng bằng Cửu Long.
"Ở đâu?," tôi vội vàng hỏi. "Chúng
tôi không thể trả lời ông được, v́
phải chi phí tốn kém mới có những thông tin này."
Họ đề nghị chính phủ hai điểm:
thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua
thủ tục đấu thầu, thủ tục hành chánh
rườm rà; và thứ hai, khi khai thác và xuất
cảng được dầu thì sẽ chia
đều 50% giữa họ và Chính phủ.
Chúng tôi báo cáo với TT Thiệu và ông chỉ thị
phải xúc tiến ngay.
Tại Bộ Kế hoạch, anh em hết sức
vui mừng. Đặc biệt là Kỹ sư
Nguyễn Kim Cương, nguyên Tổng Giám đốc
Ngân sách Ngoại viện. Vui mừng vì triển
vọng thành công của Kế hoạch Ngũ niên
1976-1980 là trông thấy. Kế hoạch này nhằm
tiến tới tự túc tự cường
và hết còn phải phụ thuộc vào
“viện trợ Mỹ.”
Thế nhưng niềm vui của ngày Tết Ất
Mão đã qua mau. Nó như môt tia sáng
đã lóe lên rồi vụt tắt!
Tới ngày 10/3/1975 thì những tiếng
đại pháo đã vang rền trên bầu trời
Ban Mê Thuột, rồi tới Huế, Đà Nẵng,
Xuân Lộc…
***
Nhìn lại lịch sử, ta thấy ông Trời
đã ban phát cho nhân dân Việt Nam một
tài nguyên lớn lao. “Tiền rừng”
thì chẳng có là bao, nhưng “bạc biển”
thì cất kỹ ở ngay ngoài khơi.
Những thành công ban đầu của VNCH đã dẫn
đến sự phát triển mạnh mẽ
của ngành dầu lửa và dầu khí của Việt
Nam ngày nay. Và mỏ dầu Bạch Hổ vẫn
tiếp tục đóng vai chủ lực. Trong những
thập niên qua, xuất cảng dầu lửa
và dầu khí đã mang tới cả trăm
tỷ đôla. Theo Statistica Reseach thì năm 2012,
trị giá xuất cảng dầu đã lên tới
8,3 tỷ USD (cao nhất).
Ấy là chưa kể túi dầu ở Trường
Sa Lớn. Nếu như thông tin của chuyên gia
Mobil Oil về túi dầu của VN ăn thông với
những mỏ dầu của Indonesia (như đề
cập trên đây) là chính xác thì thật
là thiệt tḥi cho Việt Nam trong bao nhiêu năm
qua.
Ngày Tết Giáp Thìn, chúng ta cầu mong
cho tiềm năng dầu lửa ở Trường
Sa sẽ mãi mãi thuộc về sở hữu
của người dân Việt.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng
của tác giả, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng,
cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm
1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định
cư tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản các
cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi
Đồng minh nhảy vào (2016).
|