Việt Nam: Biển Đông và Chủ Quyền

(Phần tŕnh bày trong Đại Hội Chuyên Gia Việt Nam Âu Châu tại Bỉ Quốc từ 22-23.11.2014 

của KS Nguyễn Văn Phảy)

Độc giả có thể chọn mục nào sau đây để xem:

1) Trung Cộng và biển Đông:
1.1)
Lai lịch đường lưỡi ḅ c̣n gọi là lưỡi rồng hay chữ U
1.2) Hành động xâm lược của TC

1.3) Một số phản ứng của thế giới đối v
i đường lưi ḅ của TC đơn phương tuyên bố
1.3.1) Tại Đức quốc
1.3.2) Báo chí và truyền thông

2) Lịch sử của Việt Nam về biển Đông:  
2.1) Quần đảo Hoàng Sa
2.2) Quần đảo Trường Sa

3) Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trên b́nh diện quốc tế: 
 3.1) Trung Quốc Khước Từ Chủ Quyền lănh thổ tại Hoàng Sa và Trường Sa trong Tuyên Cáo Cairo 1943
 
3.2) Đồng Minh Không Thừa Nhận Chủ Quyền Lănh Thổ của Trung Quốc tại Hoàng Sa Trường Sa trong Tuyên Ngôn Potsdam 1945  

 
3.3)
Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951 Thừa Nhận Chủ Quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa  
 
3.4) Hiệp Định Geneva 1954 minh thị xác nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lănh thổ của Việt Nam  

4) Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982:  
        4.1) Nội thuỷ và đường cơ sở  
        4.2) Lănh hải
         4.3) Vùng tiếp giáp lănh hải  
        4.4) Vùng đặc quyền kinh tế  
        4.5) Thềm lục địa
        4.6) Thềm lục địa mở rộng  

        4.7) Vùng biển quốc tế

5) Tạm kết:

*****

Trong nhiều năm qua Trung cộng đă ỷ mạnh, muốn chiếm đoạt toàn bộ 80% biển Đông.

Chúng ta hảy cùng nghiên cứu xem những dữ kiện liên quan đến quần đảo Hoàng sa và quần đảo Trường sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ lâu đời trên phương diện pháp lư, địa lư và ngay cả lịch sử.

1) Trung cộng và biển Đông:

1.1) Lai lịch đường lưỡi ḅ c̣n gọi là lưỡi rồng hay chữ U:

Vào năm 1947 Tưởng Giới Thạch (Quốc Dân Đảng Trung Hoa) tự động vẽ đường lưỡi ḅ 11 đoạn. Theo ông Woo cho rằng tuyên bố chủ quyền phi lư này của TQ chưa bao giờ được công nhận bởi bất kỳ quốc gia hay tổ chức quốc tế nào trên thế giới. Vậy mà đến năm 1953, chính quyền CHND Trung Hoa lại tuyên bố “kế thừa” đường 11 đoạn và thay đổi thành đường 9 đoạn, tức “đường lưỡi ḅ” hiện nay.

Đó là yêu sách của Trung cộng đối với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven Biển Đông như Việt Nam, Nam Dương, Mă Lai Á, Brunei, Phi Luật Tân. Đường lưỡi ḅ chỉ cách Quảng Ngăi từ 25 đến 40 hải lư mà thôi.        

Theo nội dung của Công Ước Về Luật Biển của Quốc Tế năm 1982 th́ khi xét về mặt địa lư, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách Quảng Ngăi 135 hải lư, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lư. V́ vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lư cũng là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone – EEZ) 200 hải lư của Việt Nam.

Điều nầy, cho thấy lời tuyên bố đường lưỡi ḅ của TC là một sự vi phạm trắng trợn Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Theo Công Ước nầy th́ vùng biển Đông mà TC đă tuyên bố là thuộc chủ quyền của các quốc gia duyên hải như Việt Nam, Phi Luật Tân và Mă Lai. Các quốc gia nầy được hưởng tối thiểu 200 hải lư Thềm Lục Địa Pháp Lư để thăm ḍ và khai thác dầu khí và hải sản, khoáng sản. Chiếu theo các Điều 77 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, chủ quyền của các quốc gia duyên hải, biển tiếp giáp với đất liền th́ có thềm lục địa với tính cách tuyệt đối và chuyên biệt.

Theo đường lưỡi ḅ mà TC tự tuyên bố, Trung cộng đă tước đoạt 4/5 Thềm Lục Địa Pháp Lư của Việt Nam, đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục Địa Pháp Lư của Phi Luật Tân và Mă Lai.  

1.2) Hành động xâm lược của TC:  

Ở Biển Đông, sau nhiều năm, Trung cộng đă chiếm được nhiều đảo. Ngày 19.1.1974, Trung cộng dùng lực lượng hải quân hùng mạnh để cướp đoạt hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hoà. Ngày 14.3.1988, Trung cộng lại bắn giết 64 bộ đội cộng sản Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, rồi chiếm băi đá Gạc Ma và 5 băi san hô. Đồng thời TC đă bắn ch́m 3 chiến hạm của CSVN. Năm 1995, Trung cộng chiếm băi đá Vành Khăn.

Song vào đó Trung cộng đă thường xuyên tiến hành tập trận quân sự và tuần tra trong khu vực đường 9 đoạn. TC đă tự thiết lập và xây dựng các quân cảng ở Biển Đông. Hiện nay TC đă xây đắp phi trường quân sự ở đảo Gạc Ma nhằm thực hiện ư đồ chiếm toàn bộ biển Đông.

Mới đây vào đầu tháng 5 năm 2014, TC đă đem giàn khoan nỗi HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông, rất gần đảo Tri Tôn. Chúng đă bắn chết nhiều ngư dân VN và làm ch́m nhiều ghe đánh cá của ngư dân VN.

1.3) Một số phản ứng của thế giới đối vời đường lưởi ḅ của TC đơn phương tuyên bố:

Mặc dù Trung cộng trong những năm gần đây đă tự tuyên bố đường lưỡi ḅ ở biển Đông là vùng biển cốt lơi của TC bất khả tương nhượng hay bàn cải, nhưng trong Bản Tường Tŕnh nộp tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc ngày 11- 5-2009, TC chỉ đề cập đến hải phận hay Biển Lịch Sử chứ không vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng (350 hải lư) theo các tiêu chuẩn luật định của Liên Hiệp Quốc đ̣i hỏi.  

Song vào đó, thế giới đă đánh giá những lời tuyên bố của TC về đường lưỏi ḅ 9 đoạn như thế nào, chúng ta hảy t́m hiểu sau đây:

1.3.1) Tại Đức quốc:  

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2014, khi Tập Cận B́nh, Chủ tịch kiêm tổng Bí thư của đảng Cộng sản Trung hoa kiêm chủ tịch quân uỷ trung ương TC viếng thăm nước CHLB Đức quốc đă được Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel tặng cho ông Tập Cận B́nh một bản đồ Trung hoa do nhà bản đồ học Pháp quốc tên là Jean Baptiste Bourguignon d’Anville đă vẽ vào năm 1735, được một nhà xuất bản Đức ấn hành.

Xem bức h́nh do cơ quan DPA Đức quốc công bố chúng ta thấy ngón tay bà Merkel chỉ cho Tập Cận B́nh xem phần dưới đáy của tấm bản đồ chỉ có đảo Hải Nam mà thôi chứ không có quần đảo Hoàng Sa hay quần đảo Trường Sa ǵ cả. 

Trong lục địa, tấm bản đồ cũng chỉ thể hiện phần chính của Trung Quốc với dân số chủ yếu là dân tộc Hán mà không hề có dân tộc Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông hay Măn Châu.  

Thủ tướng CHLB Đức, bà Angela Merkel đang trao đổi ư kiến với Tập Cận B́nh về tấm bản đồ được vẽ năm 1735.

Bản đồ Trung Hoa được vẽ năm 1735.

1.3.2) Báo chí và truyền thông:  

Ngoài ra, trong tấm bản đồ của Trung Quốc xuất bản năm 1904, cực nam của nước này cũng chỉ được ghi rơ là đảo Hải Nam, chứ không hề có Hoàng Sa, Trường Sa.

Tờ Stockstar và trang tin quân sự của Sina đă giới thiệu về nguồn gốc của tấm bản đồ. Tờ báo cũng nói rơ bản đồ này chỉ xác định đảo Hải Nam là điểm cực nam của lănh thổ Trung Quốc. Có nghĩa là các quần đảo ở Biển Đông như Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài lănh thổ Trung Hoa.

Tờ South China Morning Post tờ báo tiếng Anh nổi tiếng ở Hồng Kông đă đăng thư của một độc giả có tên Alex Woo cho rằng “kể từ năm 1935 trở  về trước không có bản đồ Trung Quốc nào thể hiện các quần đảo ở Biển Đông thuộc nước này".

Những tư  liệu bản đồ Trung Quốc in thời cận đại cũng như những năm đầu thế kỷ 20 th́ biên giới TQ cũng chỉ đến đảo Hải Nam mà thôi. Ngay cả trong sách dạy ở bậc tiểu học TQ in năm 1912, biên giới của họ cũng chỉ đến đảo Hải Nam.

Dưới đời Nhà Thanh, trong các thế kỷ từ 17 đến 20, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ do triều đ́nh ấn hành năm 1894, th́ đến cuối thế kỷ 19, lănh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết.

Trong bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đ́nh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và không thấy ghi các danh xưng Hán hóa như Tây Sa, Nam Sa v.v….

Tập Địa Dư Chí Tỉnh Quảng Đông được vua Nhà Thanh duyệt phê năm 1731, cũng không có ghi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lănh thổ Trung Quốc

Song vào đó nhiều nhà hàng hải, nhà truyền bá tôn giáo của tây phương cũng đă vẽ những đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ thế kỷ 17 thuộc An Nam ta ( Việt Nam ngày nay).

Song vào đó, trong những sách lịch sử của Việt Nam ta  từ thế kỷ 17 đă khẳng định chủ quyền của ta đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

2) Lịch sử của Việt Nam về biển Đông:

Xét về lịch sử th́ từ thế kỷ 17 nhiều nhà hoạ đồ thế giới đă vẽ và xác định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc An Nam (Việt Nam ngày nay).

Trước tiên, để minh xác lập trường của chúng ta về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, chúng ta hảy xem Tuyên cáo của VNCH được công báo trước quốc tế năm 1974.

TUYÊN CÁO CỦA CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG H̉A VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM CỘNG H̉A TRÊN NHỮNG ĐẢO Ở NGOÀI KHƠI BỜ BIỂN VIỆT  NAM CỘNG H̉A  

Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết nhất của một chánh phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và sự vẹn toàn lănh thổ của quốc gia. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa cương quyết làm tṛn nghĩa vụ này, bất luận những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ dầu phát xuất từ đâu. Trước việc Trung Cộng trắng trợn xâm chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Ḥa, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa thấy cần phải tuyên cáo long trọng trước công luận thế giới cho bạn cũng như thù biết rơ rằng: Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Chánh Phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Ḥa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực và từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của ḿnh trên những quần đảo ấy. Chừng nào c̣n một ḥn đảo thuộc lănh thổ ấy của Việt Nam Cộng Ḥa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực th́ chừng ấy Chánh Phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Ḥa c̣n tranh đấu để khôi phục những quyền lợi chính đáng của ḿnh. Kẻ xâm chiếm phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi t́nh trạng căng thẳng có thể do đó mà có. Trong dịp này, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa trên những hải đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển Trung phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam, từ trước tới nay vẫn được coi là một phần lănh thổ của Việt Nam Cộng Ḥa căn cứ trên những dữ kiện địa lư, lịch sử, pháp lư và thực tại không chối căi được. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những đảo ấy bằng mọi cách. Trung thành với chánh sách ḥa b́nh cố hữu của ḿnh, Chánh Phủ Việt am Cộng Ḥa sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy, nhưng nhất định không v́ thế mà từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa trên những phần đất này.

Làm tại Saigon, ngày 14 tháng 2 năm 1974  

Sau đây chúng ta hảy nghiên cứu về quần đảo Hoàng sa và quần đảo Trường sa trên phương diện lịch sử:

2.1) Quần đảo Hoàng Sa: (Được viết và trích dẫn từ tài liệu của GS Tiến sĩ Nguyễn Văn Canh)

Danh từ Paracels do một số người Ḥa Lan sử dụng vào cuối thế kỷ 16, từ năm 1595. Có người cho là người Bồ Đào Nha đặt ra, v́ Paracels có nghĩa là đá ngầm. Có người khác lại cho rằng Paracels là tên một chiếc tàu của công ty Ḥa Lan Đông Ấn. Tàu này bị ch́m tại quần đảo này từ thế kỷ XVI.  

Quần đảo này gồm rất nhiều đảo và không đủ rộng cho nên vào thời kỳ đó khó có thể giúp tự sinh tồn được. V́ thế không có người sinh sống thường xuyên. Vào năm 1939, dưới thời chính quyền Pháp bảo hộ, quần đảo được chia ra làm hai nhóm: 

Nhóm phía Đông Bắc gọi là nhóm Tuyên Đức (Amphitrite) c̣n gọi là nhóm An Vĩnh, gồm những đảo như Cù Mộc, Đảo Bắc, Phú Lâm, Linh Côn, Đảo Đá, và nhóm phía Tây Nam nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent), gồm Hoàng Sa, Hữu Nhật, Bạch Qui, Kim Ngân, Tri Tôn, Quang Ánh, Quang Ḥa, Duy Mộng v.v..  

- Năm 1630, trong Toàn Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ (Đỗ Bá), có Bản đồ cổ vẽ vùng Phủ Quảng Ngăi, phủ Thăng Hoa với ghi chú chi tiết: Băi Cát Vàng (là Hoàng Sa).

- Năm 1776, trong Phủ Biên Tạp Lục (Lê quí Đôn) có nói tới các danh xưng Đại Trường Sa, Đại Hoàng Sa, Vạn Lư Trường Sa

- Năm 1821, trong Lịch triều Hiến Chương (Phan huy Chú) nói tới Đội Hoàng Sa đem theo lương thực 6 tháng, sống ở Hoàng Sa lấy nhiều đồ vật quí giá của thuyền mắc cạn....

- Năm 1816, vua Gia Long tới làm lễ long trọng cắm cờ và chính thức giữ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này.

- Năm 1909, Trung Hoa đổ bộ lên đảo Hoàng Sa, bắn 21 phát súng đại bác, cắm cờ Trung Hoa và tuyên bố xâm chiếm toàn bộ các đảo trong vùng. Năm 1921, Tổng đốc Quảng Đông sát nhập Hoàng Sa vào chính quyền Yaihien, Hải Nam. Chính quyền Pháp không có phản ứng nào.

- Từ 1920, Quan Thuế Pháp thường xuyên gửi quan thuyền đến tuần tiễu Hoàng Sa.

- Năm 1925, một phái đoàn khoa học gia do Hải Học Viện Nha Trang gửi ra khảo sát và cho biết quần đảo này nằm trên một cao nguyên ch́m dưới đáy biển và dính liền với lục địa Việt Nam.

- Từ năm 1926 đến 1933, chính phủ Pháp gửi chiến hạm đến thám sát cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa.

- Từ năm 1931 đến 1939, Pháp gửi quân đến trú đóng tại Hoàng Sa

- Năm 1946, Pháp thiết lập đài vô tuyến tại đảo Pattle để bảo đảm an ninh thủy vận cho vùng Biển Đông.

- Năm 1931, Toàn quyền Đông Dương đặt Hoàng Sa thành đơn vị hành chánh, thuộc tỉnh Thừa Thiên - Dụ số10 của Bảo Đại thứ 13 kư ngày 30 tháng 3 năm 1933 đặt Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.  

- Thể hiện bằng hành động của những Triều Đ́nh Việt Nam: Tham chiếu theo bộ sử như Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục th́ triều đ́nh vẫn cử người ra Hoàng Sa đo và vẽ bản đồ. Mọi người đều biết Đại Nam thực lục đă được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới. Mộc bản ở Trung tâm lưu trữ quốc gia 4, c̣n bản sách có ở Viện Hán Nôm, Pháp, Tokyo - Nhật Bản.  

Hàng năm các vua triều Nguyễn đă ra đảo thực hiện chủ quyền. Thành lập đội thuyền Hoàng Sa quản lư quần đảo Hoàng Sa, cho xây miếu lập bia trồng rau đậu. Đội thuyền Hoàng Sa được thành lập từ dân làng An Vĩnh cũng như từ đảo Lư Sơn để hàng năm ra Hoàng Sa.

Ngoài ra c̣n có tư liệu nói rằng tàu buôn Macao (TQ) đă dâng tŕnh bản đồ cho vua Gia Long thể hiện rơ với họ rằng Hoàng Sa là của VN.  

Năm 1938 Nhật chiếm 3 đảo tại Hoàng Sa là Phú Lâm, Lincoln và Hữu Nhật của Việt Nam. Qua năm sau, ngày 30-3-1939, Chính Phủ Đông Kinh ra Tuyên Cáo đ̣i chủ quyền lănh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  

Ngay sau đó, ngày 21-4-1939, Chính Phủ Pháp đă thay mặt Việt Nam và gửi Công Hàm phản kháng hành động xâm lăng phi pháp của Nhật Bản tại Biển Đông Hải, đồng thời công bố chủ quyền lănh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  

Mặc dù vậy, vào tháng 4-1956, thừa dịp quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh c̣n gọi là nhóm Tuyên Đức ở phía đông bắc. Đó là vùng biển của Việt Nam gồm 7 đảo: Phú Lâm, Lincoln, Đảo Ḥn Đá, Đảo Cây, Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam.  

Diễn tiến trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974 giữa HQ TC và HQ VNCH  . Mời xem thêm Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974: KS Nguyễn văn Phảy: http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/NhungMuaXuanGhiDau_02.htm

Vào tháng 1 năm 1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam c̣n gọi là nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent), với các đảo Hoàng Sa, Quang Ḥa, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng và Tri Tôn.

2.2) Quần đảo Trường Sa:

Theo tài liệu của GS Đại Học Luật Khoa Sài G̣n Tiến Sĩ Nguyễn Văn Canh thuộc Uỷ Ban Bảo Vệ Toàn Vẹn Lănh Thổ th́ tên Trường Sa được t́m thấy trong tập Hồng Đức Bản Đồ của Việt Nam: Tập Bản Đồ này được vẽ vào năm 1490 dưới thời vua Lê Thánh Tôn. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một số nước lớn ở Âu Châu có tên như Richard Spratly hoặc William Spratly đến quần đảo Trường Sa. Từ đó quần đảo có cái tên tiếng Anh là Spratly và tên này được thừa nhận chung cho toàn thế giới. (Trích Hồ Sơ Hoàng Sa & Trường Sa và Chủ quyền Dân tộc của GSTS Nguyễn Văn Canh, trang 57)

Ngày 30 tháng 3 năm 1939 Nhật quyết định đặt quần đảo Trường Sa dưới quyền kiểm soát của Nhật v́ lư do tại đây đă thiếu một chính quyền hành chánh địa phương, nên đă làm thiệt hại đến quyền lợi của Nhật Bản.” Vào ngày 21 tháng 4, 1939, Đại sứ Pháp tại Đông kinh phản kháng.

Trong thế chiến 2, Nhật chiếm đảo Ba B́nh làm căn cứ tàu ngầm mà Bộ chỉ huy đặt tại thành phố Cao Hùng, ở phía Nam của đảo Đài Loan, cho nên mọi liên lạc quân sự của Nhật ở Ba B́nh đều thuộc về bộ chỉ huy quân sự của Nhật ở Đài Loan, xem như sát nhập Ba B́nh vào Đài Loan về mặt quân sự.

Đồng thời, Nhật đă đóng quân trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho tới khi đầu hàng quân đội đồng minh. Bản Thông Cáo Cairo ngày 26 tháng 11, 1943 và được xác nhận trong Hội Nghị thượng đỉnh Postdam, 1945 liên quan đến việc tước bỏ quyền hành của Nhật trên các đảo ở Thái B́nh Dương mà nước này đă cưỡng đoạt hay chiếm đóng. Tại Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951, Nhật Bản chính thức từ bỏ chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sau khi Nhật đầu hàng, th́ việc giải giới quân đội Nhật được thực hiện, ở Bắc vĩ tuyến 16, do Trung Hoa và phía Nam vĩ tuyến 16 do Anh Cát lợi phụ trách. Bắt đầu từ 9 tháng 9 năm 1945 quân đội Trung Hoa với Lư Hán tiến vào Hà Nội lo việc giải giới và chấm dứt nhiệm vụ vào cuối tháng 8 năm 1946 khi quân đội Trung Hoa rút theo một thỏa ước trong đó Trung hoa chuyển quyền hành giải giới cho Pháp phụ trách. Vùng quần đảo Trường Sa, có hơn 300 đảo, gồm cả các băi đá ngầm. Đa số là đảo nhỏ. Về đảo Ba B́nh nay do Đài Loan chiếm đóng.  

Chính quyền Pháp đă thụ đắc quyền làm chủ đảo Ba B́nh này từ ngày 10 tháng 4 năm 1933 và xem nó là một phần của lănh thổ Việt Nam dưới quyền cai trị của Pháp ở VN.

Pháp xây một đài quan trắc khí tượng ở Ba B́nh. Đài nầy thuộc tổ chức khí tượng quốc tế, nên nó là bằng chứng Việt Nam có chủ quyền trên ḥn đảo nầy.

Năm 1946, sau khi bị bại trận, Nhật trả Ba B́nh cho Đài Loan, mà trong thời gian đó, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch c̣n quyền cai trị trên toàn bộ lănh thổ Trung Hoa, và Ba B́nh được đặt dưới sự quản lư của tỉnh Quảng Đông.

Cùng thời gian đó, Pháp làm chủ nhiều đảo khác trong vùng Trường Sa. Tuy nhiên, từ 29 tháng 10 năm 1946 cho đến tháng 1 năm 1947 quân đội của Tưởng Giới Thạch đưa 4 chiến hạm đến chiếm đóng nhiều đảo của quần đảo Trường Sa. Chúng hoàn tất công tác chiếm đóng đảo Ba B́nh trong tháng 2 năm 1946. Sau khi quân của Tưởng Giới Thạch bị quân TC đánh đuổi ra Đài Loan, th́ Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút quân khỏi các đảo của Hoàng Sa và Trường Sa mà chúng đă xâm chiếm trước đây, và chỉ c̣n giữ đảo Ba B́nh.  

3) Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trên b́nh diện quốc tế: (một vài điểm dẫn chứng được trích từ bài nghiên cứu của LS NH Thống)

3.1) Trung Quốc Khước Từ Chủ Quyền lănh thổ tại Hoàng Sa và Trường Sa trong Tuyên Cáo Cairo 1943:

Năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đă hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đă kư Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:  

"Đối tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các lănh thổ và hải đảo tại Thái B́nh Dương mà Nhật đă cưỡng chiếm từ khi khởi sự Thế Chiến I. Tất cả các lănh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đă chiếm đoạt của nhân dân Trung Hoa như Măn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ phải giao hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc". Điều đáng lưu ư là, tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng Giới Thạch không đ̣i Hoàng Sa và Trường Sa. Và như vậy đă khước từ chủ quyền tại hai quần đảo này.

Ngày 4-12-1950, Chu Ân Lai, lúc này là ngoại trưởng, tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đă kư kết để làm căn bản cho Ḥa Ước kư với Nhật Bản

3.2) Đồng Minh Không Thừa Nhận Chủ Quyền Lănh Thổ của Trung Quốc tại Hoàng Sa Trường Sa trong Tuyên Ngôn Potsdam 1945.

Tuyên Ngôn Potsdam ngày 26-7-1945 c̣n ấn định thể thức giải giới quân đội Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh tại Thái B́nh Dương. Để tước khí giới quân đội Nhật, Đồng Minh quyết định chia Việt Nam thành 2 khu vực giải giới theo Vĩ Tuyến 16: Quân đội Trung Hoa có nghĩa vụ giải giới và hồi hương quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 ra Bắc. Và quân đội Anh được ủy nhiệm giải giới và hồi hương quân đội Nhật từ Vĩ Tuyến 16 vào Nam kể cả tại quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các Vĩ Tuyến từ 12o đến 7o (từ Cam Ranh xuống Nam Cà Mau).. 

3.3) Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951 Thừa Nhận Chủ Quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh lại họp Hội Nghị để kư Ḥa Ước Cựu Kim Sơn (San Francisco) ngày 8.9.1951.

Khi Nhật Bản tuyên bố khước từ chủ quyền lănh thổ về Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Nghị Ḥa B́nh San Francisco 1951, các quốc gia tham dự Hội Nghị đă phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc, và mặc nhiên nh́n nhận chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo này.

Ngày 7.9.1951, trong phiên Khoáng Đại Hội Nghị thứ 7, Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản kháng nào của 51 quốc gia tham dự Hội Nghị (kể cả Liên Xô).

3.4) Hiệp Định Geneva 1954 minh thị xác nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lănh thổ của Việt Nam

Hiệp Định Geneva ngày 20.7.1954 một lần nữa, đă minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong Bản Tường Tŕnh nộp tại Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc ngày 11.5.2009, Chính Phủ Bắc Kinh chỉ đề cập đến hải phận hay Biển Lịch Sử chứ không vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng (350 hải lư) theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật như Liên Hiệp Quốc đ̣i hỏi.  

Để hiểu rơ những quy định của quốc tế về Luật Biển chúng ta hảy t́m hiểu Công Ước LHQ về Luật Biển sau đây để làm căn bản pháp lư về biển trên toàn thế giới mà chính TC cũng đă kư vào:   

4) Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982

( Được kư kết ngày 10 tháng 12 năm 1982 và đi vào hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1994).

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS), gồm có 320 Điều, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 (Third United Nations Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York cho đến năm 1982 với các chỉnh sửa đă được thực hiện trong Hiệp ước thi hành năm 1994.  

UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đă tham gia Công ước này.

Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rơ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lư các tài nguyên thiên nhiên đại dương.  

 

Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở (baseline) được định nghĩa kỹ càng.  

Ghi chú: Khoảng cách 1 hải lư (nautical mile) bằng 1852 m. Mời xem thêm hải đồ Mercator cùng tác giả: 

Hải Đồ Mercator: http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/HaiDo_Mercator.htm

Một số tọa độ các điểm nối đường cơ sở của Việt Nam:

4.1) Nội thuỷ và đường cơ sở:  

Nội thuỷ là vùng nước bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền).  
Đường cơ sở (baseline) là một đường mà căn cứ vào nó chính phủ quốc gia ven biển sẽ tuyên bố bề rộng của lănh hải hướng về phía biển cả được tính từ đường cơ sở. Đường cơ sở cũng được dùng làm căn cứ gốc để xác định các vùng biển khác phía ngoài lănh hải.
Thông thường, đường cơ sở là đường ngấn nước thủy triều thấp nhất. Tuy nhiên, khi bờ biển có sự lồi lơm, khi biển khoét sâu vào đất liền, hoặc khi có những đảo ven bờ, quốc gia ven biển có quyền áp dụng đường cơ sở thẳng. Trong vùng nội thuỷ, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.

4.2) Lănh hải:

Là vùng nằm ngoài đường cơ sở. Trước năm 1958, lănh hải có chiều ngang chỉ có 3 hải lư. Hiện nay hầu hết các quốc gia ven biển chọn lănh hải cho ḿnh là 12 hải lư. Đến năm 1967, chỉ c̣n có 25 quốc gia vẫn sử dụng giới hạn 3 hải lư, 66 quốc gia đă quy định giới hạn lănh hải 12 hải lư và 8 quốc gia đưa ra giới hạn 200 hải lư. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên, nhưng với điều kiện phải chấp hành Công ước. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lănh hải mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lănh hải của ḿnh khi cần bảo vệ an ninh.

4.3) Vùng tiếp giáp lănh hải:

Bên ngoài giới hạn 12 hải lư của lănh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lư, đó là vùng tiếp giáp lănh hải. Tại đây, nước chủ ven biển có thể vẫn thực thi luật pháp của ḿnh đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.

4.4) Vùng đặc quyền kinh tế:

Theo Điều 55 Chế độ pháp lư riêng của vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lănh hải và tiếp liền với lănh hải, đặt dưới chế độ pháp lư riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước UNCLOS 1982 điều chỉnh.

Rộng 200 hải lư tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng việc khai thác dầu mỏ cũng đă trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường trên không, nhưng phải tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.

Theo Điều 57 th́ chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lư kể từ đường cơ sở.

4.5) Thềm lục địa:

Là vành đai mở rộng của lănh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lư tính từ đường cơ sở. Theo Điều 76 Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển bên ngoài lănh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lănh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của ŕa lục địa, hoặc khoảng cách được tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lănh hải 200 hải lư, khi bờ ngoài của ŕa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.

4.6) Thềm lục địa mở rộng:

Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lư cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lư, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lư.  Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.

4.7) Vùng biển quốc tế:

Ra ngoài thềm lục địa mở rộng là vùng biển quốc tế c̣n gọi là biển cả. Biển cả là vùng biển phía ngoài vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển. Các quốc gia có biển và quốc gia không có biển đều được chung hưởng nguồn lợi tài nguyên từ khu vực thuộc vùng biển quốc tế.  

5) Tạm kết: Sau khi nghiên cứu, tham khảo và t́m hiểu về những khía cạnh địa lư, pháp lư và lịch sử cũng như chiếu theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) th́ lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu đời và chúng ta là con dân Việt Nam ở mọi thế hệ có nhiệm vụ phải bảo vệ cho bằng được.  

Nguyễn Văn Phảy

* Cựu Sinh Viên Đại Học Luật Khoa Sài G̣n – Ban Công Pháp  
* Kỹ Sư ngành Điện / Viễn Thông (bậc Cao Học) tại Tây Đức

* Cựu Sĩ Quan Hải Quân QL VNCH

 

Tài liệu tham khảo và trích dẫn:

- Công Ước Quốc Tế Về Luật Biển (UNCLOS) 1982

- Ủy Ban Bảo Vệ Toàn Vẹn Lănh Thổ của GS Nguyễn Văn Canh và những bài nghiên cứu của LS Nguyễn Hữu Thống

- Những tài liệu liên quan đến biển Đông trên internet  

Trở lại