Hải Đồ Mercator (Mercator Nautical Map)

KS Nguyễn Văn Phảy

Trong những năm tháng gần đây, nhiều thông tin, xă luận có đề cập đến vị trí, toạ độ của các đảo thuộc quần đảo Hoàng sa và quần đảo Trường Sa bằng những điểm được xác định bởi kinh độ và vĩ độ của hải đồ Mercator. Tuy nhiên, có một số người chưa hiểu rơ về kinh độ Đông, kinh độ Tây, vĩ độ Nam, vĩ độ Bắc được thực hiện và tính toán như thế nào. Đôi khi có người lẫn lộn giữa chữ N (North) với chữ N (Nam). Sau khi hiểu được khái quát về phép chiếu h́nh trụ của Gerhard Mercator th́ sẽ hiểu được vị trí có vĩ độ Nam hay vĩ độ Bắc.

Thời gian c̣n là sinh viên sĩ quan hải quân tập sự trên Hoả Vận Hạm HQ471, Hộ Tống Hạm HQ10 cũng như sau khi tốt nghiệp trường SQHQ Nha Trang phục vụ trên Dương Vận Hạm HQ503, tôi đă thường sử dụng hải đồ Mercator để làm point (có nghĩa là xác định toạ độ của chiến hạm trên biển khơi).

Thông thường, khi chiến hạm nhận lệnh công tác, trước khi rời bến, ban Giám lộ có nhiệm vụ kiểm soát lại các đèn quang hiệu, cờ hải hành, hải đồ Mercator và dụng cụ làm point v.v. Song vào đó, trước khi chiến hạm rời bến, hạm trưởng vẽ trên hải đồ Mercator đường đi từ điểm xuất phát cho tới điểm đến. Nhiệm vụ của sĩ quan trưởng phiên hải hành là phải chịu trách nhiệm việc xác định toạ độ của từng vị trí chiến hạm trong suốt ca hải hành của ḿnh. Thông thường cứ mỗi 15 phút th́ định vị một lần. Có nhân viên Giám lộ phụ giúp. Trước khi xuống ca th́ sĩ quan trưởng phiên hải hành của ca kế tiếp phải lên trước khoảng 15 phút để nhận bàn giao. Mọi dữ kiện diễn tiến ghi nhận được trong lúc hải hành đều được ghi vào sổ hải hành.     

Thật vậy, sĩ quan hải quân ngành chỉ huy phải hiểu rơ và sử dụng hải đồ Mercator như cơm bữa. Khi ra hải ngoại, vào năm 1982 tôi đă ghi danh theo học ngành kỹ thuật tại đại học có tên là Gerhard Mercator University ở thành phố Duisburg, tiểu bang Nordrhein Westfalen thuộc nước Cộng Hoà Liên Bang Đức. Tôi xin ghi lại đôi ḍng về công tŕnh thực hiện hải đồ của Gerhard Mercator nhằm tri ân đại học mang tên ông đă cấp cho tôi bằng ban khen v́ đă học đúng thời gian quy định và có điểm tốt (good) khi tốt nghiệp.

1- Gerhard Mercator là ai và thành phố Duisburg ở đâu?

Kể từ thế kỷ 15, năm 1492, Kha Luân Bố và thuỷ thủ đoàn t́m ra Châu Mỹ, lần nữa đă xác định trái đất là một khối tṛn. Gehard Mercator là một nhà địa lư học, chuyên nghiên cứu về h́nh dạng của quả đất, đất đai biển cả, thực hiện  bản đồ, hoạ đồ và là cha đẻ ra hải đồ Mercator (Mercator Nautical Map). Ông đă góp sức rất nhiều cho ngành hàng hải cận duyên và viễn dương cũng như bản đồ trên đất liền.

Chân dung Gerhard Mercator

Ông Gehard Mercator sinh vào ngày 5.3.1512 tại Rupelmonde vùng Grafschaft Flandern. Vùng nầy hiện nay thuộc vùng đất bao gồm 3 nước: Pháp, Hoà Lan và Bỉ. Đó là một vùng đất thấp, tiếp giáp với biển Đại Tây Dương (Atlantic). Khi lớn lên, vào năm 1540, Gerhard Mercator dời qua thành phố Duisburg thuộc Vereinigte Herzogtürmer Jülich-Kleve-Berg vào thời bấy giờ, cách nơi ông được sinh ra khoảng trên 150 km về phía Đông Nam, nơi giao tiếp của 2 gịng sông Rhein đến từ phía Nam và gịng sông Ruhr đến từ phía Đông. Đó là thành phố Duisburg nơi mà ông đă bỏ suốt cuộc đời nghiên cứu vẽ hải đồ Mercator và cũng là nơi mà ông Mercator đă từ giă cơi đời vào ngày 2 tháng 12 năm 1594.

Thành phố Duisburg ngày nay thuộc nước Cộng Hoà Liên Bang Đức, là một thành phố có khu kỹ nghệ luyện sắt thép nổi tiếng. Đó là nhà máy luyện thép Thysen. Phẩm chất sắt thép được sản xuất tại Duisburg tốt nhất thế giới và được xuất cảng đi khắp nơi trên địa cầu cũng như tại Đức quốc. Duisburg cũng là thành phố thuộc vùng có nhiều mỏ than đá nằm ở phía Tây Đức. Duisburg có cảng nội địa lớn nhất Âu Châu, nơi tập trung nhiều tàu chuyển vận hàng hoá như sắt thép, than đá v.v. đi khắp nơi từ thời xa xưa. Nội cảng Duisburg cũng là nơi dùng làm phim trường khá nổi tiếng để đóng phim tội phạm (crime). Đặc biệt là phim “Tatort”.

Duisburg có trường Đại Học Tổng Hợp (Gesamthochschule-Universitaet (University)) mang tên Gerhard Mercator. Phân khoa Luyện Kim cũng như phân khoa Đóng Tàu (Schiffbau) khá nổi tiếng của đại học chuyên nghiệp (Fachhochschule) cũng trực thuộc Đại Học Tổng Hợp nầy. Vào thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Duisburg nằm trong khu kỹ nghệ nặng phục vụ chiến tranh và được xem như mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đồng minh vào phía Tây Đức gần biên giới Hoà Lan, nên cũng bị tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh chấm dứt, thành phố Duisburg đă được nhanh chóng phục hồi bởi một chính quyền rất tài giỏi của nước CHLB Đức dưới một thể chế pháp quyền tự do dân chủ cùng với những nỗ lực tái thiết đất nước của dân Tây Đức .

2. Phương pháp thực hiện hải đồ Mercator:

Phép chiếu Mercator là phương pháp chiếu góc lên xy lanh h́nh trụ. Dữ kiện trên xy lanh h́nh trụ được trải phẳng ra thành bản đồ phẳng. Đặc biệt bản đồ nầy được dùng cho ngành hàng hải gọi là hải đồ Mercator.

Muốn hiểu rơ về phương pháp thực hiện hải đồ Mercator, trước hết phải hiểu rơ về h́nh dạng của trái đất, kinh tuyến, vĩ tuyến.

2.1 H́nh dạng trái đất (die Erde; the earth):

Như đă biết, trái đất là một khối tṛn có bán kính gần bằng nhau. Trái đất một hành tinh quay chung quanh mặt trời trong thái dương hệ. Trái đất có độ dày đặc nhất, lớn thứ năm và là hành tinh thứ ba ở gần mặt trời trong hệ thống năng lượng mặt trời. Đường kính của nó là 12.745 km, xấp xỉ với 40.000 km/π. Số π (đọc là Pi = khoảng 3,1416). Mét (m) được định nghĩa bằng 1/10.000.000 khoảng cách từ xích đạo đến cực Bắc (North Pole) đo qua Paris, Pháp quốc. Đường kính tại đường xích đạo lớn hơn đường kính từ cực Nam đến cực Bắc khoảng 43 km. Sở dĩ có phần ph́nh ra ở đường xích đạo là kết quả của quá tŕnh tự quay của trái đất. Tuổi của trái đất có khoảng 4,53 tỷ năm. Trái đất cách mặt trời khoảng 149.600.000 km. Trái đất là nơi của các sinh vật sống, có ¾ là biển cả, ¼ c̣n lại là đất liền.

2.2. Kinh độ (Longitude) và Vĩ độ (Latitude) là ǵ ?:

Trước tiên, Gerhard Mercator chia khối cầu dọc theo hai cực, từ Bắc (North Pole) đến Nam (South Pole) thành 360 đường song song có khoảng cách bằng nhau trên ṿng xích đạo, gọi là kinh tuyến (meridian). Mỗi kinh tuyến mang một độ (degree) gọi là kinh độ (longitude). Ông chọn kinh tuyến xuyên qua địa điểm Greenwich ở Anh quốc làm 0° (kinh độ Zero). Kể từ kinh tuyến ngang qua Greenwich về phía Đông có 180 kinh độ Đông (East, 180°E hay E180°) và ngược về phía Tây có 180 kinh độ Tây (West, 180°W hay W180°).

Ngoài ra, dọc theo hướng Bắc Nam, Gerhard Mercator chia khối cầu thành 2 phần: Kể từ đường xích đạo (equator) đến cực Bắc ông chia ra 90 đường song song với nhau gọi là vĩ tuyến (parallel) tương ứng với 90°. Mỗi vĩ tuyến mang một góc độ gọi là vĩ độ (latitude). Có 90 vĩ độ Bắc (Lat. N). Ngược lại, từ đường xích đạo xuống đến cực Nam cũng có 90 vĩ độ Nam (Lat. S) song song với nhau. 

Khi nói đến toạ độ người ta phải ghi vĩ độ và kinh độ. Ví dụ: Trân Châu cảng (Pearl Harbor) ở đảo Honolulu có toạ độ là 21°19´11“ N và 157°51´40“ W

2.3. Phép chiếu h́nh trụ của Gerhard Mercator:

2.3.1. Hệ số tỷ lệ:

Phỏng chừng trái đất bán kính (radius) a, được thu hẹp như một khối cầu (globe) nhỏ và có bán kính R. Khối cầu sẽ xác định tỷ lệ của bản đồ. Có nhiều phương pháp khác nhau để xác định chi tiết địa lư được hoán chuyển từ khối cầu tiếp xúc với mặt xy lanh của nó ở đường xích đạo. Xy lanh h́nh trụ được trải ra để cung cấp cho các bản đồ phẳng. Tỷ lệ R/a được gọi là phân số tương ứng representative fraction (RF) hoặc tỷ lệ chính của phép chiếu.

Bản đồ Mercator đầu tiên năm 1569

Ví dụ, một bản đồ Mercator in trong một cuốn sách cũng có một chiều rộng ở đường xích đạo là 13,4 cm tương ứng với một bán kính khối cầu 2,13 cm và tỷ lệ tương ứng với quả đất khoảng 1/300M. “M“ được sử dụng như là chữ viết tắt của một sự làm nhỏ quả đất 1.000.000 lần bằng hệ số RF.  Bản đồ nguyên thuỷ năm 1569 của Mercator có chiều rộng 198 cm tương ứng với một bán kính quả cầu là 31,5 cm và RF khoảng 1/20M.

2.3.2 Phép chiếu h́nh trụ:

H́nh bên trái: Khối cầu nằm bên trong có đường xích đạo tiếp giáp với xy lanh h́nh trụ
H́nh bên phải: Mặt phẳng bản đồ do xy lanh h́nh trụ được trải ra


Phép chiếu Mercator được trải ra trên mặt phẳng

Như ở trên đă đề cập, phép chiếu bản đồ h́nh trụ được xác định bởi sự liên kết các tọa độ địa lư của vĩ độ φ (từ 0° đến +/- 90°) kinh độ λ (từ 0° đến +/- 180°) từ khối cầu đến tọa độ trên bản đồ. 

Khối cầu có bán kính R, góc độ θ. H́nh khác được ghi góc độ là φ

2.3.3. Cách tính:

Năm 1599 nhà toán học người Anh Edward Wright cũng đă giải thích toán học về sự chính xác của phép chiếu Mercator.  

Trên đây là một h́nh ảnh của khối cầu (trái đất thu hẹp) với phía Bắc cực được cắt tại góc độ φ (hoặc góc độ θ theo h́nh vẽ). Đường xích đạo là một ṿng tṛn với bán kính R (R cũng là bán kính của khối cầu) và chu vi là W=2πR. Đường vĩ tuyến ở góc độ φ là một ṿng tṛn với bán kính R.cos(φ) và có chu vi 2π.R.cos(φ).  

Từ xy lanh h́nh trụ, những tiếp tuyến của khối cầu tại đường xích đạo có hệ số tỷ lệ giữa khối cầu với xy lanh giống nhau. Khoảng cách từ đường xích đạo đến một vĩ tuyến được xác định bởi phương tŕnh y(φ), nghĩa là lệ thuộc góc độ φ ở từng vĩ độ . Vĩ tuyến ở góc độ φ được kéo dài bởi một hệ số tỷ lệ k=1/cos(φ) = φ giây gọi là (sec φ). Hệ số tỷ lệ tương ứng trên kinh tuyến được kư hiệu là h.  

H́nh học phân tố nhỏ (small element geometry):

Chúng ta hảy khảo sát 2 h́nh vẽ thuộc bề diện nhỏ sau đây:

a) Những đường kinh tuyến và vĩ tuyến của khối cầu.

b) Những đường kinh tuyến và vĩ tuyến trên phép chiếu h́nh trụ.

Mối tương quan giữa phương tŕnh y(φ) và tính chất của phép chiếu, chẳng hạn như việc hoán chuyển góc độ và sự thay đổi hệ số tỷ lệ được tiếp nối từ h́nh học giải tích của các phân tố nhỏ trên khối cầu và bản đồ tương ứng. H́nh dưới đây cho thấy một điểm P ở vĩ độ φ và kinh độ λ trên khối cầu và một điểm Q gần đó  ở vĩ độ φ + δφ và kinh độ λ + δλ. Các đường thẳng đứng PK và MQ là ṿng cung của kinh tuyến có chiều dài Rδφ. Đường ngang PM và KQ là ṿng cung của vĩ tuyến có chiều dài R(cos φ)δλ. Những điểm tương ứng trên phép chiếu xác định một h́nh chữ nhật chiều rộng δx và chiều cao δy.

 

Những hệ số tỷ lệ từ khối cầu được chiếu lên xy lanh h́nh trụ tương ứng như sau:  

Hệ số tỷ lệ vĩ tuyến (parallel scale factor):  

      

Hệ số tỷ lệ kinh tuyến (meridian scale factor):         

      

Trong trường hợp α=β th́ hệ số k=h=sec φ 

Phương tŕnh toán học đă giúp cho nhà địa lư vẽ được những vĩ độ, kinh độ trên bề mặt khối cầu cũng như trên xy lanh h́nh trụ trong phép chiếu h́nh trụ khá chính xác. H́nh trụ được trải lên mặt phẳng sẽ cho ra bản đồ. Đó là hải đồ Mercator.

Bảng liệt kê cho thấy tỷ lệ trên đường xích đạo khoảng 0,99; tỷ số k=1 ở vĩ độ khoảng ± 8°; tỷ số k=1,01 ở vĩ độ khoảng ± 11,4 °.

Ở vĩ độ 30° có hệ số tỷ lệ là k= sec 30°=1,15
Ở vĩ độ 45° có hệ số tỷ lệ là k= sec 45°=1
,41
Ở vĩ độ 60° có hệ số tỷ lệ là k= sec 60°=2,00
Ở vĩ độ 80° có hệ số tỷ lệ là k= sec 80°=5
,76
Ở vĩ độ 85° có hệ số tỷ lệ là k= sec 85°=11
,5

Như vậy, trong bất kỳ hướng nào từ một điểm trên đường xích đạo tương ứng với khoảng 900 km sẽ có khoảng cách tương ứng cho các vĩ độ 20 ° là 846 km, 40 ° là 689 km, 60 ° là 450 km và 80 ° là 156 km tương ứng.

2.3.4. Độ chính xác của phép chiếu Mercator:

Một phép đo chính xác của bản đồ là một sự so sánh về độ dài của các yếu tố đường thẳng tương ứng trên bản đồ và khối cầu. Do đó, qua sự cấu trúc, phép chiếu Mercator là hoàn toàn chính xác, k = 1, dọc theo đường xích đạo và không nơi nào khác. Ở vĩ độ ± 25° giá trị của giây φ  là khoảng 1,1 giây và do đó phép chiếu có thể được coi là chính xác trong phạm vi 10% trong một dải rộng 50° trên đường xích đạo. Ở những dải hẹp hơn th́ chính xác hơn: 8° giây=1,01. Do đó, một dải rộng 16° (trung tâm điểm trên đường xích đạo) th́ chính xác trong ṿng 1%. Tương tự như vậy 02,56°giây=1,001. Do đó, một dải rộng 05,12° th́ chính xác đến 0,1% hoặc gọi là 1/1000. Do đó phép chiếu Mercator là thích đáng cho các nước ở gần xích đạo sử dụng bản đồ Mercator.

2.3.5. Vài địa điểm có toạ độ tiêu biểu:

Kinh tuyến Zero xuyên qua Greenwich ở gần London, Anh Quốc

Một vài ví dụ toạ độ theo phép chiếu h́nh trụ của Gerhard Mercator tại lănh hải Việt Nam nằm trên Bắc bán cầu được xác định bởi vĩ độ Bắc (N) và kinh độ Đông (E):

Vị trí phía Nam và phía Bắc của Việt Nam:
Mũi Cà Mau: 8° 20΄ 23“ N và 104° 57´ 51“ E
Ải Nam Quan: 23
° 01΄ 28“ N và 105° 28´ 52“ E

 

Vùng quần đảo Hoàng Sa có những toạ độ sau đây:
Paracel Viet Nam: 16°35΄52“ N và 112 °46´00“ E
Đảo Hoàng Sa:  16
°12΄11“ N và 111 °48´38“ E
Cù Lao Ré (Đảo Lư Sơn): 15
°22΄55“ N và 109 °07´02“ E
Cảng Tiên Sa, Đà Nẵng: 16
°06΄59“ N và 108 °13´02“ E

 

Vùng quần đảo Trường sa:
Mốc chủ quyền Trường Sa Việt Nam:  8°35΄46“ N và 111 °54´49“ E
Băi Phúc Nguyên: 7
°57΄11“ N và 109 °58´56“ E
Đảo Quê Hương: 11
°20΄38“ N và 114 °18´34“ E
Spratly Island: 10
°39΄23“ N và 115 °21´21“ E

2.3.6. Đơn vị đo hải đồ Mercator:

Theo góp ư của HQ Châu Đ́nh Lợi, tôi xin ghi thêm đơn vị đo khoảng cách trên hải đồ Mercator. Ở vùng xích đạo, một hải lư (nautical mile) có độ dài khoảng 1852 m được tính như sau:

Như ở trên đă dẫn chứng, chu vi quả đất có khoảng 40.000 km. Trên đường xích đạo, chu vi quả đất được chia thành 360 kinh tuyến (= 360 kinh độ). Mỗi kinh độ có độ dài = 40.000 km / 360= khoảng 111 km. Mỗi độ (°) có 60 phút (´). Vậy mỗi phút có độ dài bằng một hải lư: 111 km / 60´ = 1,85185 km = khoảng 1852 m

KS Nguyễn Văn Phảy
Cựu Trưởng Ban Giám Lộ & Thám Xuất HQ 503
 

Mời xem Phần Đọc Thêm

 

Trở lại