Buổi
chiều Sài g̣n, một ngày cuối tháng 3 năm 75,
sau chuyến công tác miền Trung dài dằng dặc, tôi
rủ Tăng, thằng em trai, đi đánh bi da ở
bờ sông Khánh Hội, bên cầu Calmette. Vừa
về tới nhà, th́ thấy con nhà Cần đă
đứng chờ trước cửa. Cần, cao
ốm với cái lưng tôm quen thuộc, thằng
bạn trên chiến hạm, ở cùng pḥng, đi cùng
ca, cùng làm những chuyện nhảm nhí của
những thằng sĩ quan trẻ trong thời loạn
lạc. Với vẻ mặt nghiêm trọng ít
thấy, Cần bảo Hạm Trưởng cho gọi
tất cả nhân viên vào tàu chuẩn bị đi công
tác Đà Nẵng ngay trong đêm. Thông báo xong, Cần
vác xe Honda chạy vội về nhà vớ mấy món
đồ cá nhân cần thiết v́ đă bị
ở lại tàu từ ngày hôm trước trong
nhiệm vụ sĩ quan trực. Tuy hơi bỡ
ngỡ nhưng không ngạc nhiên lắm v́ đă quen
với những chuyện bất ngờ của đời
nhà binh, tôi hỏi Tăng có muốn đi theo tàu ra
ngoài Trung chơi cho biết. Cậu em tôi đồng
ư ngay v́ đang nghỉ giữa niên khoá của trường
ĐH Khoa Học, thế là hai anh em tôi vào nhà sửa
soạn hành trang lên đường.
Từ giă gia đ́nh – lính thời chiến th́
mỗi lần đi đều có thể là một
lần vĩnh biệt, tôi và thằng em, bị
gậy, nhảy lên chiếc xe Honda S50 cũ trực
chỉ cầu “C” của bến Bạch Đằng,
nơi mà chiếc LST, Dương Vận Hạm Nha
Trang, HQ505 đang nằm bến. Vừa lái xe vừa
lầm bầm như đĩ khấn tiên sư, tôi
chưa hết hậm hực v́ không được
ở lại Sài G̣n lâu hơn tí nữa, nhất là
rất ít khi tàu được cặp ở cầu
“C”, cầu tàu lư tưởng nhất của dân
hạm đội. Nằm ngay trung tâm Sài G̣n, trước
tượng Trần Hưng Đạo. Đứng trên
tàu th́ tha hồ ngắm nghiá các tài tử giai nhân
của Sài G̣n hoa lệ. Bước xuống khỏi
hạm kiều là đầy các xe khô mực, chè, cháo,
tự do hẹn bạn bè, đào địch lai rai.
Cầu tàu lại ở bên ngoài cổng chính của
Bộ Tư Lệnh, tức là ngoài ṿng kiềm
toả của băng Quét Chợ (Quân Cảnh) QC201
Hải Quân, khỏi lo bị hỏi giấy đi
bờ, sự vụ lệnh, hoặc bực ḿnh v́
những lời hăm dọa hay móc ḷ về mái tóc
nghệ sĩ nửa mùa, không đúng tiêu chuẩn trước
hai phân sau một phân, mà chẳng ma nào để ư
từ lúc ra khỏi quân trường. Sau buổi điểm
danh, trong một cuộc họp ngắn ngủi, Trung tá
Nh., Hạm Trưởng, cho biết tàu được
chỉ định xuống thành Tuy Hạ lấy đạn
để tiếp tế gấp cho miền Trung đang
bị áp lực nặng nề. Bơm nước,
lấy dầu xong, tàu kéo c̣i nhiệm sở hải hành.
Những tiếng c̣i ngắn ngủi tiếp nối vào
nhau như những chiếc hôn tạm biệt vội
vàng, HQ505 tháo dây từ giă Sài G̣n giữa lúc không khí
hầm hập của ban ngày đang dịu dần và
những cuộc vui về đêm của thành phố
bắt đầu hâm nóng. Tàu tách bến, dựa khung
sắt tṛn che đạn quanh pháo tháp khẩu đại
bác 40 ly đôi, trong nhiệm sở trưởng sân mũi,
tôi nh́n bâng quơ xuống hai chiếc xuồng LCVP
chạy loanh quanh chờ lệnh đẩy phụ tàu
mẹ trong lúc vận chuyển. Chung quanh, nhóm thủy
thủ đoàn vừa làm việc vừa luyến
tiếc liếc nh́n về những ánh đèn màu xa
dần với cái nh́n tiếc nuối quen thuộc
của mỗi lần công tác.
Tàu cập cầu thành Tuy Hạ, nhân viên kho đạn
đă chờ đợi sẵn với đèn đuốc
sáng choang, gấp rút đóng những dàn gỗ chêm
hai bên thành tàu, bên trong hầm chiến xa, để các
thùng đạn được dựa sát vào nhau,
khỏi bị lắc gây chạm nổ khi ra biển.
Xe xúc và cần trục h́ hục cả đêm,
chuyển xuống hầm tàu hơn 2000 tấn đạn.
Nếu không v́ thời hạn cấp bách, tôi và
Cần thể nào cũng dọt xuống khu gia binh Tuy
Hạ, đánh bi da, uống cà phê, ăn sáng, ăn
khuya như những lần trứơc. Chúng tôi lê
lết đến độ đă có lần Hạm Phó
H. cho người t́m măi không ra, vừa ṃ về đến
nơi là bị mời ngay lên tŕnh diện. Ngài HP.
mặt mày nhăn nhó như sắp khóc, vưà xỉ
vả vưà như năn nỉ, tôi và Cần th́
cứ đứng cười cầu tài (hay theo con nhà
Cần là vén môi lên cười tồ tồ) rồi
huề cả làng, mắt trước mắt sau,
hở ra là lại dọt tiếp.
Tuy có quậy chút chút, nhưng vui vẻ và được
việc, nên thường cũng chỉ bị quay cho có
lệ. Không biết v́ cuộc sống nhà binh, v́ xa nhà,
v́ c̣n trẻ, v́ ham chơi hay v́ tất cả
những cái lăng nhăng này cộng lại, mà
cuộc sống chúng tôi thật vô tư, lúc nào vui
được là cứ vui, “tới luôn đi bác tài”.
Nằm thành Tuy Hạ, nếu tối không trốn
đi đâu được, th́ giải trí bằng cách
ra lan can tàu ném lựu đạn MK3 xuống sông hay xách
súng bắn lục b́nh, trôi dập dềnh từng
đám đầy sông. Trước là mua vui, sau là …
chống người nhái VC, mấy anh đặc công
này thích chơi cái tṛ ôm ḿn nam châm núp dưới
mấy bè lục b́nh lặn tới ịn vô lườn
tàu. Bắn chán rồi th́ lại vào pḥng đàn hát;
Cần đệm guitar rất hay lại thêm vài tay SQ
thích rên ư ử nên chúng tôi có thêm một tṛ tiêu
khiển.
Sáng hôm sau, đạn đă chất xong, chờ con nước
đứng, tàu tháo dây lừ đừ trở mũi
ra cửa Vũng Tàu. Theo lệnh công tác chúng tôi
trực chỉ Đà Nẵng. Trên hai năm đi
về, tôi đă thuộc nằm ḷng con đường
biển ra Trung, từ những mỏm núi đến các
hải đăng, những điểm chấm tọa
độ nằm dọc hải tŕnh. Mỗi lần lên
nhận bàn giao ca, chỉ nh́n vào bờ t́m những
dạng quen thuộc của các dăy núi và những nét
cong của bờ biển, tôi đă có thể có
một khái niệm khá rơ ràng về tọa độ
của tàu trước khi nh́n đến hải đồ.
Được bổ sung thêm với số sĩ quan
của khoá 26 Nha Trang mới ra trường, mỗi ca
hải hành của HQ505 có đến bốn hay năm
sĩ quan, thay v́ chỉ có ba như những năm trước
đó. Ca tôi gồm có tôi làm trưởng phiên,
Cần là phụ tá và thêm hai ngài Thiếu Úy nhí, B. và
Tr., đang tập sự rất dễ thương
(mới ra trường, c̣n say sóng, ôm sô ói dài dài như
mấy bà ốm nghén mà không dễ thương th́ làm
ǵ ai!) Tôi và Cần tương đối hợp gu nên
đi ca lúc nào cũng có chuyện đấu hót tíu tít,
toan tính chuyện lọc lừa, phá phách, làm vui
cuộc sống cho đỡ nhớ nhà, nhớ người.
Chu Lai:
Sau hai ngày lênh đênh, tàu đang dập dềnh,
lừng khừng tiến vào hải phận của vùng
Một th́ chúng tôi bỗng nhận được công
điện từ Bộ Tư Lệnh Vùng Một Duyên
Hải, chỉ thị cho tàu nằm lại ở phía
ngoài Chu Lai chờ lệnh. Khoảng hơn mười
giờ sáng, một chiếc trực thăng đáp
xuống bong tàu. Bước xuống là một sĩ
quan bộ binh với ngôi sao đen trên cổ áo
của bộ quân phục thẳng nếp, theo sau
bởi một sĩ quan tùy viên. Vị chuẩn tướng
được hạm trưởng Nh. đón thẳng
vào pḥng họp sĩ quan.
Hơn nửa tiếng sau, hạ sĩ B. chạy
vội ra t́m tôi mời vào pḥng họp. Tôi được
giới thiệu với chuẩn tướng Tư
Lệnh Sư Đoàn trấn đóng tại Chu Lai, mà
nếu tôi nhớ không lầm là sư đoàn 2.
Hạm Trưởng Nh. cho biết tôi phải đi
với chuẩn tướng H. vào Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn để nhận chỉ thị
thẳng từ BTL Vùng Một Duyên Hải. Tôi chào tay
rồi vội vă quay lưng bước về pḥng riêng
chuẩn bị ra đi. Con nhà Cần đă chờ
sẵn trong pḥng để hỏi tôi về lư do
chuyến đi sắp đến. Vừa mở tủ
lấy khẩu súng colt 45 nhét vào lưng quần,
vừa ngập ngừng trả lời là chính tôi cũng
chưa rơ lư do. Như muốn giấu vẻ quan tâm,
Cần ra cái điều khôi hài bảo tôi: “Cẩn
thận chứ đi Hải Quân mà lại tịch trên
máy bay th́ tao chả biết phải nói sao với gia
đ́nh mày.” Tôi cười cười bước
vội khỏi pḥng, theo tướng H. leo lên chiếc
trực thăng cánh quạt quay tít đang chờ
sẵn.
Sau khoảng 10 phút bay, những dăy nhà ngói đỏ
của BTL Sư Đoàn bên dưới hiện rơ
dần. Sự nôn nao từ lúc leo lên máy bay bắt
đầu được thay thế với cái
cảm giác hồi hộp khi trong mắt tôi, bên dưới,
những vỉ sắt lót của băi đáp trực thăng
đang bị đạn pháo địch rót vào,
nổ xoắn lại, bắn tung lên trong cát bụi
mịt mù, theo sau là những tiếng nổ trầm
trầm dội lại, bị át đi bởi tiếng
xoành xoạch của cánh quạt máy bay. Từ
tiếng báo cáo của máy liên lạc trực thăng,
tôi nghe loáng thoáng là VC. đang liên tục pháo kích vào
căn cứ.
Trong hơi nóng giữa trưa ngùn ngụt bốc lên
từ bờ cát biển, h́nh ảnh những vỉ
cắt cong queo, tung lên trong đám mây bụi và khói
đạn pháo mịt mù, trông lung linh quái dị như
những ảo giác trên sa mạc. Chờ lúc đạn
pháo vừa chậm lại, chiếc trực thăng
chao một ṿng rồi lao thẳng xuống băi đáp
như con diều hâu săn mồi. Cản đáp
vừa chạm đất, chiếc xe Jeep của tướng
H. đă đến sát bên cạnh. Tôi tháo vội
sợi dây an toàn, nhảy khỏi trực thăng phóng
vào phía sau xe theo sau ông tướng tư lệnh.
Chiếc xe vụt thật nhanh về phiá Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn. Bước khỏi xe, tôi theo tướng
H. vào BTL và xuống thẳng hầm chỉ huy. Trong
hầm chỉ có khoảng hơn chục người
với những dàn máy truyền tin chồng chất lên
nhau trong những tiếng báo cáo hỗn độn
từ các đơn vị đóng ở ṿng đai căn
cứ. Đang ṭ ṃ, nh́n quanh quan sát, th́ tướng
H. đưa cho tôi cái điện thọai đỏ
chói. Đầu giây bên kia là tiếng nói của Tư
Lệnh Vùng Một Duyên Hải, Phó Đề Đốc
H.V.Kỳ.Th. (mà chúng tôi tôi hay gọi đùa với
nhau là H.V. Kỳ Cục.) Sau khi tôi tự giới
thiệu tên họ, cấp bậc và chức vụ, PĐĐ.
Th. cho biết chúng tôi được chỉ định
thay đổi công tác để ủi băi di tản sư
đoàn 2 của Chu Lai ngay đêm đó. Tôi tŕnh bày
với PĐĐ. Th. rằng chúng tôi đang chở trên
2000 tấn đạn, thêm vào đó, từ mấy năm
trước khi quân đội Mỹ rút khỏi Chu
Lai, băi biển ở đây đă không được
vét, cát bồi của mấy năm liền có thể
sẽ làm việc ủi băi đón quân trở nên
rất khó khăn và nguy hiểm. Tôi c̣n nhớ măi câu
trả lời với giọng nói bực bội và
mỏi mệt của PĐĐ. Th.: “Các anh có
lệnh vào Chu Lai đón lính, các anh làm sao th́ làm, không
khéo kẹt lại, ráng chịu!”
Hơi cụt hứng với câu trả lời, nhưng
nhà binh mà, thi hành trước khiếu nại sau quen
rồi, chào PĐĐ. Th. trên điện thoại,
trả máy cho tướng H., tôi chào tay, xin phép ông
để ra quan sát băi biển rồi trở về
chiến hạm. Chờ tiếng đạn pháo thưa
bớt, anh tài xế tướng H. chở tôi ra băi.
Nh́n băi biển chạy dài trước mặt Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn với một cầu tàu
nhỏ nằm tận cánh trái của BTL, tôi ngao ngán
không biết làm sao để đo độ nông sâu
của vùng biển mà chúng tôi được chỉ
thị ủi băi đêm nay. Trở lại trực thăng,
tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy bên trong
chiếc máy bay nhỏ đă có cả chục người
đàn bà và trẻ con, bên ngoài lại c̣n thêm
một số người nữa đang xin được
theo lên. Anh Trung Úy phi công cười cầu tài,
giải thích rằng đây là gia đ́nh binh sĩ mà
anh quen, xin được ra tàu trước. Tuy chưa
có lệnh, nhưng thấy thật khó xử v́ các bà
ôm con nhao nhao năn nỉ, tôi đành để
những người đang ở trên máy bay ngồi
lại và yêu cầu anh phi công cất cánh ngay. Tôi cũng
chẳng muốn nh́ nhằng giữa vùng khói đạn
mịt mù trong những tiếng nổ lúc xa lúc
gần của những trái pháo đang liên tục rót
vào.
Đáp xuống chiến hạm, sau khi báo cáo những
sự việc vừa qua với hạm trưởng, các
sĩ quan được thông báo để chuẩn
bị nhân viên, súng đạn và dụng cụ cho
nhiệm sở ủi băi và tác chiến vào bất
cứ lúc nào.
Chiều xuống dần, hoàng hôn trên biển vẫn
thơ mộng như bao giờ. Trong vùng tối
nhạt nhoà, chân trời mờ dần rồi mất
hẳn, biển trời quyện vào nhau thành một. Trăng
trên biển, trong hơn, to hơn, treo lơ lửng. Ánh
sáng bàng bạc êm ái tỏa xuống mặt nước,
làm thắm thiết thêm những nhớ nhung lăng
mạng của “vầng trăng ai chẻ làm đôi,
nửa soi gối chiếc nửa soi dặm trường”
trong ḷng người đi biển… Hàng ngàn v́ tinh tú
lần lượt trải dài khắp bầu trời
nhung đen.
Hàng triệu đốm lân tinh li ti trong nước
chợt thức giấc, ngời sáng, đuổi
bắt, quấn quưt vào nhau theo từng cơn sóng.
Những đợt sóng đem lại cái cảm giác
ngầy ngật mà từ cao độ của đài
chỉ huy, khi ngón tay mát lạnh của những cơn
gió mặn mơn trớn trên da thịt, tôi từng chơi
vơi, ngỡ ngàng không biết ḿnh đang là cánh
chim dạ hành lẻ loi trên biển, hay là chú cá cô
đơn đang ngơ ngẩn ngắm trời đêm…
Nhưng hôm nay, với h́nh ảnh, gương mặt
thật gần của chiến tranh vừa trực
diện và trong cái nôn nao pha lẫn bồn chồn,
hồi hộp của những ǵ sắp đến, tôi
chẳng c̣n chút tâm hồn nào để mơ
mộng.
Càng vào đêm, những đường đạn
lửa bắn lên, đan chéo vào nhau từ phía bờ
Chu Lai càng nhiều, hằn rơ trên nền trời đen
thẫm. Những tiếng nổ ầm ́ vọng ra
chiến hạm. Hỏa châu bắn lên mỗi lúc
một nhiều. Khoảng chín giờ tối, chúng tôi
được lệnh ủi băi. Trời bỗng
trở gió lớn. Biển động mạnh.
Những làn sóng cấp hai rồi cấp ba liên
tiếp bổ vào phía sau lái của con tàu đang
tiến vào băi biển bên cánh phải, trước
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Nhiệm sở tác
chiến, trong vùng tối chập chờn, từ pháo
tháp của khẩu 40 đôi sân mũi, tôi thấy
những bóng đen hỗn độn kéo ra phiá bờ
biển. Tàu vào gần, họ kéo ra càng lúc càng đông.
Trong ánh hoả châu từ những cánh dù trắng,
chợt bừng lên, lơ lửng rồi vụt
tắt, những bóng người di động trên băi
biển lúc ẩn lúc hiện như đám ma trơi.
Bỗng nhiên, từ phía sau Bộ Tư Lệnh,
một đám lửa khổng lồ chợt bùng lên,
soi sáng cả một góc trời cùng một tiếng
nổ vang dội, tiếp theo bởi từng loạt
tiếng nổ, lớn nhỏ, liên tục chồng lên
nhau. Kho đạn sư đoàn phát nổ, không
biết là trúng đạn pháo kích hay tự phá
hủy. Hàng ngàn tia lửa đua nhau vụt bắn lên
tứ phiá trong những tiếng nổ hăi hùng.
Một màng lưới kinh hoàng như bỗng dưng
chụp thẳng xuống đám đông trên bờ
biển, lúc này đă lên đến hàng trăm.
Cảnh hỗn loạn bắt đầu diễn ra.
Từ trên pháo tháp, tôi nh́n thấy vài ba chiếc
thiết vận xa lội nước M113 hoảng
hốt lao từ phiá trong ra bờ biển. Trên nóc xe,
những người lính bộ binh bám kín đen, như
đám kiến trên cục đường.
Xe nhào ra, nghiêng ngả như người say, cán càn
qua những người phía trước chưa
kịp tránh. Tàu tiến vào gần. Neo sau đă
thả. Hai cánh cửa trước mũi tàu vừa
được mở ra. Cửa đổ bộ bên
trong đang được chuẩn bị. Cửa
đổ bộ hay c̣n gọi là cửa ram là một
tấm sắt nặng hai tấn, một đầu
nối liền với sàn tàu của hầm chiến
xa, đầu kia được treo lên, khi hạ
xuống trông như một cái lưỡi dài thè ra
từ cửa miệng chiến hạm. Cách bờ
khoảng hơn trăm thước, tàu chợt đứng
sựng lại. Điều chúng tôi hy vọng không
xảy ra, đă xảy ra, băi biển quá cạn v́ cát
bồi, tàu không thể vào gần hơn. Cố
gắng nhưng không thể tiến thêm được,
HT. ra lệnh bắn dây mồi. Dây mồi là một
sợi dây nhỏ mà một đầu đă
được cột vào cái tḥng lọng của
sợi dây cáp ny lông lớn gài trước mũi tàu,
đầu kia được bắn lên để người
trên bờ có thể dùng sợi dây mồi kéo đầu
sợi cây cáp lớn vào, cột lên một mốc
giữ vững chắc trên bờ. Vất vả
lắm chúng tôi mới ra hiệu cho những người
đang hốt hoảng trên bờ để cột
được đầu dây cáp ny-lông vào một cái
neo thật to, chôn sẵn trên băi.
Trên băi biển dài hơn hai cây số phiá trước
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn người ta ùa ra
như kiến vỡ tổ. Cả lính, cả dân, tay
bồng tay bế, họ chạy tất tả, mắt
hướng về chiến hạm. Trong tiếng sóng
vỗ ầm ́, tiếng gió rít lạnh lùng, tôi tưởng
như c̣n nghe được cả những tiếng
thét, tiếng gào thất thanh, lạc lơng trên bờ
biển. Những ngựi lính súng trên tay, dây lưng
đầy lựu đạn, ba lô hành quân nặng chiũ
phiá sau, là những người đầu tiên lội
ùn xuống biển, mặc cho những đợt sóng
lớn vô t́nh đập liên tục, không thương
tiếc. Ngă xuống, có người ch́m hẳn, có người
gượng đứng lên tiếp tục vùng
vẫy, tuyệt vọng lội về phía chúng tôi.
Cửa đổ bộ được hạ
xuống. Vướng vào cát, cánh cửa chỉ
xuống cách mặt nước hơn một thước
th́ ngừng lại. Trên cửa đổ bộ, tôi và
những anh em trong ban chuyển vận, súng M16 trên tay,
dàn hàng ngang chuẩn bị. Trước mắt chúng tôi,
chỉ khoảng hơn một trăm thước
từ tàu đến bờ biển, đă có cả
chục xác người dập dềnh trong sóng
biển. Những người lính hốt hoảng
đáng thương, nhào xuống biển với
cả mũ sắt, giày bốt và quân dụng
nặng nề, trước những đợt sóng
biển tàn nhẫn bất thường, đă
kiệt sức, xuôi tay chấp nhận cái chết
đến thật t́nh cờ. Số người
chạy xuống biển càng lúc càng tăng. Vài người
lính đầu tiên đă lội tới chiến
hạm. Tấm sắt cửa đổ bộ hạ
xuống hết vẫn c̣n cao đến ngực. Chúng
tôi quăng dây thừng hay đưa đầu súng
cho họ nắm để kéo lên tàu. Những người
mới lên, được yêu cầu bỏ hết quân
dụng, vũ khí vào một góc để phụ kéo
những người khác vừa lội đến.
Trong ánh lửa bập bùng, một chiếc thiết
vận xa như một con cá mập khổng lồ
bỗng lừ lừ tiến đến, đâm
sầm vào cánh cửa đổ bộ đang nhấp
nhô theo từng cơn sóng. Cùng với tiếng va
chạm chói tai của hai tảng sắt là những
tiếng thét hăi hùng và những thân người
từ chiến xa bị ném tung lên, người th́
rớt xuống biển ngoi ngóp lội, người th́
rơi lên cửa đổ bộ quằn quại
đau đớn. Chiếc thiết vận xa bị vào
nước ch́m dần, những người bên trong
vội vă chui lên nhảy xuống biển thoát thân, người
nọ đè lên người kia trong hỗn loạn.
Một cảm giác lạ lùng ập đến tự
lúc nào. Tôi bỗng thấy như đang đứng
trong một cơn mê, thản nhiên nh́n một cảnh
tượng thật quái dị, kinh hoàng và thấy
cả chính ḿnh trong đó. Đầu óc tôi như tê
dại đi, dường như tôi không c̣n nắm
được cảm nghĩ, cảm giác nào. Cái
sống, cái chết bỗng không c̣n một ư nghiă ǵ
đặc biệt. Sinh mạng những con người
trước mặt tôi bỗng chẳng c̣n mang chút giá
trị nào, chỉ như những con sâu, con kiến, mà
sợi dây xích khổng lồ, tàn nhẫn, của bánh
xe chiến tranh đang lăn qua một cách thật vô
t́nh.
Sự hoảng hốt của những người trên
bờ biển, cả lính lẫn dân, từ hàng trăm
lúc này có thể lên đến cả ngàn người,
dường như đă lên dần đến cực
điểm. Trong những tiếng nổ của kho
đạn lẫn trái pháo càng lúc càng dữ dội cùng
tiếng gào của mẹ lạc con, vợ mất
chồng, tôi bỗng nghe vài tiếng súng thật
gần. Anh thủy thủ giữ máy báo cáo là sân mũi
cho biết có người ném lựu đạn lên tàu.
Chưa kịp hỏi lại, th́ một tiếng
nổ chát chúa dội lên chỉ cách vài thước.
Thấy cảm giác là lạ, tôi đưa tay lên
vuốt mặt, giật ḿnh nh́n lại bàn tay đầy
mồ hôi và nước biển gị đă pha lẫn màu
máu đỏ. Máu của những nạn nhân qủa
lựu đạn vừa nổ giữa đám người
đang chen lấn để vào bên trong. Ngước
mắt nh́n, thành tàu đă dính bầy nhầy
những mảnh da thịt tả tơi, những ngón
tay lẫn ngón chân rời ră. Tiếng kêu gào vang
dội, bị át dần bởi tiếng sóng lẫn
những tiếng nổ ầm ́. H́nh như một
mảnh đạn nào đă đi sát qua trán tôi và
để lại một vết sướt rịn máu,
rát cả một bên mặt khi chạm phải
những giọt nước biển đang bắn lên
tung tóe.
Không t́m được người thủy thủ
cầm máy, tôi rời cửa ram chạy trở ngược
lên sân mũi. Leo lên pháo tháp, tôi giật vội
chiếc mũ truyền tin trên đàu anh liên lạc
viên để báo cáo thẳng với hạm trưởng
trên đài chỉ huy về t́nh h́nh hỗn loạn,
không c̣n kiểm soát được. Với khoảng
cách xa bờ và cơn biển động, sự
hiện diện của tàu tại vị trí này
chỉ gây thêm nhiều thương vong, mà số người
lên được không có là bao, tôi đề
nghị ông t́m một giải pháp khác. Đang băn
khoăn chờ đợi câu trả lời, th́ đầu
tàu bỗng bật tung lên cao theo một cơn sóng
lớn. Không chịu nổi những đợt sóng gió
hung hăn, liên tục quật vào hai bên chiến hạm,
sợi dây cáp ny lông to bằng cổ tay cột vào
bờ để giữ đầu tàu, đă bị
giật đứt. Với sức đàn hồi
khủng khiếp, khúc dây bật lại, uốn éo phóng
ngược trở lên tàu như một con xà vương
vĩ đại, thân dây chạm vào sàn sắt
của tàu, nẹt thành những tia lửa ngoằn ngoèo
như ánh chớp trong đêm mưa.
Tôi bỗng nghe một tiếng nổ thật to và
thật gần, từ ngay trong chiếc mũ liên
lạc đang đội rồi mắt tối sầm
lại, không c̣n biết ǵ nữa. Mở choàng
mắt ra, tôi ngạc nhiên thấy ḿnh đang nằm
trên sàn tàu ướt lạnh, cổ và vai đau như
găy, chiếc mũ liên lạc lủng lẳng, đu
đưa theo sợi dây đen ḷng tḥng dính vào ổ
cắm của ụ súng cao hơn bốn thước
phiá trên. Một hạ sĩ quan sân mũi đang
đỡ tôi đứng dậy. Anh nói khúc dây
bật lại đă đánh rớt một nhân viên
xuống biển, đầu dây quật trúng, hất tôi
từ pháo tháp văng xuống sàn tàu.
Hạm Trưởng đă ra lệnh cho hai máy lùi,
đóng cửa và kéo neo sau để rút tàu ra. Tôi ôm
đầu trong cái ê ẩm c̣n sót lại, bùi ngùi nh́n
sự tuyệt vọng của đám người
đang tận lực cố lội đến
chiến hạm. Tàu lạnh lùng lùi dần trong
những tiếng la hét, cầu cứu, nguyền
rủa. Chỉ c̣n một biện pháp cuối là
cập cầu. Trong cơn biển động, chúng tôi
hướng mũi qua phải, dập dềnh đi
về phiá cầu tàu ở cánh trái BTL Sư Đoàn.
Đám người trên băi cũng bắt đầu
chuyển hướng theo.
Tàu tiến đến cầu ở một góc 30 độ.
Những trái độn bên tả hạm được
thả xuống. Cách cầu khoảng chục thước,
chúng tôi ném dây mũi và hai dây tả hạm đồng
thời gọi loa yêu cầu những người lính
đang đứng chật trên cầu để tṛng
đầu dây vào những cọc sắt cột tàu,
trong lúc anh em sân mũi chuẩn bị để
thả hạm kiều, một chiếc cầu thang
sắt với khoảng hơn một thước
bề ngang. Trước sự ngạc nhiên của chúng
tôi, người lính nắm được đầu
dây thay v́ móc vào cọc sắt cột tàu th́ đă
phóng xuống, đu ḿnh theo dây để cố leo lên
tàu trước một ḿnh. Hai người lính
với hai đầu dây khác cũng phóng theo.
Họ đong đưa trên dây, đạp chân vào thành
tàu ngoi ngóp leo lên. Sóng nhồi, tả hạm của tàu
đập từng hồi vào thành cầu. Những trái
độn nhỏ bé không đủ làm giảm
sức va chạm và chẳng mấy phút sau những người
lính vội vă này đă tuột tay, rơi thẳng
xuống biển. Tôi không nh́n theo để khỏi
phải chứng kiến cảnh tượng các thân xác
người đang bị thành tàu ép nghiến vào
những cây gỗ chân cầu theo từng cơn sóng
đẩy đưa.
Cuối cùng chúng tôi cũng cột được
một dây mũi và một dây lái. Biển đang
trong cơn nước lớn, thành tàu cao hơn
mặt cầu quá nhiều. Chiếc hạm kiều
(cầu thang) thả xuống vừa chạm đất
th́ đám người đă ồ ạt, xô đẩy,
dành nhau để lên tàu. Đầu hạm kiều
phiá trên chưa kịp cột lại. Một cơn sóng
lớn đẩy tàu nhích ra ngoài, chiếc hạm
kiều chỉ mới được đặt ghé
hai đầu đă bật ra, rơi ùm xuống
biển, mang theo một đám người trên đó.
Chúng tôi vội vàng đẩy chiếc hạm
kiều thứ hai nhỏ hơn bằng gỗ
xuống thay. Với sự chen lấn hỗn loạn,
dưới trọng lượng của số người
cố đạp lên nhau để leo lên hạm
kiều, chỉ vài phút sau chiềc cầu thang gỗ
cũng lại chung số phận hẩm hiu, lật
theo xuống biển. Chỉ c̣n lại một
chiếc hạm kiều nhỏ xíu cuối cùng chúng tôi
cũng phải mang ra nốt. Hạm kiều quá
nhỏ, bề ngang chỉ đủ cho từng người
một, lại gây thêm náo loạn trong đám đông
bên dưới, đang chờ đợi trong cái điên
cuồng của những con thú bị dồn đến
chân tường. Chúng tôi phải tung hết những
tấm lưới đổ bộ đan h́nh mắt
cá xuống thành tả hạm để cho họ leo lên.
Lưới đổ bộ dành cho những người
lính đă được huấn luyện từ quân
trường, chỉ để leo xuống đă là
một việc khó khăn. Nhưng trong lúc này, dường
như sự sợ hăi đă làm mọi người
điên dại, họ bất kể sự nguy hiểm
trước mắt, xô đẩy nhau để bám víu
lấy bất cứ một cơ hội mong manh nào có
thể đem họ ra khỏi vùng điạ ngục
kinh hoàng.
Những tiếng la hét thất thanh ở phiá sau lái làm
tôi chạy vội xuống. Một cảnh tượng
khiến tôi lạnh người, sửng sốt. Trên
sợi dây cáp ny-lông đong đưa, nối từ
sau lái xuống cầu tàu, một người con gái
với hai chân quặp vào dây, mặt ngửa lên
trời, hai tay cô đang lần từng gang, ḅ dần
về phiá chiến hạm. Sau lưng là một
đưá bé nhỏ như trẻ sơ sinh, được
quấn chặt vào người cô bằng một
tấm khăn trắng trải giường. Đưá
bé không động đậy, không biết là c̣n
sống hay đă chết. Cô gái chỉ c̣n cách tàu
chừng ba thước, nhưng phần cuối dây
lại là khoảng cách có độ dốc nhiều
nhất, cô ngưng lại thở hổn hển như
đă kiệt sức. Một nhân viên sau lái, nối
tay với một nhân viên khác, chân đạp vào thành
tàu chồm hẳn ra phiá ngoài chờ đợi.
Những nhân viên chung quanh, đầy vẻ khẩn trương,
hoà giọng hô từng hồi khuyến khích: “Ráng lên
… Tới rồi…
Ráng lên !!” Như đáp lại sự khích lệ, cô
gái trườn lên, vừa đúng lúc người
thủy thủ chờ đợi chồm tới,
chụp được cái cổ tay gầy guộc. Tôi
thở ra một hơi thật dài như không biết
đă nín thở từ lúc nào, rồi chạy vội
về sân mũi.
Vừa đúng lúc để nghe lệnh Hâm Trưởng
qua anh thủy thủ giữ máy cho rút hạm kiều
và tháo dây rời bến, nhường chỗ cho
một chiếc hải vận hạm (lọai 400
nhỏ hơn) vào thay thế. Trời đă tờ
mờ sáng. Trong ánh sáng nhợt nhạt, những nét
đau đớn, tuyệt vọng trên khuôn mặt
đám người hốt hoảng c̣n lại trên
cầu tàu hiện ra thật gần. Ngôn ngữ không
c̣n tác dụng ǵ với những người đang
ch́m sâu trong nỗi kinh hoàng, chúng tôi phải dành
giật để kéo lại chiếc hạm kiều
duy nhất. Nhân viên sân mũi, đă chặt dây
cột tàu bằng buá pḥng tai để chiến
hạm có thể tách bến. HQ505 chỉ đón
được một số nhỏ v́ sự hỗn
loạn của cuộc di tản thiếu tổ
chức và hoàn toàn vô trật tự. Quanh tôi,
những người vừa leo lên được
đang nằm ngồi ngả nghiêng đầy bong tàu.
Anh em thủy thủ đoàn, những gương
mặt hốc hác sau một đêm dài không ngừng
nghỉ, tiếp tục làm việc, xếp đặt
chỗ ở tạm và săn sóc những người
bị thương. Trong cái đau nhức và mỏi
mệt, với thần kinh căng thẳng của
gần suốt 24 tiếng liên tục, tôi vào pḥng
ngủ thiếp đi lúc nào không biết, cho đến
khi Cần đánh thức tôi dậy đi ca. Tàu
trực chỉ Đà Nẵng theo lệnh của BTL Vùng
I Duyên Hải.
Đà Nẵng:
Qua khỏi cù lao Chàm, tàu đổi hướng
tiến về phía cửa Đà Nẵng. Chiến
hạm bắt đầu đong đưa như
chiếc vơng. Những làn sóng ngang, đẩy dài,
nhẹ nhàng, êm ái như ru ngủ, nhưng cũng chính
là những cơn sóng hành hạ các tay đi biển
thê thảm nhất (như những cô thiếu nữ
mang dáng vẻ dụt dè – dễ làm bé cái nhầm
– của miền Trung!) Thêm hai lần đổi
cấp, tàu đă nằm trên trục thẳng vào băi
ủi Trịnh Minh Thế, ngang trường trung
học Sao Mai.
Đà Nẵng với HQ505 có thật nhiều kỷ
niệm. Nhiệm sở ủi băi, từ pháo tháp sân
mũi, những khung cảnh thân thương của dăy
phố chợ quen thuộc chạy dần qua hữu
hạm. Bến đ̣ vẫn tấp nập với
những chiếc tam bản, nước ngập
gần đến mí, đưa đón khách sang sông.
Với những chiến hạm lớn như 505, vào
cửa Đà Nẵng tuy không khó, nhưng cần
phải có một chút kinh nghiệm và chính xác. Ngang
bến đ̣, gần giữa ḍng sông là một
cồn cát lớn, nằm ch́m dưới mặt nước.
Để tránh mắc cạn, tàu phải đi sát vào
bến chợ, chỗ mà những con đ̣ nhỏ nườm
nượp ra vào. HQ505 đă có dịp nằm phơi
nắng trên cồn cát một lần trước
đó v́ quá cẩn thận, tránh bến đ̣ hơi
xa.
Tàu cập bến, những người di tản đă
xuống. Sau khi chia nhiệm sở cho nhân viên, tôi
chở Tăng, cậu em trai, ra thăm ông anh lớn,
con nuôi bố mẹ tôi, ở gần bên chợ
Mới. Bước vào nhà, tôi đă thấy có điều
bất thường. Ông anh đầy vẻ khẩn
trương xin tôi đưa gia đ́nh lên tàu để
vào Sài G̣n trước. Ông ở trong binh chủng Quân
Nhu với cậu con lớn là pilot trực thăng
của Không Quân vùng Một đóng tại Đà
Nẵng quyết định ở lại đến
giờ chót! Tôi chưa kịp có dịp cho cậu em
thưởng thức món bún ḅ gị heo độc đáo
của Đà Nẵng, th́ đă phải vội vàng
thu xếp để đưa cả bảy người
trong gia đ́nh anh tôi về chiến hạm.
Trở lại bến, tôi ngạc nhiên trước
cảnh huyên náo, đông đúc khác thường
của căn cứ chuyển vận nơi tàu đang
đậu vào chiều hôm ấy. Từng nhóm,
từng gia đ́nh đứng ngồi rải rác
khắp nơi, hành trang bên ḿnh như chuẩn bị
ra đi. Cửa chiến hạm đóng kín, hạm
kiều để lên xuống đă được
cất đi tự lúc nào. Mở hé cánh cửa đổ
bộ cho tôi và gia đ́nh ông anh lên tàu, nhân viên
trực phải vất vả ngăn cản những
người khác trên bến đang tấn lên chen
lấn, muốn uà vào theo. Bước vào hành lang carré
sĩ quan tôi ngạc nhiên khi thấy Symi và Duyên, em gái
người bạn HQ. Duyên nước mắt long lanh
cho biết t́nh h́nh bên ngoài rất nghiêm trọng,
mọi người đang t́m chỗ đi lánh
nạn, hai cô vừa được Cần quăng dây
xuống bến kéo lên. Tôi t́m vài câu an ủi rồi
đi dọn pḥng cho gia đ́nh ông anh ở tạm.
Tàu phải rời bến ngay trong đêm để di
chuyển ra cửa Đà Nẵng, trước BTL/HQ Vùng
Một Duyên Hải chờ lệnh. Chưa có lệnh
cho di tản và tàu c̣n nguyên 2000 tấn đạn
từ lúc ra đi, chúng tôi chỉ có thể cho
một số quân nhân, người quen và thân nhân
của các anh em cơ hữu lên tàu, trước khi
rời bến Trịnh Minh Thế, trong sự ngỡ
ngàng, thất vọng của những người
đợi chờ trên bến.
Ra đến cửa Đà Nẵng th́ trời đă sáng,
tàu thả trôi chờ lệnh. Một chiếc ghe
đầy ắp dân cặp vào bên hữu hạm và có
ai vừa quăng chiếc cầu thang dây xuống cho
người trên ghe leo lên. Lập tức cả hàng
chục chiếc ghe khác ùn ùn kéo tới. Hai máy
tiến một, HQ505 chậm chạp dời chỗ
để tránh các ghe dân, càng lúc càng xông đến
nhiều hơn, táo bạo hơn. Từ đài
chỉ huy, đang bận rộn quan sát các tàu bè qua
lại tới tấp trước mũi, tôi bỗng
nghe tiếng kêu ơi ới: “Cường ơi,
thằng em mày kẹt lại dưới ghe đàng sau
kià!” Bố khỉ, th́ ra thằng em tôi đă leo
xuống “làm công tác xă hội” giúp người dưới
ghe từ lúc nào. Tàu chạy, Tăng c̣n kẹt
lại, may mà Cần trông thấy. Tôi phải ra
lệnh ngưng máy để chờ cho chiếc ghe
cặp trở lại và cho thằng em tôi leo lên. Đang
sỉ vả cậu em ẩu tả th́ một loạt
súng đại liên chát chúa từ phiá cánh trái
của pḥng lái khiến tôi chồm vội ra nh́n
xuống. Cần đang đứng bên cạnh
khẩu 30 ly nghi nghút khói và phiá dưới các
chiếc ghe bạo dạn đang dạt ra ngoài sau
loạt đạn cảnh cáo. Chiều xuống, chúng
tôi được lệnh về Cam Ranh.
Cam Ranh:
Tại bến quân vận Cam Ranh, bên cạnh HQ505 c̣n
thêm một dương vận hạm và một
hải vận hạm mà tôi không nhớ số. Đám
bạn trên chiếc hải vậm hạm cho biết là
cả tướng Tr., Tư Lệnh Vùng Một, và tướng
L., Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, cũng có
mặt trên đó. Từ lúc ấy tôi bắt đầu
suy tư nhiều về t́nh h́nh cuộc chiến và
số phận chung của miền Nam. Càng ưu tư
hơn khi nhớ lại mẩu chuyện mà một người
Thiếu Úy trẻ TQLC lên tàu ở Đà Nẵng
đă kể lại rằng đơn vị anh đang
hành quân th́ có lệnh rút lui, từ đó VC chỉ bám
theo bắn sẻ và pháo kích, gây thật nhiều
tổn thất. Anh đă thất lạc đơn
vị, lên tàu chỉ với đôi chân trần và
bộ quân phục rách nát dính trên người khi
đến hỏi xin tôi đôi dép đi tạm. Thêm
vào đó, Hiền, cậu con lớn ông anh tôi ở
Đà Nẵng, trước khi gửi vợ con lên tàu
đă thủ thỉ rằng hắn chưa đi
được v́ vừa bị chỉ định
xử lư thường vụ trông coi phi trường
Đà Nẵng. Thêm một dấu hỏi thật
lớn với một SQ phi công trực thăng ở
cấp bậc Đại Úy. Chuyện ǵ đă, đang
và sắp xảy ra??!!
Tưởng được về Sài G̣n nhưng chúng
tôi lại có chỉ thị đem số đạn dược
trở ra Thuận An, Huế. Trước tin đó,
chị dâu tôi và đám cháu quyết định
xuống Cam Ranh để t́m đường bộ
về Sài G̣n trước. Một quyết định
mà tôi đă đồng ư và ân hận thật
nhiều chỉ một ngày sau đó, ngày mà chúng tôi
phải rút khỏi băi để ra thả neo ở bên
ngoài v́ t́nh h́nh Cam Ranh bỗng trở nên rối
loạn. Quân trường HQ Cam Ranh có lệnh di
tản trong đêm hôm trước. Từng đoàn dân
chúng lại lũ lượt kéo nhau ra băi biển. Không
c̣n chiến hạm HQ nào trên bến, họ t́m cách
để ra những chiếc xà lan trần trụi
cột ở những chiếc phao nổi bên ngoài
với hi vọng là sẽ được những
chiếc tàu kéo của quân vận lôi đi. Trên tàu
đă gần hết thức ăn tươi, tôi theo
mấy chú em ẩm thực vào bờ đi chợ
bằng chiếc tàu đổ bộ LCVP nhỏ.
Dặn mấy chú ẩm thực cố đi thật
nhanh, nếu không t́nh h́nh rối loạn có thể
sẽ không cho phép chúng tôi đón họ lên trở
lại.
Tôi chờ trên chiếc LCVP với cái hi vọng mong
manh và bất thành là được thấy gia đ́nh
chị dâu tôi trở lại bến. Nửa tiếng
sau chúng tôi rời băi sau khi khổ sở từ
chối những lời nải nỉ khẩn khoản
xin theo của những người trên bến dù đă
hết sức giải thích rằng chúng tôi sẽ
trở ra vùng điạ đàu khói lửa, thay v́ xuôi
xuống phiá Nam như họ nghĩ. Trên đường
trở lại chiến hạm, tôi ngạc nhiên nh́n
thấy vài con cá mập lội lập lờ gần băi
một cách khác thường, có phải là chúng đă
đánh hơi thấy mùi máu người đâu đây
hay chăng?! HQ505 trở đầu ra cửa Cam Ranh,
tiếp tục chuyến công tác ngược về phiá
bắc.
Phan Thiết:
Hai ngày sau, đang trên hải tŕnh về hướng
Thuận An, với Đà Nẵng nằm xa bên tả
hạm, chúng tôi lại được gọi trở
ngược về Phan Thiết. Lư do: có tin máy bay VC
từ hướng Ḥn Cọp đă bay vào đột
kích?? Trở về ngang cù lao Chàm, hạm trưởng
cho lệnh thực tập tác xạ, bắn vào
những ḥn đá nhỏ xa bên ngoài cù lao. Hơn hai năm
đi biển trên LST, mà có lẽ kể cả từ
lúc lănh tàu, lần đầu tiên những khẩu
đại bác 40 ly được xử dụng đến.
Chả trách mà tài thiện xạ của chúng tôi
đă rủ nhau đi chơi chỗ nào mất
biệt!
Đến bên ngoài Phan Thiết, HQ505 thả trôi vài
hải lư cách bờ biển. Cuộc điện đàm
với giới chức liên hệ trên bờ về
việc đổ đạn không có câu trả
lời dứt khoát. Hạm trưởng quyết định
vào tận nơi thảo luận. Tôi và ba nhân viên
nữa tháp tùng ông, xuống LCVP rời chiến
hạm. Hơn nửa giờ luồn lỏi theo con sông
nhỏ, chúng tôi vào tận trung tâm thành phố và
cột tàu ở chân cầu đối diện Bộ
Chỉ Huy Tỉnh. Bên trong chúng tôi được
tiếp bởi một ông Thiếu Tá bộ binh, ông
cho biết là VC đă xâm nhập vào trong thành
phố, số đạn nếu đổ xuống có
thể chỉ để lại cho VC dùng mà thôi.
Với tin này, HT. Nh. và tôi rời BCH trở về nơi
ba nhân viên chiến hạm đang chờ đợi.
Ngần ngừ trước khi leo vào LCVP, cả nhóm
đang thèm được một tô ḿ ở quán
chợ ngay bên cạnh, nhưng trong tiếng súng
mỗi lúc càng nhiều và rơ hơn chúng tôi đành
vuốt bụng xuống LCVP trở về chiến
hạm.
Tuy Hoà:
Không xuống đạn ở Phan Thiết, chúng tôi có
chỉ thị đưa vào Tuy Ḥa. Một quyết
định quá muộn màng. Từ xa chúng tôi đă
quan sát được phi trường Tuy Hoà vật vă
dưới trận mưa pháo kích. Những trái đạn
rót ra tận biển, tuy thưa thớt nhưng đủ
đe doạ để giữ chiến hạm nằm
lại ngoài tầm tác xạ, với 2000 tấn đạn
chở trên tàu chỉ cần lănh một trái pháo,
HQ505 sẽ nổ tung thành những mảnh vụn và
biến mất không c̣n một dấu vết nào. Công
điện đến, chúng tôi được gọi
nhập chung với số chiến hạm có mặt
trong vùng để cùng tiến vào Cà Ná, Phan Rang.
Phan Rang, Cà Ná – Mũi Sừng Trâu:
Điạ danh có tên trên hải đồ là Mũi
Sừng Trâu hay Mũi Dinh. Đúng như tên đặt,
vịnh Cà Ná nằm sâu hẳn vào trong, với
những dăy núi thấp xếp thành ṿng cung chạy dài
ra hai bên như hai cái sừng, như hai cánh tay
trần ôm hờ hững cả một vùng nước
xanh thơ mộng. Cà Ná là băi biển nên thơ
nhất của vùng Hai duyên hải. Biển êm, trong
xanh với cát trắng nơn nà. Vốc lên, trong ḷng bàn
tay, những hạt cát tṛn nhỏ theo nhau chảy qua
kẽ hở thành những ḍng sữa trắng mịn
màng. Chỉ có cái thiên nhiên, thơ mộng của băi
biển Thuận An ở Huế mới có thể so sánh
được với Cà Ná của Phan Rang.
Buổi sáng hôm ấy bốn chiến hạm HQVN trong
nhiệm sở tác chiến theo hàng một tiến vào
Cà Ná. Đi đầu là hộ tống hạm HQ11,
theo sau là dương vận hạm HQ503, kế đến
là chiếc hải vận hạm HQ402, và sau cùng là
HQ505. Trên đường vào, chúng tôi vẫn duy tŕ liên
lạc truyền tin với các chiến hạm và
đơn vị bạn trên bờ. Mọi việc
tiến hành trôi chảy. Trong ống ḍm từ
chiến hạm, chúng tôi có thể nh́n thấy
những khẩu đại bác 105 ly của pháo binh
bạn đặt trên núi liên tục bắn vào phiá
trong yểm trợ. Khi chiến hạm tiên phong, HQ11, vượt
qua khỏi Mũi Sừng Trâu trên đường
tiến vào trong vịnh, th́ HQ505 mất liên lạc
với đơn vị trên bờ.
Khi chiến hạm thứ ba, HQ402, vừa tiến qua
khỏi Mũi Sừng Trâu và HQ505 c̣n cách phía sau
chừng hai hải lư, th́ bỗng nhiên một loạt
đại pháo nổ tung khắp nơi trên vùng
biển trước mặt chúng tôi. Từng cột nước
lớn bung lên, theo sau bằng những tiếng nổ
nặng nề. Trên pháo tháp trước mũi tàu,
từ chiếc mũ liên lạc với đài chỉ
huy, tôi nghe tiếng HT Nh. vội vă ra lệnh cho hai máy
ngưng, rồi hai máy lùi một. Chiếc 505 vẫn dùng
dằng tiến về phiá trước như con
ngựa bất kham. Chỉ một vài phút ngắn
ngủi trước khi chiến hạm ngưng hẳn
mà tôi tưởng như dài vô tận, như thời
gian đă đứng lại, ngừng trôi. Thân tàu
rung bần bật từng hồi như tàu lá
chuối trong cơn mưa lũ. Thần kinh căng
thẳng, các mạch máu trên đầu như đánh
nhịp theo từng viên đại pháo nổ tung trên
biển, làm dựng lên những cột nước
trắng xóa, đang di chuyển dần về phiá
chiến hạm.
Chiếc HQ505 ngưng hẳn rồi chậm chạp lùi
dần. Thân tàu vẫn rung bần bật với
tiếng máy gầm giận dữ, trong màn khói mịt
mù toả ngược lên bong, từ những ống
thoát hai bên thành chiến hạm phiá sau lái. Tàu ra xa
dần, khỏi tầm những viên đại pháo
đang tiếp tục rót xuống. Chúng tôi nghe tin hai
chiến hạm HQ11 và HQ503 trúng đạn. HQ11 đang
tập tễnh trở ra nhưng HQ503 th́ đă bất
khiển dụng.
Mời
xem: Trận
Chiến tại vùng Cà Ná, Mũi Dinh 18.04.1975: Tác giả
Nguyễn Văn Phảy, cựu HQ trên HQ 503
http://navygermany.gerussa.com/main/diendanbandoc/baivothutin/baibandoc/Tran%20Chien%20Mui%20Dinh_18April1975.htm
Hộ
Tống Hạm HQ 11- Những Ngày Biến Loạn Tháng
Tư Đen:
Tác giả Vũ Ngọc Văn, cựu HQ trên HQ 11
http://navygermany.gerussa.com/main/diendanbandoc/baivothutin/baibandoc/Tran%20Chien%20Mui%20Dinh_HQ11_n.htm
Măi
đến sáng hôm sau, khi bắt đầu quay trở
về Vũng Tàu theo chỉ thị, chúng tôi biết
thêm là HQ503 đă được HQ402 ḍng ra bên ngoài
để kéo về Sài G̣n (?).
Tin sơ khởi cũng cho biết chúng tôi bị
tấn công bởi đại pháo 130 và hoả
tiễn 122 ly của VC từ Quốc Lộ 1 chạy sát
bên vịnh, đài chỉ huy 503 trúng đạn, ba SQ
và một Th.S. giám lộ tử thương tại
chỗ, hạm trưởng HQ503 bị thương
ở đầu. HQ11 cũng có một số thương
vong khi đạn đại pháo trực xạ xuyên
từ thành tàu bên này qua hẳn bên kia. Với
những biến động lịch sử liên
tiếp xảy ra trong những tuần sau đó, tôi
đă không có dịp để biết thêm và ngay
cả đi đưa đám thằng bạn cùng
ở trong Cư Xá Đô Thành đă tử trận trên
chiếc 503 ngày hôm đó.
Cặp cầu Vũng Tàu, những người di
tản trên chiến hạm đă xuống hết.
Số đạn lôi đi khắp miền Trung không
chỗ thả cũng được cho xuống
bến. Tôi để Tăng đi xe đ̣ trở
về Sài G̣n. Thằng em chưa hề biết mùi nhà
binh, tưởng được đi du lịch
miền Trung, hoá ra chỉ được nếm mùi
bom đạn và chứng kiến những thảm
cảnh tàn khốc, phi nhân của cuộc chiến và
thiếu chút nữa th́ chính nó cũng trở thành
một nạn nhân chiến cuộc nếu con nhà
Cần không nh́n thấy kịp lúc c̣n sót lại trên
ghe ở cửa Đà Nẵng. Điều an ủi là
dường như cậu em tôi trở về trong
mối t́nh vưà chớm nở với một nàng
nữ sinh lên tàu cùng gia đ́nh từ ĐN.
Phan Thiết:
Lấy thêm dầu nước, đi chợ xong, HQ505
rời Vũng Tàu trong Lực Lượng Giải Phóng
Miền Trung dưới quyền tư lệnh mặt
trận của Phó Đề Đốc HCM. HQ505
được lệnh ra Phan Thiết với nhiệm
vụ di tản sư đoàn 22, BCH tại B́nh Định
(?).
Đến bờ biển Phan Thiết, theo tiêu lệnh
hải hành do hạm trưởng viết đêm hôm
trước tôi cho tàu vào cách Ḥn Bà hai hải lư
về hướng Bắc lúc sáu giờ sáng và cho nhân
viên thông báo với hạm trưởng. Lên đài
chỉ huy, giật ḿnh v́ tàu đă ở khá gần
bờ biển, ông vội vàng ra lệnh cho tàu ra xa hơn
để tránh khỏi tầm tác xạ từ phía
bờ biển. Th́ ra ông muốn vào cách Ḥn Bà hai
hải lư về hướng Đông, nhưng có
lẽ v́ mệt mỏi nên đă viết lầm. May mà
ông viết lộn qua hướng Bắc, chứ
nếu thành hướng Tây, tức là ngay sát bờ
biển, tôi ở cái tuổi háo động và hăng
tiết vịt ngày ấy, chắc cũng phom phom
dắt tàu vô chơi liền. Tàu ủi băi c̣n
được mà, sợ đếch ǵ !
Chờ bên ngoài hơn một tiếng th́ một
số ghe đánh cá đưa dân từ phiá Phan
Thiết cập vào chiến hạm. Chúng tôi thả
thang dây cho họ leo lên. Trong số những ngựi
đầu tiên từ ghe đến, có một người
Đại Úy bộ binh, ông xin gặp hạm trưởng
và yêu cầu chúng tôi vào đón Chuẩn Tướng
Đ.(?), Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, đang
chờ trên băi. Nh́n vào băi biển bằng ống ḍm
chúng tôi nhận ra tín hiệu của tấm gương
nhỏ phản chiếu lấp lánh, nơi chuẩn tướng
Đ. đang đứng cùng khoảng chục quân nhân
khác. Không thể vào tận nơi, chúng tôi điều
đ́nh với một chiếc ghe vừa có người
lên tàu, để vào đón, đổi lấy đầy
hầm dầu cặn cho ghe khi hoàn tất. Chủ ghe
đồng ư và trở vào phiá có tín hiệu.
Trong lúc ghe trên đường vào, th́ băi biển
bỗng náo động với những viên đạn
đại bác bắn ra từ phiá trong nổ tung trên
cát. Người trên băi chạy toán loạn khắp
phiá. Chuẩn tướng Đ. và đoàn tuỳ tùng
di chuyển ngược lên phiá Bắc, nhưng
chỉ vài phút sau, trên băi biển, từ sau hàng dương,
đă xuất hiện hai chiếc xe tăng, trông như
là loại T54. Một trong hai chiếc này cùng với
đám bộ binh tùng thiết VC chả mấy
chốc đă theo kịp chuẩn tướng Đ, và
trong ống ḍm, tôi ngậm ngùi quan sát h́nh ảnh
cuối cùng của vị chuẩn tướng bị
địch quân bắt dẫn đi khuất dần vào
bên trong.
Với sự hiện diện của hai chiếc
chiến xa VC, mọi người trên băi chạy ngược
vào trong, băi biển vắng hoe. Chúng tôi đă rút ra
xa khỏi tầm đạn pháo. Sau khi báo cáo t́nh h́nh,
chúng tôi có lệnh trở về Sài G̣n. Một
niềm vui bất chợt. Trên đường trở
ra từ Phan Thiết tôi thấy c̣n một hộ
tống hạm, h́nh như HQ13 với hạm trưởng
S., cũng vừa có mặt trong vùng.
Sài G̣n:
Tàu cập bến Tân Cảng bên cầu xa lộ. Vưà
cột dây, thả hạm kiều xong tôi đă có người
thăm ngay. Một người bà con làm việc
tại Tân Cảng lên cho biết là anh tôi, nhà văn
Nguyễn Đ́nh Thiều, mới qua đời trong
một cơn đau tim bất chợt. Đang trong cái
hớn hở trở lại Sài G̣n tôi bỗng
buồn rũ xuống. Chỉ mới ba tuần
của một chuyến công tác, sao quá nhiều
biến cố. Tôi không ngờ rằng cuộc đời
cuả cả hàng triệu người Việt Nam
đang đi vào một giai đoạn khắc
nghiệt nhất của khúc quanh lịch sử ngay
trong những ngày sau đó. Trên đường về
từ Tân Cảng, thành phố vẫn tưng bừng,
nhộn nhịp một cách thật xa lạ đối
với tôi. Anh em tôi về đến, cả nhà ai cũng
mừng. Với tin những chiến hạm bị trúng
đạn, mấy tuần nay, gia đ́nh tôi đă liên
tục ra vào BTL/HQ để ḍ hỏi tin tức
của HQ505.
Chỉ mấy ngày sau, tin thất thủ của các
tỉnh miền Trung, cao nguyên Ban Mê Thuột với
những mẩu chuyện thảm khốc, thương
tâm và h́nh ảnh cuộc di tản kinh hoàng, được
mệnh danh là di tản chiến thuật, đă liên
tiếp dội về. Đài BBC, đài VOA với
những bài b́nh luận bi quan về t́nh h́nh chiến
sự, quốc hội Mỹ cắt giảm ngân sách
viện trợ, các cơ quan Mỹ chuẩn bị
rời Việt Nam. Sài G̣n bỗng lên cơn sốt. Câu
chuyện đầu môi của mọi người là
ra đi. Nhưng đi đâu?! Đi bằng cách nào?!
Có lẽ ngoại trừ một thiểu số
rất nhỏ, hầu như không ai có câu trả
lời!! Trong cơn sốt ấy, HQ505 lại có
lệnh đi công tác Phú Quốc.
Với h́nh ảnh đau thương của chuyến
công tác vừa qua c̣n hằn rơ trong kư ức. Tinh
thần chung của thủy thủ đoàn xuống
thật thấp. Từ lúc nhận lệnh công tác, chúng
tôi đă đôi lần thảo luận với
hạm trưởng Nh. để cho phép anh em
được đưa gia đ́nh đi theo. Với
tin một hạm trưởng loại 800 bị an ninh
giữ điều tra v́ đưa thân nhân xuống tàu,
hạm trưởng do dự nhiều nhưng cuối
cùng ông đồng ư. Chúng tôi thông báo cho tất
cả nhân viên để đưa thân nhân lên
chiến hạm. Mỗi người được phát
một tờ đơn trống đă có sẵn
chữ kư và dấu mộc chiến hạm để
có thể điền tên những người đi
theo với lư do dè dặt là xin quá giang ra Phú Quốc
t́m thân nhân thất lạc. Tờ giấy cần
thiết để đưa gia đ́nh vào cổng Tân
Cảng dưới sự kiểm soát của Quân
Vận và Quân Cảnh bộ binh.
Đa số anh em nhà ở Sài G̣n đă đưa gia
đ́nh lên tàu. Điều không may là ngày khởi hành
của chúng tôi bị hoăn lại bốn hôm. Khi HQ505
rời Sài G̣n một số nhân viên đă đem gia
đ́nh trở về v́ sự thiếu thốn phương
tiện trên tàu trong những ngày tŕ hoăn chờ đợi
tại bến, v́ những tin lạc quan tếu về
giải pháp chính trị với thành phần thứ
ba!! Kể cả những ông anh tôi trong quân đội
đă quyết định ở lại v́ không
muốn bỏ đơn vị cho đến “giờ
thứ 25″ và tin tưởng vào bộ Tổng Tham
Mưu không bỏ rơi chiến sĩ!! Cái lầm
lẫn đáng phục nhưng phải trả bằng
hơn mười năm đói khổ lầm than bên
cạnh cái chết trong các trại cải tạo heo hút
trên miền thượng du Bắc Việt.
Tàu rời Tân Cảng trưa ngày 26 tháng Tư. Chúng tôi
dàn chào dọc theo hữu hạm, cũng với
hồi c̣i và tay chào kính thường lệ khi qua trước
Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Không ai biết
rằng ḿnh đang chào vĩnh biệt Sài G̣n trong
bộ quân phục tiểu lễ trắng nghiêm
chỉnh và thân thương, chào lần cuối trong cái
kiêu hùng của những chiến sĩ Hải Quân
Việt Nam ra đi thi hành nhiệm vụ.
Vũng Tàu:
Buổi tối chúng tôi thả neo bên ngoài cửa Vũng
Tàu chờ đợi. Cũng vào đêm đó, kho
đạn thành Tuy Hạ trúng pháo kích. Đạn
nổ liên tục, cháy sáng rực một góc trời.
Sáng hôm sau, ngày 27 tháng Tư, hai chiếc tàu quân
vận LCM bắt đầu chuyển ra những máy móc,
dụng cụ cùng một số chuyên viên của
đài phát thanh Mẹ Việt Nam đặt tại Vũng
Tàu mà chúng tôi có nhiệm vụ đưa về Phú
Quốc để tái phối trí. Đến trưa, tàu
HQ từ Vũng Tàu bỗng lũ lượt kéo ra, duyên
đoàn 33 di tản. Một số lên HQ505, một
số khác đi thẳng về Sài G̣n.
Cần định theo một chiếc tàu dầu
về đón thêm gia đ́nh nhưng lại thôi v́ không
biết có trở ra được không. Tối đến
chúng tôi nghe tin Sài G̣n bị pháo kích.
Sáng 28, từng đoàn trực thăng của Đệ
Thất Hạm Đội từ ngoài khơi ào ạt
bay qua, hướng về phía Sài G̣n. Ghe chở dân và
lính của đủ mọi binh chủng từ Vũng
Tàu tuá ra HQ505 càng lúc càng đông. Một chiếc
trực thăng của KQ đáp xuống bong tàu. Người
pilot và gia đ́nh xuống xin đi. Rồi chiếc
trực thăng thứ hai đáp xuống, không c̣n
chỗ đáp cho chiếc thứ ba. Số người
chạy ra HQ505 tăng lên dần. Chiến hạm
chỉ khởi hành với 10 ngày lương thực
cho thuỷ thủ đoàn, tôi theo chiếc LCVP vào Vũng
Tàu đi mua thêm thực phẩm. Cách bờ không xa
lắm, tiếng súng nổ trên bờ trở nên
dữ dội hơn. Vài viên đạn súng cối rơi
ra biển, chúng tôi phải quay trở lại.
Tàu đánh cá mang cờ Công Giáo từ phiá Phước
Hải theo nhau kéo từng đoàn ra khơi, nơi có
dáng các chiến hạm thuộc Đệ Thất
Hạm Đội. Một số ghe máy không đủ
mạnh cập vào HQ505, mọi người lên xong, ghe
được gài máy thả trôi để nhường
chỗ cho những chiếc khác. Những chiếc ghe mà
b́nh thường là cả một số vốn đầu
tư thật lớn, nuôi sống gia đ́nh ngư dân,
giờ bỏ trôi lềnh bềnh đầy biển.
Tôi và Cần với tánh ṭ ṃ cố hữu, xin HT cho
xuống một chiếc ghe lớn để t́m thêm
thực phẩm. Leo lưới đổ bộ
xuống ghe, nh́n quanh chả c̣n ǵ, chỉ vài chai bia lăn
lóc trong một góc. Mở nắp uống một
ngụm, bia đắng ngắt, tôi đưa chai lên
chọc mấy tên bạn đang đứng trên đài
chỉ huy, rồi quăng xuống biển. Cần táy
máy vô ga cho ghe chạy một ṿng nhỏ rồi hai
thằng mới chịu leo lên. Chúng tôi vẫn chưa
hết tánh nghịch ngợm trẻ con, nhưng v́
lỡ sanh vào thời loạn nên phải đốt
giai đoạn để làm người lớn
bất đắc dĩ (làm SQ nên phải ra cái đều
đứng đắn để c̣n chỉ huy, chỉ
hoét mà thôi!!)
T́nh h́nh thị xă Vũng Tàu càng trở nên hỗn
loạn hơn. HQ505 nhận được chỉ
thị ngắn ngủi từ PĐĐ Đ. trên máy
truyền tin cho Zulu Tango – vận chuyển tự do (đi
đâu tùy ư). Chúng tôi nh́n nhau bỡ ngỡ. Tan hàng
rồi sao?! Trong những băn khoăn, HQ505 rời Vũng
Tàu với cả ngàn người lánh nạn, lên
đường đi Phú Quốc như công tác đă
ấn định. Hoàn toàn không biết t́nh h́nh bên
ngoài, chúng tôi bàn nhau sẽ lên Phú Quốc, sát
nhập với bất cứ lực lương nào c̣n
sót lại, tiếp tục nỗ lực phản công.
Khuya 29 rạng ngày 30 tháng Tư, HQ505 lầm lũi
tiến vào Phú Quốc, dự trù ủi băi lúc
trời sáng. Qua máy phát thanh, t́nh h́nh hầu như
đă tuyệt vọng. Trên mọi đài chúng tôi
chỉ c̣n nghe được lời chiêu dụ
của Chuẩn Tướng H. kêu gọi các anh em binh
sĩ buông súng, Hải Quân, Không Quân đem tàu và máy
bay về hàng sẽ được khoan hồng… Có
tiếng máy bay văng vẳng trên đầu, chúng tôi
vội vă làm tối chiến hạm v́ không c̣n
biết đâu là bạn, đâu là thù.
Khoảng 1 giờ sáng, một chiếc PCF hấp
tấp cặp vào. Gia đ́nh Trung Tá. H. thuộc căn
cứ HQ Phú Qưốc và một số anh em Hải
Quân lên 505, chiếc PCF qua mũi chạy trở vào. Vài
phút sau, trên máy truyền tin, ông Tr.Tá H. gọi hỏi
thăm gia đ́nh và cho biết là VC đă liên
lạc, yêu cầu bàn giao căn cứ vào sáng hôm sau!
Anh em HQ nào có phương tiện đang t́m cách
rời căn cứ, riêng ông Đại Tá Tư
Lệnh đă biến đi từ sớm. Thế là
hết, ḥn đảo ở cái chỏm cuối cùng
của miền Nam cũng đă mất, chúng tôi không
c̣n đất dung thân. Trên đường quay ra
hải phận quốc tế, HQ505 vớt thêm
được một số dân chúng và anh em binh sĩ
ra từ Phú Quốc và các vùng duyên hải. Trên máy
truyền tin chúng tôi được biết một
số chiến hạm hẹn nhau bên ngoài đảo Côn
Sơn. HQ505 chuyển hướng đi về Côn Đảo.
Chiến hạm lại lâm vào một t́nh thế nghiêm
trọng mới. Một số anh em cơ hữu
của chiến hạm không có gia đ́nh trên tàu,
giờ quyết định trở về, và muốn
trở về bằng cả chiếc HQ505. Có lẽ
họ tin vào những lời chiêu dụ khoan hồng
đă phát lải nhải suốt đêm. Tin đồn
từ những người tị nạn trên tàu cho
biết là một nhóm anh em cơ hữu bàn việc phá
máy và cướp tàu. Không thể không pḥng bị, dù
có thể chỉ là tin thất thiệt hay hăm
doạ vu vơ, tôi bàn riêng với vài anh em cơ khí
đă cương quyết ra đi để chuẩn
bị, chia phiên canh gác hầm máy.
Riêng tôi, Cần và một vài SQ cùng ư hướng cũng
để ư canh chừng cho nhau trong những lúc đi
ca, nhất là khi có vài SQ từ chối lên phiên. Tôi
không ngờ rằng thời thế đă thay đổi
cả t́nh huynh đệ chi binh, cũng may là chưa có
chuyện ǵ đáng tiếc xảy ra.
Sáng 30 tháng Tư, một chiếc tàu đánh tôm khá
lớn với khả năng chở được
cả trăm người cặp vào 505. Sau khi mọi
người đă lên hết, chúng tôi thuyết
phục được những người muốn
trở về để xử dụng chiếc tàu này
làm phương tiện.
Chúng tôi bơm đầy dầu, tiếp tế nước
uống và thực phẩm, cũng như chuyển
xuống tàu nhỏ những bao bố tiền Việt,
gồm lương và tiền chợ chiến hạm
chưa dùng đến, cùng với số tiền đóng
góp bởi những người tị nạn trên tàu
đă quyết định ra đi và biết rằng
những tờ giấy bạc này sẽ không c̣n giá
trị ǵ với họ.
Con tàu nhỏ tháo dây. Những người bạn 505
giờ đứng trên hai chiếc tàu với hai
lộ tŕnh cách biệt, chúng tôi vẫy tay giă từ
trong những gịng lệ ngập ngừng và những
miệng cười gượng gạo. Tôi nhớ măi
h́nh ảnh Hạ Sĩ Nhất H., chuyên hớt tóc cho
anh em trên chiến hạm. Anh vẫn thỉnh thoảng
nấu ḿ từ những bịch ḿ vụn đem theo
hay để dành cơm nguội, với những
miếng khô cá thiều ngọt bùi hoặc khô cá
sặc đậm đà hương vị miền Tây,
mời tôi ăn những lúc xuống ca vào nửa
đêm. Ba bốn đứa chia nhau từng bốc cơm
nguội, khô cá, rồi vấn từng điếu
thuốc từ những bánh thuốc rê những lúc tôi
không c̣n điếu Salem trưởng giả nào sót
lại. Anh dơ tay lên mũ chào tôi bằng cái chào
nhà binh với đôi mắt buồn vời vợi khi
hai chiếc tàu từ từ tách ra xa.
Trưa mùng 2 tháng 5, Côn Sơn đă nằm trong
tầm mắt. Từ xa, chúng tôi mừng khấp
khởi khi thấy dáng quen thuộc của cả
chục chiến hạm HQVN đủ loại.
Điều quái lạ là các chiến hạm dường
như không di chuyển theo một đội h́nh nào.
Chiếc thả trôi, chiếc đi ngược,
chiếc chạy xuôi. Đến gần hơn chúng tôi
mới rơ là những chiến hạm này đă hoàn toàn
bỏ trống. Cùng lúc ấy chúng tôi bắt liên
lạc với một khu trục hạm thuộc Đệ
Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, họ cho biết
đang trên đường về Subic Bay và sẵn sàng
hộ tống chúng tôi đến nơi. Họ cũng
cho biết thêm là một số chiến hạm
Hải Quân VN đă lên đường đi Subic ngày
hôm trước sau khi họp nhau bên ngoài Côn Sơn
để dồn người qua những chiến
hạm c̣n trong t́nh trạng khả dụng.
Trên
đường đi Subic Bay chúng tôi được
tiếp tế thêm thực phẩm nên t́nh trạng
chung của cả ngàn người trên tàu cũng tương
đối thoải mái hơn so với những ngày trước
đó khi tàu không c̣n đủ cơm cho tất
cả mọi người. Biển lặng, gió êm,
cuộc hành tŕnh đến Phi Luật Tân tương
đối ít biến cố, ngoại trừ môt
cụ già và một em bé đă qua đời trên
chiến hạm v́ sưng phổi mà chúng tôi buộc
phải thủy táng. Cái khổ đau của mất mát,
chia ly, cũng xen lẫn với cái vui nho nhỏ
cuả niềm hy vọng mới, sự chào đời
của một em bé gái được bố mẹ
đặt tên là Nha Trang, kỷ niệm nơi em sinh ra
trong sự tŕu mến đỡ đần của
những người lính biển dương vận
hạm Nha Trang HQ505, trong cái nâng niu của những bàn
tay chai ĺ, gân guốc nhưng t́nh cảm tràn đầy
như biển cả, trầm lặng nhưng thủy
chung và nồng nàn như những ḍng nước
ấm luân lưu trong ḷng Thái B́nh Dương.
oOo
Tháng 4 năm 75 cũng chỉ vỏn vẹn với 30
ngày, nhưng những ấn tượng sâu đậm
đến với tôi trong những ngày công tác đă
hằn sâu vào tận cùng tư tưởng, làm
nhạt nhoà hẳn những ǵ trong kư ức của
cả suốt 24 năm trước đó.
Có lẽ chỉ những triết gia mới có thể
đem một ư nghiă, một triết lư nào đó
đến cho những ǵ chúng tôi đă trải qua
trong chuỗi ngày ngắn ngủi ấy. Những
biến cố tháng 4 đă xóa mờ cái vô tư
của một thanh niên, cái nhiệt t́nh của người
Sĩ Quan trẻ, cái chất lính ở trong tôi. Dù dưới
bất cứ một lư tưởng nào, tôi không
thể chỉ nh́n vào chiến tranh với con mắt
đơn thuần của một quân nhân. Tôi tưởng
như ḿnh vừa sống qua thêm một đời người,
thêm một lần để nhận thức cái
thực chất phù du, bất định của
cuộc đời.
Và một buổi sáng đầu tháng 5 mà tôi không c̣n
nhớ ngày, HQ505 đến Subic Bay. Trước khi vào
vịnh, người Sĩ Quan liên lạc Hoa Kỳ yêu
cầu chúng tôi hạ cờ! Từ sân sau đài
chỉ huy, với hồi c̣i lảnh lót, cô đơn,
lá cờ vàng ba sọc đỏ được
từ từ kéo xuống. Ngước nh́n lá cờ
chậm chậm hạ thấp dần, mắt tôi
bỗng mờ đi. Cúi mặt để giấu
những giọt nước mắt đang chảy dài
xuống ngực áo nhà binh bạc màu. Thêm một
lần nữa, tôi lại khóc trước lá quốc
kỳ. Trước đây tôi khóc trong cái xúc động
nhưng hănh diện của lần đầu tiên
được nh́n thấy lá cờ vàng kéo lên
phất phới, oai hùng trong tiếng nhạc quốc
thiều, trên sân cơ bản thao diễn của quân
trường OCS bên bờ biển Newport. Bây giờ, tôi
không biết v́ sao ḿnh đang khóc! Cho số phận
của Việt Nam. Cho những người đă
nằm xuống. Cho những người c̣n ở
lại. Cho chính ḿnh và cho những người quanh ḿnh
vừa chính thức bước vào cuộc đời
di tản. Cho ngày hôm qua đă mất, ngày hôm nay
tủi hận và ngày mai mịt mù như làn sương
khói đang vất vưởng che mờ cửa
vịnh?!
Nguyễn Nhật Cường
|