Trong
đống rác lịch sử
|
Tác giả Lê Nguyên Phu đă dựa vào bóng tối lịch sử, cố t́nh giả mạo chứng cớ không hợp lư chứng tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra câu chuyện khả tín. Đặt vấn đề về trước những sự kiện lịch sử Tiết III: Không dung nạp đảng phái và đàn áp đối lập Trang 257, Về Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Phu viết là “theo chân quân đội Trung Quốc trở về Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai. Lần trở về này v́ thiếu ư thức chính trị, chẳng những đă để mất chính quyền vào tay Việt Minh, mà c̣n chịu tai kiếp thứ hai là bị Việt Minh đánh bại vào năm 1946, phải cuốn cờ chạy sang Trung Quốc một lần nữa.” Sự thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như các đảng phái quốc gia khác không phải là thiếu ư thức chính trị mà do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Những yếu tố khách quan như: Sự lật lọng của Tướng Lănh Quốc Quân Tàu, sự thờ ơ của quân phiệt Nhật đối với các phần tử quốc gia Việt Nam và sự tráo trở của thực dân Pháp tạm thời bắt tay với Việt Minh để thanh trừng các thành phần ái quốc. Những yếu tố chủ quan như: Bộ máy tuyên truyền và tổ chức của Việt Minh lúc ấy được sự hậu thuẫn của đa số dân chúng hơn các đảng phái quốc gia, sự thiếu kiên quyết của các đảng phái chính trị đối với phe Việt Minh và căn bệnh trầm kha thiếu đoàn kết của người Việt là những yếu tố đă dẫn đến sự thất bại của các đảng phái quốc gia. Việc chính quyền rơi vào tay Việt Minh là do Việt Minh giành trước bằng nhiều thủ đoạn chứ không phải là các đảng phái quốc gia để mất. Có th́ mới mất chứ chưa có th́ làm sao mà mất? Lư luận bá vơ này là sự thù ghét những người không cùng phe phái, đổ tội lên đầu phe quốc gia mà không cần t́m hiểu lư do. Trang 258-279, Về t́nh trạng đảng phái Việt Nam, ông Phu dựa vào tin tức “xe cán chó, chó cán xe” hoặc do ông bịa ra để bêu xấu những đảng phái quốc gia. Phần lớn những người như Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Địch, Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Xuân Tiếu, Nguyễn Tường Tam, Lư Đông A, Hoàng Xuân Tửu, Phan Huy Quát, Hồ Nhật Tân, Hà Thúc Kư, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân… đều bị ông Phu bôi nhọ bằng nhiều ngôn từ rủa sả. Ngay cả học giả Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Đặng Văn Kư cũng bị xỏ bằng những lời lẽ rất bất nhă “ăn chực nằm chờ” khi các ông này được Nhật giúp đỡ tránh khỏi nanh vuốt của thực dân Pháp tại đảo Chiêu Nam (trang 14). Chuyện này chưa dứt, chuyện kia được nhét vào với cách tung hỏa mù để chứng minh ông Diệm không độc đoán, độc tài mà v́ những người này “ít học”, “bất tài”, “không trong sạch”, “có quá khứ lem luốc”, “không có thành tích đáng kề”, “thân Nga”, “thân Nhật”, “tôn Nhật bài Pháp”, “Nho học bất đạt, Tây học nan thông”… Đồng ư là trong số những người ông Phu nêu tên cũng có thể có những người kém tài đức nhưng đặt vào bối cảnh khi thực dân Pháp c̣n đè đầu cưỡi cổ dân Việt, nếu không phải là kẻ điên khùng, phải có tấm ḷng yêu nước nồng nàn những người này mới dám dính vào “chuyện quốc sự”, tham gia vào những hoạt động chính trị chống Pháp, không những nguy hiểm cho bản thân mà c̣n liên lụy cho gia đ́nh mà h́nh ảnh Nguyễn Thái Học và những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp đưa lên đoạn đầu đài vẫn c̣n ám ảnh nhiều người. Dù những người này có thiếu tài đức, cá nhân tôi vẫn cúi đầu vá cảm phục ḷng yêu nước của họ. Về ông Diệm, trừ việc ông Diệm làm quan cho Pháp nhiều năm, thành tích tranh đấu v́ độc lập, tự do cho đất nước trước khi cầm quyền miền Nam Việt Nam của ông c̣n thua xa các lănh tụ đảng phái nhưng ông gặp thời, được ông Bảo Đại trao quyền trong bối cảnh người Mỹ nhảy vào Việt Nam nên ông có điều kiện thành công hơn người khác chứ ông Diệm chưa chắc có tài đức hơn nhiều người mà ông Phu nêu tên. Trang 261, mũi dùi được ông Phu chỉa vào Phạm Văn Liễu, Hoàng Cơ Minh “lợi dụng ḷng yêu nước của đồng bào tỵ nạn Cộng sản, thâu góp tiền bạc nói rằng để đồ binh diệt cọng, mà kỳ thực là để bỏ đầy túi tham, nhưng rồi ăn chia không đều, gây gỗ nhau đến nỗi câu chuyện lường gạt bị đổ bể, cúi mặt không dám nh́n đời.” Về Vơ Đại Tôn, cũng với luận điệu trên ông Phu viết là: “cũng như Phạm Văn Liễu, lợi dụng ḷng yêu nước chống cộng của đồng bào tỵ nạn, Vơ Đại Tôn đi khắp Âu Mỹ thâu tiền góp bạc của bà con dễ tin “v́ tai tiếng đồn đăi, cũng như Hoàng Cơ Minh, y phải làm một chuyến du hành về Ai Lao. Nhưng không may cho y, y bị Cộng sản Việt Nam bắt tại đây, đem về Sài G̣n giam cầm một thời gian rồi phóng thích cho y trở về Úc Châu.” Là kẻ ngoại cuộc, không biết rơ những việc lủng củng nội bộ của “Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh” hay trường hợp Vơ Đại Tôn nên người viết bài này không dám đưa ra kết luận vội vàng. Xưa nay, tin tức từ những tờ báo lá cải được những kẻ thù ghét, ganh tỵ rỉ tai và phóng đại để bôi nhọ nhưng phần đông đều không biết rơ nguyên nhân sâu xa. Chúng ta nên cẩn thận trong việc phán xét một người hay một sự kiện nào đó với lương tâm công chính hơn là từ tin vịt. Độc giả tự t́m hiểu, suy gẫm và đánh giá Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Vơ Đại Tôn. Hơn nữa, việc này không dính dáng ǵ đến việc ông Diệm có dung nạp đảng phái và đối lập hay không nên người viết không phân tích việc này. Đặt vấn đề: Việc đem các ông Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Vơ Đại Tôn ra xỏ xiên có dính dáng với việc ông Diệm không đàn áp đảng phái và đối lập hay không? Điều này có biểu lộ thói ba que, đụng đâu chửi đó không? Trang 267, Về Cao Đài, Ḥa Hảo và B́nh Xuyên, ông Phu viết là “B́nh Xuyên của Bảy Viễn, cũng như Cao Đài và Ḥa Hảo đều đứng chung trong một mặt trận có tên gọi là Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập ngày 24-4-1946.” Điều này có phải là sự cố t́nh giả mạo lịch sử không? Trước năm 1954, người Pháp cù cưa tráo trở trong việc trao trả độc lập cho Việt Nam, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp được thành lập vào ngày 20-04-1946 với mục đích chống Pháp mà Chủ tịch là Thầy Huỳnh Phú Sổ với sự tham gia của Cao Đài, B́nh Xuyên, Quốc Dân đảng (31). Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp được sự tham gia đông đảo của các thành phần không phải là Cộng Sản để ủng hộ Bảo Đại trong cuộc thương nghị với Pháp giành độc lập, thống nhất và ḥa b́nh cho Việt Nam. Trong khi đó, Hồ Chí Minh, dưới sự cố vấn của Tàu Cộng, cũng cần điều đ́nh với Pháp, muốn ngăn chặn những thành phần yêu nước không Cộng Sản nên đă cho lệnh ám sát các phần tử không Cộng Sản như Nguyễn Văn Sâm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Đ́nh Tri… (32). Sau khi ông Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh thủ tiêu, quân đội Ḥa Hảo ngă về phía thực dân Pháp để chống Cộng quyết liệt nhưng không có nghĩa là tay sai của Pháp. Đặt vấn đề: “Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập” hay là do ông Huỳnh Phú Sổ thành lập? Nếu do Thierry d’Argenlieu thành lập th́ theo tài liệu nào? Trang 270, Ông Phu khẳng định “c̣n Cao Đài, Ḥa Hảo nguyên chỉ toàn cán bộ vơ biền đâu c̣n có ai để tham gia các chính quyền về sau. Chính họ đă tự loại ḿnh khỏi sân khấu chính trị, chứ đâu phải v́ Ngô Đ́nh Diệm độc tài, độc đoán.” Vơ
biền trong chiến tranh cần lắm chứ!
Nhờ vào những người vơ biền như Tŕnh
Minh Thế, Nguyễn Thành Phương (Cao Đài),
Nguyễn Giác Ngộ (Ḥa Hảo)… mà ông Diệm có
thể thống nhất quân đội. Hơn nữa,
trong các nhóm Cao Đài, Ḥa Hảo không chỉ có vơ
biền mà c̣n nhiều hạng người khác
nữa. Ông Nguyễn Bảo Toàn (Ḥa Hảo, Dân Xă
Đảng), Hồ Hán Sơn (Cao Đài, Việt Nam
Phục Quốc Hội) là những người có
nhiều uy tín lúc bấy giờ, đă củng cố
địa vị cho ông Diệm trong việc truất
phế ông Bảo Đại. Ông Diệm đă
giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng ngày
15-1-1956 loại trừ những người này. Có
thể là do việc này mà ông Hoàng Cơ Thụy (thành
viên trong Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng) sinh ác
cảm với chính quyền ông Diệm và tham gia vào
vụ đảo chánh 11-11-1960. Trang
270, Ông Phu tiếp tục mạ lỵ nhóm Tinh Thần
là “có
khoảng trên dưới 10 nhân vật… ủng
hộ lập trường của Ngô Đ́nh Diệm
và Ngô Đ́nh Diệm cũng coi họ như đồng
chí .. nhưng khi có tranh chấp giữa Ngô Đ́nh
Diệm và Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực
Quốc Gia, nhóm Tinh Thần mất tinh thần, một
mặt sợ đụng chạm với Pháp, một
mặt e ngại sự hăm dọa của B́nh Xuyên,
nên bỏ rơi Ngô Đ́nh Diệm trong giờ phút
nguy hiểm nhất và rút chân ra khỏi chính
quyền…. Chính họ đă phụ rẩy [rẫy],
bỏ rơi Ngô Đ́nh Diệm, chứ không phải
Ngô Đ́nh Diệm đă ly khai với họ.” Bảng
Tuyên Cáo Caravelle gồm 18 người kư. Nhiều người
trong nhóm này từng tham gia chính phủ ông Diệm khi
ông mới về chấp chánh. Họ tự nguyện
rút tên ra (hoặc bị buộc phải từ
chức) sau những lần cải tổ nội các mà
không có chứng cớ là họ sợ đụng
độ với Pháp hay e ngại B́nh Xuyên. Trang
277, Để nói chuyện dân chủ, ông Phu nêu lên
bằng chứng là đất Mỹ cũng chẳng có
dân chủ với câu chuyện là: “Tôi
có vài người quen hành nghề bác sĩ tại vùng
c̣n dân da đỏ cho biết là được
chỉ thị lúc trị bệnh cho người da
đỏ phải cho tiêm thuốc không sinh đẻ
để dân tộc nầy sẽ không c̣n người
thừa kế, v́ chỉ có tử mà không có sinh.
Thật là tối ư dă man, độc ác có khác ǵ
độc tài đảng trị của Nga và Trung
Cộng?” Sự
độc ác, dă man của Việt Cộng cũng
chẳng kém ǵ Nga và Trung Cộng. Những vụ
chặt người bừa băi bằng rựa thành khúc,
phơi bày trước dân chúng để uy hiếp
tinh thần đồng bào ở thôn quê biểu
lộ sự man rợ khủng khiếp không bút nào
tả xiết. Người viết bài này có cảm
giác là “tác giả” cố t́nh tránh né chữ
Việt Cộng v́ trong suốt tác phẩm chữ
Cộng Sản chung chung được dùng thay cho
chữ Việt Cộng. Cộng Sản là lư
thuyết, người, phe nhóm, quốc gia theo lư
thuyết ấy mà Việt Cộng, Tàu Cộng hay Nga
Cộng mới xác định rơ ràng là thành phần nào. Điều
ông Phu nêu trên, cách đây hơn 100 năm th́ c̣n có
thể lừa gạt được những kẻ
ngờ nghệch nhưng không phải hiện thời.
Ai là người quen ông Phu vậy để mọi người
xem thử là người quen của ông Phu thuộc
loại nói láo hay nói thật? Chỉ thị của
ai, tại đâu và vào khi nào? Thuốc không sinh đẻ
là thuốc ǵ v́ nếu thuốc ảnh hưởng
đến việc không sinh đẻ th́ thuốc
ấy cũng có thể giết dần con người?
Nếu có những việc này xảy ra trong thế
giới hôm nay, chúng ta nên thông tin cho người da
đỏ để chấm dứt việc làm phi nhân
này. Ông
Phu nên biết rằng ở Mỹ, y sĩ không
chữa bệnh theo chỉ thị như những ông
Chánh Án, Biện Lư, Thẩm Phán thi hành luật pháp
của ông Diệm mà có toàn quyền trong việc tham
khảo và chữa trị bệnh nhân theo luật pháp
ấn định. Xă hội Mỹ là nơi thiên
hạ đưa nhau ra ṭa kiện tụng dễ dàng,
nên nếu bác sĩ trị bệnh ẩu tả, người
bệnh hay thân nhân của họ có thể kiện bác
sĩ hay bệnh viện ra ṭa. Việc kiện cáo có
thể dẫn đến việc bác sĩ phải
bồi thường hay tù tội nặng nề khi liên
quan đến sanh mạng. Việc này không phải là
những việc nói chơi. Ông Phu là “luật sư”
nên biết tội “phao tin thất thiệt để
phỉ báng chính quyền Mỹ” sẽ xảy ra
điều ǵ nếu không có bằng chứng và nhân
chứng. Về
vấn đề chính phủ ông Diệm có dung
nạp đảng phái và đàn áp đối lập
hay không, người đọc có thể xem lại
những sự kiện xảy ra trước 1-11-1963.
Một vài sự kiện tiêu biểu sau đây có
thể chứng minh là ông Diệm đă xem thường
trí thức, loại trừ đối lập và đàn
áp đảng phái: •
Đầu năm 1955, Ngô Đ́nh Cẩn với sự
đồng ư của chính phủ ông Diệm đă bao
vây, tàn sát nhóm Đại Việt và Việt Nam
Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền Trung. •
Ông Diệm t́m cách loại bỏ các ông Phan Quang Đán,
Nguyễn Trân dù họ đắc cử dân biểu
bằng cách đổ cho họ tội “gian
lận”. •
Ngày 15-1-1956 ông Diệm giải tán Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng, loại trừ những người
đă củng cố quyền hành cho ông như các ông
Nguyễn Bảo Toàn (Ḥa Hảo), Hồ Hán Sơn (Cao
Đài) … rồi sau này những người này đều
bị đám mật vụ của ông Nhu thủ tiêu. •
Ngày 19-2-1956, ông Diệm cho quân đội Quốc Gia
bao vây Ṭa Thánh Tây Ninh, Hộ Pháp Cao Đài Phạm Công
Tắc phải trốn tránh sang Cao Miên v́ sợ chính
quyền ông Diệm bắt và kết tội “phá
rối trị an”. •
Ngày 15-03-1958, ông Nghiêm Xuân Thiện viết bài “Gởi
ông Dân Biểu” trong đó so sánh việc bầu
cử thời Pháp thuộc “c̣n khá hơn là
những cuộc bầu cử của quư vị v́ không
có ai được dùng xe cam nhông chở lính vào Sài
G̣n để giúp “việc bỏ phiếu”.
Hậu quả là ông Nghiêm Xuân Thiện bị nhốt
vào tù và báo Thời Luận bị đóng cửa. •
Các lănh tụ của các đảng phái quốc gia như
Vũ Hồng Khanh (VNQĐD), Hà Thúc Kư (Đại
Việt) bị chính quyền ông Diệm bắt giam
nhiều năm không xét xử đến khi chế
độ ông Diệm sụp đổ mới
được chế độ mới thả ra. •
Ngày 26-04-1960, nhóm Caravelle ra Tuyên Cáo kêu gọi chính
phủ hăy mở rông các quyền tự do, tránh
bắt bớ và giam giữ thành phần đối
lập nhưng ông Diệm đă không để ư. Nhân
vụ binh biến 11-11-1960, ông Diệm cho bắt
một số người đă kư tên vào bảng tuyên
cáo như các ông: Trần Văn Văn, Phan Huy Quát,
Phan Khắc Sửu… cùng những thành viên của các
đảng phái quốc gia v́ t́nh nghi tham gia đảo
chánh. •
Đảng Đại Việt Quốc Xă của ông
Nguyễn Xuân Tiếu ngưng hoạt động v́ chính
quyền ông Diệm theo dơi, phá rối và bắt ông
Tiếu vào tù khoảng năm 1962. Ông Nguyễn Xuân
Tiếu từng giúp đỡ tiền bạc, vật
chất cho ông Diệm khi ông Diệm bị Việt
Cộng bắt giam ở rừng núi Thái Nguyên, Bắc
Việt. Chính ông Diệm đă từng mỉa mai
những đảng viên Đại Việt Quốc Xă
là “chuyên viên thất nghiệp” (33). Đặt
vấn đề:
Ông Ngô Đ́nh Diệm có dung nạp đối
lập và đảng phái hay không? Nếu không, v́ lư
do ǵ ông Diệm không chấp nhận các đảng
phái đối lập? Tiết
IV: Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm có phải đă
bắt tay với Cộng Sản Bắc Việt? Trang
279-286, ông Phu biện hộ là ông Diệm không bắt
tay với Cộng Sản và “lư do này do chính người
Mỹ tung ra đầu tiên” mà đám tướng lănh
thường viện dẫn. Người
viết bài này đồng ư là ông Diệm không
bắt tay với Cộng Sản nhưng không phải
do cách biện luận hay chứng cớ mà ông Phu nêu
ra mà v́ những lư do sau đây: •
Ông Diệm là người Kitô giáo và có hận thù sâu
đậm với Việt Cộng v́ họ đă thanh
toán thân nhân ông (ông Ngô Đ́nh Khôi và ông Ngô Đ́nh
Huân, con ông Khôi). •
Ông Diệm đặt t́nh nhà hơn nợ nước
qua việc dù ông có thấy sự sai trái của người
thân trong gia đ́nh ông như ông Thục, ông Cẩn,
ông bà Nhu hay tay chân thân tín, ông vẫn bao che. •
Ông Diệm là người mang nặng trong đầu
cách trị dân của quan lại thời phong kiến,
kiểu “dân chi phụ mẫu” th́ việc bắt
tay với Việt Cộng không thể thực hiện
được. Nếu
ông Diệm, ông Nhu có t́m cách nói chuyện với
Cộng Sản miền Bắc cũng chỉ là để
ḍ la tin tức với mục đích đối phó,
bắt bí chính quyền Mỹ sau khi ông Diệm
nhận ra là họ không c̣n ủng hộ ông nữa. Đặt
vấn đề:
Tại sao ông Diệm, ông Nhu cho người thăm ḍ
tin tức Việt Cộng? Về
Ông Vơ Văn Hải Trang
283-285: ông Phu tŕnh bày là ông Diệm đă dự
trữ một số tiền kếch sù qua những
khoản tiền viện trợ có thể chi dụng
cho cả miền Nam Việt Nam trong nhiều năm, pḥng
hờ nếu bị Mỹ cúp viện trợ. Điều
này không ai biết mà theo ông Phu th́ chỉ có Ông
Diệm, ông Nhu và ông Vơ Văn Hải biết. Tất
cả những người trong cuộc đều
đă về bên kia thế giới, muốn t́m nhân
chứng phải cầu hồn người chết.
Điều này hơi vô lư v́ ông Nhu biết th́ bà Nhu
phải biết. Dù không có tính “ăn không được
th́ phá”, bà Nhu cũng không thể để yên cho ông
Vơ Văn Hải sau 1-11-1963 nhưng từ sau vụ
đảo chánh 1963 đến 30-04-1975, không ai đề
cập đến số tiền này. Điều
vô lư hơn nữa là nếu có khoản tiền
kếch sù như vậy, chắc chắn ông Vơ Văn
Hải không dại ǵ mà chỉ để trong
những ngân hàng Việt Nam mà phải có phần
lớn ở những ngân hàng ngoại quốc. Ông Vơ
Văn Hải cũng thừa biết Việt Cộng
sẽ làm ǵ với những kẻ giàu có và đă
từng cộng tác trong chính phủ ông Diệm.
Nếu có số tiền kếch sù như vậy, ông
Vơ Văn Hải phải có thừa phương
tiện để rời Việt Nam trước khi
Việt Cộng chiếm Sài G̣n. Điều
ông Phu viết nghe không thuận lư, c̣n khó tin hơn là
việc “ông Thiệu lấy 16 tấn vàng” của
những kẻ thích phao tin thất thiệt trong khi
đám đầu lănh Việt Cộng chia nhau ăn mà
c̣n cười là “Tụi Ngụy cứ phá nhau
đi!” Ông Phu đưa ra kết luận là “Vơ
Văn Hải đă sang đoạt ngân khỏan
Quốc Gia mà không ai biết rơ”. Điều này
sự vu khống đối người đă mất
nếu không có chứng minh cụ thể. Ông Phu là người
tinh thâm Hán học chắc c̣n nhớ câu: “Hàm
huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (ngậm máu
phun người dơ miệng ḿnh trước). Đặt
vấn đề:
Tại sao ông Lê Nguyên Phu chỉa mũi dùi vào ông Vơ
Văn Hải? Có phải v́ ông Vơ Văn Hải đă
có những báo cáo không thuận lợi cho chính
quyền ông Diệm với người Mỹ và đă
có hành động ủng hộ Phật Giáo năm
1963? Tiết
V – Lư do thứ năm và cũng là lư do sau cùng: Kỳ
thị Phật Giáo Nhiều
sử liệu khả tín khác đều cho là ông Ngô
Đ́nh Diệm không kỳ thị Phật Giáo nhưng
đă dung dưỡng cho ông Ngô Đ́nh Thục và bà
Nhu lợi dụng quyền thế quá quắt để
đặt niềm tin Kitô giáo vào đầu óc người
Việt. Về
Ông Thích Hộ Giác Trang
290, để bài xích Phật Giáo qua ông Thích Hộ Giác,
ông Phu viết theo báo cáo của Cảnh Sát rồi
bịa ra: “Chiều chú nhật rănh [rảnh] rang
Phật sự, Thích ta áo quần là lượt, lái xe
mới tinh, chở vợ con đi hứng mát trên xa
lộ. Người đẹp kề bên, con thơ
ở cạnh, Thích cao hứng lái xe nhanh, lại vui
chuyện với vợ con, sơ ư lạc tay lái đụng
phải nạn nhân đi bộ trên lề đường.” Nếu
là báo cáo của cảnh sát th́ chắc chắn là
cảnh sát không ghi áo quần lượt là, không ghi
là xe mới tinh hay xe cũ mèm và chắc chắn là không
ghi là hứng mát trên xa lộ. Trong những biên
bản của cảnh sát giao thông, cảnh sát không có
th́ giờ hay lư do để ghi là người bên
cạnh tài xế đẹp hay xấu và tài xế
cao hứng lái xe nhanh mà chỉ ghi ước lượng
tốc độ nếu cần thiết. Lái xe trên xa
lộ th́ tốc độ phải nhanh cần ǵ
phải cao hứng? Lạc tay lái trên xa lộ th́ tính
mạng người lái xe chắc dễ đi đời
lắm? Và xa lộ nào mà có người đi bộ
trên lề đường? Có chết chóc hay bị
tổn thương ǵ mà đ̣i bồi thường?
Luận điệu này là những sự bịp
bợm, thói ngụy tạo chứng cớ của
những tên “luật sư” không cần biết
phải quấy mà chỉ biết kiện tụng
để có ăn. Điều
này có xảy ra thực không hay là một sự gian trá?
Với giọng điệu xuyên tạc đầy láo
khoét này chứng tỏ một điều rơ rang:
Đầu óc gian manh nhưng không đủ khôn ngoan
để tạo ra một sự việc có thể
gọi là khả tín. Đặt
vấn đề:
Tại sao Việt Cộng lợi dụng được
phong trào Phật giáo trong việc tranh đấu
lật đổ chính quyền ông Diệm? Hành động
của Ông Thục và ông bà Nhu có làm cho dân chúng chán
ghét không? Diễn
biến vụ Phật Giáo Trang
286-313 Để tŕnh bày diễn tiến vụ “tranh
đấu bạo động” của Phật Giáo,
ông Phu khẳng định hết điều này đến
điều khác, sự kiện lộn xộn gian trá
với cách lư luận cù nhầy rồi đưa ra
kết luận là bàn tay người Mỹ qua Đại
Úy James Scott đă gây ra huyết án 8-5-1963. Theo
những liệu khả tín th́ sự việc có
thể tóm tắt như sau. Ông
Ngô Đ́nh Thục thấy nhiều cờ Phật Giáo
treo vào dịp lễ Phật đản, cảm
thấy khó chịu hay ganh ghét nên đă gọi ông
Hồ Đắc Khương, trách là tại sao không
thi hành lệnh cấm treo cờ tôn giáo và gọi vào
Phủ Tổng Thống phàn nàn với ông Diệm. Có
lẽ nể lời ông Thục, ông Diệm cho cái
lệnh miệng là “cứ như cũ mà làm”. Do cái
lệnh miệng này, ông Quách Ṭng Đức theo
lệnh cũ cấm treo cờ tôn giáo. Đám
thừa hành địa phương sốt sắng ra
lệnh dẹp. Khối Phật Giáo cho rằng bị
chính phủ ép. Việc đến tai ông Ngô Đ́nh
Cẩn, ông ra lệnh cho ông Tỉnh Trưởng
Nguyễn Văn Đẳng cho xe phát thanh khắp nơi
nói rằng sẽ không có việc hạ cờ
Phật Giáo để trấn an dân chúng nhưng
rồi một số cờ vẫn bị đám
thừa hành hạ xuống. Việt Cộng hoặc người
Mỹ (?) lợi dụng cảnh rối ren, ồn ào
tại Đài Phát Thanh Huế ném bom gây tử thương
cho 8 em. Thế là sinh chuyện lớn. Qua
sự dàn xếp của các ông Trần Kim Tuyến,
Nguyễn Đ́nh Thuần, Bùi Văn Lương, Trương
Khuê Quang…việc dàn xếp sắp xong để ông
Diệm kư vào văn bản đ̣i hỏi của
khối Phật Giáo. Bà Nhu nói xốc vô với ư là
những tăng sĩ này là cái thá ǵ mà Tổng
Thống kư ngang hàng với họ nên ông Diệm
lại phê vào văn bản với giọng kẻ
cả là “Những điều này là những điều
chính phủ vẫn thi hành với Phật Giáo”.
Những người đứng ra dàn xếp lại
phải đến thuyết phục, năn nỉ ông
Thích Thiện Minh. Nội vụ gần như
được giải quyết xong. Sáng
hôm sau, bảng Thông Cáo chung chưa được
đưa lên đài phát thanh đọc th́ bà Nhu
họp Phụ Nữ Liên Đới, ra một tuyên ngôn
với giọng điệu mạ lỵ Phật Giáo và
đưa qua Việt Tấn Xă bắt phải
đăng ngay, đồng thời bà Nhu gọi ông
Tổng Giám Đốc Thông Tin Phan Văn Tạo la
lối. Ông Diệm lại lừng khừng v́ thấy
sự việc ngoài ư muốn đă xảy ra nên cho
lệnh Thông Tin ngưng lại việc đọc bàng
Thông Cáo chung. Bà Nhu c̣n xốc thêm vào ông Diệm làm
cho ông trở thành kẻ nuốt lời. Sau
đó, ông Nhu cho lệnh tấn công chùa Xá Lợi,
Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát
thi nhau “vét chùa”, lùng bắt sư săi (34).
Từ đó, Phong Trào tranh đấu Phật Giáo ngày
càng bùng lên mà nhiều nơi có thể có Việt
Cộng xúi dục. Nhiều cuộc biểu t́nh,
tự thiêu v́ đạo pháp xảy ra khắp nơi
phản đối chế độ Ngô Đ́nh
Diệm, gây công phẫn khắp thế giới. Theo
tài liệu tổng hợp của ông Nguyễn Văn
Lục về biến cố Phật Giáo năm 1963
tại Huế th́ cho đến nay, thủ phạm
vụ ném bom ngày 8-5-1963 vẫn c̣n nằm trong bóng
tối v́ không ai chịu nhận trách nhiệm
huyết án này (35). Những tài liệu mà ông Lê
Nguyên Phu đưa ra để chỉ danh thủ
phạm vẫn là những dấu hỏi, có nhiều
nghi vấn chưa được làm sáng tỏ. Chúng
ta vẫn chưa thể xác quyết là chính Đại
Úy James Scott, nhân viên của CIA nhúng tay vào hay do
Việt Cộng khơi mào xách động v́ chưa
đủ tài liệu khả tín. Vụ Phật Giáo
8-5-1963 chỉ là “giọt nước cuối cùng làm
tràn ly” mà hậu quả là người Mỹ mua
chuộc và xúi dại đám tướng lănh làm
cuộc đảo chánh 1-11-1963. Đặt
vấn đề:
Qua diễn biến Phật Giáo ở Huế năm
1963, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm có thái độ
và phản ứng thế nào? Những phản ứng
của chính phủ ông Diệm có xoa dịu Phật Giáo
hay là gây thêm phẫn uất, làm cho Việt Cộng
lợi dụng để gây rối miền Nam? Chương
IV: Từ vụ đảo chính ngày 1-11-1963 đến
cái chết bất khuất can trường của
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Cố Vấn
Ngô Đ́nh Nhu Trang
360, ông Phu cho là ông Diệm không đồng ư với
kế hoạch của ông Nguyễn Hữu Duệ “đem
toàn lực của Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ
Phủ Tổng Thống, ba đại đội
thiện chiến có thiết giáp yễm [yểm]
trợ tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu,
bắt trọn ổ tướng tá phản loạn.
Nhưng Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không
chấp thuận kế sách này v́ tấm ḷng Nhân
của Tổng Thống không muốn có cảnh huynh
đệ tương tàn, giết hại lẫn nhau, làm
tiêu hao tiềm lực chống Cộng về sau và làm
sứt mẻ tinh thần đoàn kết của quân
đội.” Kế
hoạch tấn công bộ Tổng Tam Mưu có thể
thành công (?) nhưng ông Diệm không cho thực
hiện. Nói rằng ông Diệm không cho tấn công
Bộ Tổng Tham Mưu v́ tấm ḷng nhân, v́ nghĩ
đến việc huynh đệ tương tàn
chỉ là sự ngụy biệm. Ông
Diệm từng cho Quân Đội Quốc Gia tấn công
quân đội Ḥa Hảo, Cao Đài dù nhiều người
trong quân đội các giáo phái này đă theo ông, gây
nhiều đau thương cho giáo chúng. Khi để
mặc cho ông Cẩn tàn sát các lực lượng các
đảng phái như Đại Việt, Việt Nam
Quốc Dân Đảng, ông Diệm có nghĩ đến
việc làm tiêu hao lực lượng chống
Cộng không? Trong vụ binh biến 11-11-1960, ông
Diệm ḥa hoăn với phe đảo chánh nhưng khi có
viện binh đến th́ cho lệnh tấn công
tới tấp, huynh đệ tương tàn làm
mất t́nh đoàn kết quân đội cũng đă
xảy ra. Cảnh giết hại lẫn nhau bất
kể đến sự thiệt hại nhân mạng dân
chúng hay lính tráng với con số 214 quân nhân, 54 thường
dân bị thương và 23 quân nhân, 24 thường dân
bị thiệt mạng trong vụ binh biến 11-11-1960
(36) vẫn c̣n sờ sờ đấy. Ông
Diệm tới bước đường cùng, không
lựa chọn việc tấn công vào Bộ Tổng
Tam Mưu v́ những lư do như: •
Không biết rơ thực lực phe đảo chánh, ông
Diệm nghĩ rằng kế hoạch của ông
Nguyễn Hữu Duệ chưa chắc đem lại
sự thành công. •
Với đầu óc quan liêu, có thể ông Diệm nghĩ
rằng ông sẽ điều đ́nh, thuyết
phục nhóm tướng lănh đảo chánh, nếu
không thuyết phục được th́ tạm
thời chấp nhận yêu cầu của họ
rồi sau này ông sẽ t́m cách trừ khử. •
Phó mặc số phận như ư chúa và chúa sẽ
che chở cho anh em ông. Đặt
vấn đề:
Dù có dẹp được vụ đảo chánh ngày
1-11-1963, với sự thất bại của ông
Diệm cả trong và ngoài nước trong khi t́nh h́nh
đất nước đầy dẫy những
cuộc tấn công của Việt Cộng, các
cuộc đảo chánh khác sẽ xảy ra không
nếu ông Diệm không thay đổi chính sách? Trang
372, Về cái chết của ông Diệm và ông Nhu “lấy
công tâm mà xét, chính là một cái chết quật cường
đối với Thực Dân Mỹ, một cái
chết bi tráng đối với quốc dân trong nước.
Tráng v́ tay không, không một tấc sắt để
giữ ḿnh mà vẫn sẵn sàng đi t́m phản
loạn, v́ danh dự của người quốc gia, v́
chính nghĩa của bản thân, không thèm nhờ
vả vào sự che chở của ngoại bang.” Khi
ông Diệm quyết định gặp nhóm tướng
lănh đảo chánh, ông không biết là họ sẽ
làm ǵ ông và ông Nhu. V́ ông không c̣n được người
Mỹ ủng hộ và đối với quốc dân
trong nước, đặc biệt là thành phần trí
thức, cũng lánh xa ông, dù các tướng lănh không
giết ông Diệm, cơ hội cầm quyền
trở lại cũng quá mỏng manh. Tuy nhiên, có
thể nói là nhóm đảo chánh từng thấy
chế độ ông Diệm đă hành xử với
các đảng phái và trí thức đối lập
trong nước thế nào nên họ giết ông để
trừ hậu họa. Điều này cũng chẳng
có ǵ đáng ngạc nhiên. Cái chết của ông
Diệm, ông Nhu và ông Cẩn sau này cũng là cái
chết của những người cầm quyền
trong lịch sử Việt Nam đầy dẫy
những oán thù. Can trường, bất khuất hay không,
người đọc lịch sử cần suy
gẫm hai chữ “nhân quả” và tự t́m câu
trả lời. Đặt
vấn đề:
Tại sao các tướng lănh đảo chánh phải
giết ông Diệm và ông Nhu? Người Mỹ có
cố t́nh để nhóm đảo chánh giết ông
Diệm không? Là người quốc gia với ư hướng
tranh đấu cho dân tộc, chúng ta có đặt
niềm tin vào một thế lực ngoại bang nào
đó mà không đề pḥng là có lúc họ sẽ
đâm sau lưng chúng ta không? Phần
III: Thời Kỳ Sau Ngô Đ́nh Diệm Từ 11-11-1963
đến 30-04-1975 Những
sự kiện lịch sử được tŕnh bày
không có ǵ mới lạ so với những sử
liệu đă có ngoại trừ những sự
xấc láo, ngụy biện và sự kiện sai
lạc nên tôi không muốn đặt vấn đề
nữa. Đôi
điều nhận xét về tác phẩm và tác
giả Viết
khảo luận về lịch sử là để ghi
lại những sự kiện lịch sử đă
xảy ra, t́m hiểu nguyên nhân và rút ra bài học. Dù
khó tránh khỏi định kiến khi phê phán, trong
việc biên khảo lịch sử ngoài việc nêu
sự kiện chính xác c̣n phải có chút ít công tâm
khi phán đoán chớ không phải bịa đặt
lịch sử để thỏa măn ư kiến cá nhân
và biện hộ quành xiên cho phe đảng. Những
tác phẩm biên khảo có giá trị đ̣i hỏi cái
nh́n sáng suốt, phóng khoáng và ít nhiều tính vô tư
khi nhận định, đánh giá một cá nhân hay
sự kiện. Quyển
sách Trong Bóng Tối Lịch Sử có quá
nhiều sự kiện giả trá, chứng cớ
bịa đặt nhằm để phỉ báng,
lời lẽ xấc láo không kể người trên,
kẻ dưới nên người viết bài này dù không
muốn chê trách nhưng bất đắc dĩ xin
đưa ra đôi lời nhận xét thẳng
thắn. Nội
dung: Qua
những trang sách, ngay cả nhân danh, địa danh
nhiều người biết như Bùi Kiến Tín thành
Bùi Kiện Tín, Rừng Sát viết thành rừng
Sặt chứng tỏ tác giả có kiến thức
lịch sử hạn hẹp nhưng không chịu
kiểm chứng tài liệu. Tác giả dẫn
chứng sách vở bao gồm đông, tây, kim cổ
để phô trương, so sánh nhưng sự so sánh
quá gượng ép v́ không hiểu sự việc đến
nơi đến chốn hoặc cố t́nh gán ghép.
Nhiều sự kiện sai lạc hay cố t́nh “xào
nấu” rồi dùng cách biện minh ấu trĩ
để đưa ra kết luận ẩu tả phù
hợp cho sự thóa mạ. Do ḷng thù hận và tâm
địa hẹp ḥi, tác giả Lê Nguyên Phu đă
dựa vào bóng tối lịch sử, cố t́nh
giả mạo chứng cớ không hợp lư chứng
tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan
để tạo ra câu chuyện khả tín. H́nh
thức:
Sách có quá nhiều lỗi chánh tả sơ đẳng
không phải là lỗi đánh máy mà là do khả năng
tiếng Việt quá kém không phân biệt được
dấu hỏi, dấu ngă như: vỏ, vơ; rể,
rễ; nể, nễ; nổ, nỗi; rảnh rang, rănh
rang; trải; trăi; lẩn, lẫn; ngu xuẩn, ngu
xuẫn… mà những học sinh chưa xong lớp
9 cũng có thể tránh được. Việc sử
dụng một số từ ngữ lạ tai,
được dùng sau năm 1975, dù có thể không sai
nhưng đối với những người
từng ngồi ghế nhà trường trước năm
1975 cảm thấy khó nghe như: đi tập
thể (đi chung, trang 41), bồi dưỡng
(nghỉ ngơi hay ăn uống? trang 289), đồng
chí (trang 191, trang 270)… Điều tệ hại rơ
ràng nhất là sự học đ̣i theo đám văn
nô miền bắc dùng chữ Người viết hoa
khi viết về “Cha già dâm tặc” Hồ Chí Minh.
Ông Phu cũng viết hoa cho ông Diệm làm người
đọc có cảm tưởng như quyển sách này
do “cán bộ viết văn” trong đám “Trí
Thức Xă Hội Chủ Nghĩa” chế biến.
Chỉ trừ trong Kinh Thánh, chữ Người
viết hoa dùng để chỉ Thiên Chúa, c̣n đụng
đâu viết hoa đó chỉ để làm tăng
sự dốt nát, nịnh bợ hèn hạ mà cá nhân tôi
nghĩ là viết hoa chữ Người là để
phân biệt là thú vật đội lớp người
v́ nếu là người thật th́ cần ǵ
phải viết hoa. Sự
so sánh tầm phào v́ hiểu sai chữ nghĩa làm người
đọc cảm thấy đáng cười. Ví
dụ như ông Phu đem h́nh ảnh của các cô gái
thích đi chơi rông. ban đêm lái xe riêng đưa
bạn bè đi chơi từ Sài G̣n ra Vũng Tàu gây
ra tai nạn trong “khung cảnh yên b́nh thời Ngô
Đ́nh Diệm” để so sánh với h́nh
ảnh “thân gái dặm trường” của nàng
Kiều mang trong ḷng nỗi thê lương, chiếc thân
phiêu bạt không biết ngày về th́ Thi hào
Nguyễn Du dù có điềm đạm mấy đi
nữa cũng phải phê là “dốt quá!”. Tương
tự, “tác giả” dùng chữ “bảng phong
thần” để chỉ việc ông Diệm xóa
tên ông Lê Ngọc Chấn ra khỏi nội các. Ông Phu
so sánh ông Diệm như là tiên và những người
cộng tác với ông Diệm như thần nhưng “bảng
phong thần” là bảng ghi tên những người
đă mất chớ không phải để cho
những người c̣n sống. V́
đụng đâu chửi đó, chuyện nọ,
xọ chuyện kia nên văn bất thành cú, ư tứ
lủng củng, bố cục luộm thuộm,
tạp nhạp làm người đọc khó theo dơi
thích hợp với lối “già hàm” chửi bậy
chứ không phải là cách luận tội của
những kẻ có học. Lê
Nguyên Phu là ai? Qua
những điều ông khoe khoang trong sách th́ ông sanh trưởng
trong gia đ́nh quan lại thời Pháp thuộc và
tốt nghiệp luật khoa. Ông luật sư từng
làm Giám Đốc Hiến Binh, tay chân của ông
Diệm nhưng khi mở đầu sách ông lại che
dấu là ông “không quyền cao, chức trọng”.
Là một Ủy Viên Chính Phủ, gặp ông Diệm
thường xuyên, ngay cả những Bộ Trưởng
đều phải úy kỵ ông th́ hỏi quyền nào
mới cao chức nào mới trọng? Đây là thói “đạo
đức giả” mà ông hay dùng để phê phán
người khác. Trong
những năm pḥ tá “chí sĩ” Ngô Đ́nh
Diệm, có lẽ công ông khá to tác trong việc
củng cố quyền hành cho anh em ông Diệm. Ông
tự xưng là liêm chính nhưng những vụ án
hay những việc làm bậy bạ của nhóm tướng
lănh không rơ là ông có giải quyết thế nào? Sau
1963, khi không c̣n nắm quyền nữa, ông “luật
sư” đi biện hộ cho tụi lưu manh du
đăng thời ông Nguyễn Cao Kỳ mà không ai
muốn dính vào. Nhờ sự quen biết với các
luật sư và ông toà Chánh Thẩm Đại Tá Hoàng
Văn Tỷ, ông thành công và tự hào với
việc ông làm là “riêng tôi có niềm an ủi vô
biên, v́ nhờ bản án hy hữu này, các ṭng
phạm đă lănh án tử h́nh tuần trước
không bị đem ra pháp trường thọ h́nh”
(trang 397) Trong một đất nước mà những
người lính đêm ngày đối diện với
tử thần trước họng súng Việt
Cộng, đám du đăng có tội rơ ràng này có nên
đem bắn bỏ không? Và cái loại luật sư
biện hộ cho du đăng này có khác ǵ loại
bọ hung góp phần phá nát xă hội miền Nam trong
bối cảnh chiến tranh. Ông
Phu là kẻ ghen tài, tâm địa hẹp ḥi để
lộ qua việc ông dài ḍng bới móc việc
học hành của nhiều người như Trương
Tử Anh, Huỳnh Văn Lang, Phan Quang Đán
…nhằm để châm biếm, khi dễ là những
người này ít học, thiếu khả năng. Ngay
cả việc ông Trịnh Xuân Ngạn đậu
bằng tiến sĩ kinh tế với luận án
được sửa chữa ông cũng mang ra, dù
điều này không có ǵ đáng phải thắc
mắc v́ nếu sửa chữa đúng th́ đâu có
ǵ sai trái. Ông Phu chế nhạo ông Phùng Bá Tú là “không
biết có mang súng vào trường thi? ” (trang 396). Là
con nhà Nho nhưng ông coi những người theo đ̣i
“cửa Khổng, sân Tŕnh” để học ít
“chữ nghĩa thánh hiền” là thứ cỏ rác mà
chỉ có những người nổi tiếng như “thất
thập nhị hiền” (72 đồ đệ
của Khổng Tử) mới trọng (trang 397) dù
rằng đa số những ông Tàu này cũng
“chỉ có tiếng mà không có miếng”. Với
lối suy nghĩ phản Nho học này, ông Phu không
hiểu được “danh lợi chỉ là phù vân”
trong tinh thần Khổng Mạnh mà chính ông đă dùng
để khinh bỉ người khác là “Nho
học bất đạt, Tây học nan thông ”. Cái
thói hám danh này nằm sâu trong đầu ông Phu nên ông
quen theo thói “mục hạ vô nhân” chửi bới,
khinh khi, chê bai thích chí. Kẻ ít học, ông cho là“dốt
nát”, “ngu xuẫn [xuẩn] ” người có
bằng cấp th́ ông phê là “không trong sạch”,
“gian xảo”, “quỷ quyệt”, “khéo lường
gạt”, …Người ông không ưa là “ruồi
nhặng”, kẻ ông thù ghét là “hung thần ác
sát”…. Là
kẻ không những thích khoe khoang hợm hĩnh, ông c̣n
ưa được nịnh bợ qua việc ông “nhà
báo lăo thành Trần Tấn Quốc trên tờ báo
Tiếng Dội” khen là “Từ hơn ba mươi
năm nay (nghĩa là từ thời Pháp thuộc cho
tới bây giờ) chưa có một lời buộc
tội nhân hậu và khoan ḥa, như lời buộc
tội của tôi, khiến người nghe phải
cảm xúc kính nễ [nể] ” (trang 195). Báo chí
thời ông Diệm là cái loa của chế độ
mà! Vụ án liên can đến binh biến 11-11-1960
được xử vào ngày 8-7-1963, Ṭa Án Quân Sự
Đặc Biệt tuyên 13 án tù khổ sai dành cho quân
nhân, ngày 11-7-1963, 20 án cấm cố cho các nhân sĩ và
ngày 12-7-1963 tử h́nh khiếm diện 9 người
(37) mà ông Phu cho là: “Ngoài những bản án tử
h́nh khuyết tịch… những cái án khổ sai,
cấm cố hoặc ở tù thường, nhưng
đều rất nhẹ” (trang 195). Án khổ sai,
cấm cố mà nhẹ à? Thật là may mắn cho
những người oan ức không bị loại “chuyên
môn làm Thẩm Phán ” nhưng không có công tâm này xét
xử. Thay
lời kết Trong
môi trường sách vở Việt ngữ bát nháo
hiện nay, sách vở lịch sử nghiêm túc thật
khó đoán. Ở trong nước, loại “sử phi
sử” không c̣n mức độ khả tín nào v́
chứa đầy sự láo koét, nịnh bợ và
gian dối nhằm biện hộ cho việc làm tay sai
cho Cộng Sản Quốc Tế và che dấu những
hành động phi nhân, bán nước, phản dân
tộc để tiếp tục đè đầu cưỡi
cổ dân chúng. Ở hải ngoại, nhiều người
viết khảo luận, hồi kư lịch sử
nhằm khoe khoang, chạy tội hay bênh vực lỗi
lầm trong quá khứ cho cá nhân hoặc phe phái cũng
đă cố t́nh dấu giếm và giả mạo
lịch sử. V́ vậy, đối với những
người không nghiên cứu lịch sử, lâu lâu
mới đụng đến một quyển sách như
cá nhân tôi, tài liệu lịch sử khả tín
trở nên “vàng thau lẫn lộn” thật không
biết đâu mà gạn lọc. Qua
việc đối chiếu với một ít tài
liệu, nhận xét cách biện minh và những sự
kiện được tŕnh bày, quyển sách này làm
lộ rơ những khuyết điểm và lỗi
lầm quá lớn của chính phủ ông Diệm hơn
là bênh vực cho chính phủ này. Để bênh
vực cho chính phủ ông Diệm, người
viết lịch sử cần đưa ra những
sự kiện chính xác, chấp nhận lỗi lầm
và không bịa đặt và biết đẵt sự
kiện vào bối cảnh chiến tranh để
biện minh cho hành động của chính phủ ông
Diệm với cái nh́n sáng suốt, sắc sảo
chớ không phải là lối chửi rủa. Trong
Bóng Tối Lịch Sử
của ông Mai Thạch Lê Nguyên Phu là kết tinh
của sự dồn nén, uất ức qua bao năm
bị thất sủng được phát tiết ra thành
cái “quái thai khảo luận” do tính khí ti tiện,
đầu óc hẹp ḥi bệnh hoạn, tự tôn nhưng
kiến thức quá nông cạn. V́ khinh thường
độc giả nên ông cầm nhầm chữ nghĩa,
lộng ngôn và bẻ cong sự thật. Với
kiểu xuyên tạc trắng trợn, ông Phu vô t́nh hay
hữu ư tiếp tay với Việt Cộng trong
việc phá rối và gây nghi kỵ, mâu thuẫn
giữa những người Việt trong mục đích
chống phá sự đoàn kết của những người
c̣n nặng ḷng với đất nước. Tương
lai, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có em t́m
hiểu về lịch sử đất nước
thời ông Diệm. Vớ phải cuốn sách này, chúng
sẽ chỉ thấy những sự kiện giả trá,
biện luận nhảm nhí, lời lẽ bất nhă,
ngôn ngữ bẩn thỉu thô tục, kiến thức
ráp nối kiểu “đầu gà, đít vịt”,
chúng sẽ nghĩ thế nào về khả năng và
tư cách của người Việt cầm bút. Chúng
có đặt câu hỏi là những “ông lớn”
của chính phủ Ngô Đ́nh Diệm có khả năng
và tài đức như người viết quyển sách
Trong Bóng Tối Lịch Sử th́ chúng có ngạc nhiên
là tại sao chế độ ấy chẳng sụp
đổ sớm hơn trước áp lực của
khối Cộng Sản không? Tóm
lại, quyển sách này chỉ là một thứ
ngụy thư rác rưởi, một tuyển
tập từ ngữ dùng để rủa sả và căi
vặt chứ không phải là sách. Dù không thích
loại thơ thất ngôn bát cú lắm nhưng
nhớ đến bài “Ông Vỗ Ngực” của
một tác giả vô danh nào đó (38), người
viết bài này xin hoạ lại như là lời
tổng luận về tác giả và tác phẩm. Cháu
“Ông Vỗ Ngực” Thất
sủng bao năm chợt ngứa nghề Nhân
đây, người viết xin ghi đôi ḍng nhớ
về con dân đất Việt đă hiến thân v́
tổ quốc. Trong những năm bị giặc Tàu
đô hộ, những người Việt đứng
lên giành độc lập từng bị những
kẻ dựa thế giặc Minh như Lương
Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân… tàn sát
và gọi là “loạn tặc”. Nhiều người
Việt từng đứng lên chống thực dân Pháp
bị những kẻ như Hoàng Cao Khải, Nguyễn
Thân… thủ tiêu c̣n bị kết tội “phỉ
đồ”. Lớp thanh niên thế hệ 1945 đă
xếp bút nghiên lên đường theo kháng chiến,
sau khi bị Việt Cộng lợi dụng c̣n bị
kết them tội “Việt Gian”. Những thanh niên hy
sinh tuổi thanh xuân, từ bắc vô nam đi
“Giải Phóng Miền Nam” v́ bị “Đảng và
Nhà Nước” lừa phỉnh trong nhiệm vụ làm
tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế dám nói lên
sự thật đă bị kết them tội “ôm chân
đế quốc”. Ngày nay, người dân trong nước
dám nói lên việc Đảng và Nhà Nước
Cộng Sản Việt Nam bán đứng tổ
quốc cho kẻ thù truyền kiếp của dân
Việt, phải vào tù ra khám với tội danh
“chống phá Nhà Nước”. Và sau hết, xin đốt
nén hương ḷng cho những người lính
Việt Nam Cộng Ḥa đă hy sinh xương máu,
chiến đấu cô đơn trong cam go để
cho những kẻ ăn trên ngồi trốc được
sống yên thân gọi họ là “hèn nhát”, “nô tài
của Mỹ”… Mong anh linh những người đă khuất hăy tha thứ cho những kẻ ngu xuẩn, vô ơn đă bôi nhọ họ. Houston, Texas 01/2010 (31)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 22. http://www.chuyenluan.net/2004/200404/0404_20.htm (34)
Vĩnh Phúc, Sđd, trang 331-352. Ông “Vỗ Ngực” Học
thuật văn chương chửa sạch nghề
|