Việt Nam
Cộng Hoà 1975, Nguyên Nhân Sụp Đổ
|
Nói
về những nguyên nhân khiến miền nam mất
về tay CS đă được biết bao người
bàn tán tranh luận từ mấy chục năm qua cho
tới nay người ta vẫn c̣n tranh căi. Người
Mỹ th́ đổ lỗi cho VNCH như Tổng
thống Bush và bộ trưởng quốc pḥng Rumfield
cách đây mấy năm đă nói thua tại v́ Quân
đội VNCH không chịu đánh ! Họ ư nói ta
chỉ chờ Mỹ đánh dùm! Phía Việt Nam
nhiều người kết án tại Mỹ tháo
chạy bỏ rơi đồng minh. - Ta
thiếu một lănh tụ có đủ khả năng - Quân
đội CSBV đă nhanh chóng khai thác thời cơ,
lợi dụng các yếu điểm của QLVNCH. -Nguyên
nhân quân sự: Nguyên nhân gần gũi nhất ai cũng biết là do sự sai lầm của ông Tổng tư lệnh quân đội Nguyễn Văn Thiệu trong kế hoạch triệt thoái hai Quân khu 1 và 2 gây nên sự hỗn loạn dây chuyền sụp đổ hai vùng chiến thuật rồi đưa tới sụp đổ toàn bộ miền Nam. Kể từ sau ngày kư Hiệp định Paris 28-1-1973 trong khi BV mở mang xa lộ Đông Trường Sơn, xử dụng 16 ngàn xe vận tải chuyển vận vũ khí đạn dược vào Nam chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công 1975 , chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không có một kế hoạch nào về chính trị, quân sự để chống lại âm mưu địch cưỡng chiếm miền Nam mà chỉ ngồi chờ giặc tới và hy vọng vào sự can thiệp của không lực Mỹ. T́nh
báo yếu kém nên ông Thiệu đă khinh địch,
đánh giá sai lực lượng địch cho
rằng CSBV không đủ khả năng đánh vào các
thành phố lớn, không đủ lực lượng
để mở những trận tấn công lớn như
năm 1972. Trước hết chúng tôi xin so sánh
lực lượng hai bên vào năm 1975. Chủ lực quân VNCH được bố trí tại 4 quân khu như sau: Quân
khu 1: 3 sư đoàn BB cơ hữu của QK 1, 2, 3, và
hai sư đoàn Tổng trừ bị TQLC và Dù, 4 Liên
đoàn Biệt động quân, 410 đại bác,
khoảng 450 xe tăng thiết giáp, hơn 90 máy bay
chiến đấu. Quân khu 3: 3 sư đoàn BB chủ lực 5, 18, 25 và 4 liên đoàn BĐQ, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu. Quân khu 4: 3 sư đoàn BB 7, 9, 21 gồm 380 đại bác 493 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại. Về pháo binh ta có hơn 1500 khẩu đại bác , hơn một nửa là súng 105 ly, chưa tới 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là súng 175 ly. Về xe tăng tổng cộng ta có khoảng 2000 chiếc nhưng hơn một nửa là M-113 và các loại thiết giáp xưa cũ, khoảng gần 40% là xe M-41 và M-48, trong đó chỉ có M-48 là tương đương với T-54 của địch. Vũ khí QĐVNCH trông cũng khá hùng hậu nhưng t́nh h́nh 1975 do hậu quả cắt giảm quân viện, nhiều máy bay, xe tăng, tầu chiến… thiếu cơ phận thay thế đă trở thành bất khiển dụng. Hoả lực giảm 60% so với năm 1972, đạn dược chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. V́ phải trải quân giữ đất, toàn bộ 13 sư đoàn của ta và 15 liên đoàn BĐQ (tương đương với hơn 2 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung b́nh một tỉnh chỉ được hơn một trung đoàn bảo vệ trong khi CSBV có thể tập trung hơn 10 trung đoàn để đánh một tỉnh thí dụ như tại Ban Mê Thuột tháng 3-1975. Lực lượng chính qui CSBV năm 1975 gồm có 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn). Quân đoàn 1 có 3 sư đoàn (308, 312, 320B). Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325). Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320) Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341). Đoàn
232 có 3 sư đoàn BB (3, 5, 9) và sư đoàn đặc
công 27. Tổng cộng BV có 16 sư đoàn BB và đặc
công, ngoài ra BV có khoảng 15 trung đoàn BB độc
lập và đặc công tương đương
với 4 hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực lượng
chính qui BV năm 1975 vào khoảng 20 hay 21 sư đoàn
BB. Đầu
năm 1975 hơn 80% chủ lực quân CSBV đă có
mặt tại miền Nam chúng chỉ để
lại quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực
lượng tổng trừ bị. Khoảng hơn 70 %
chủ lực quân BV được tập trung vào QK1
và QK2 của ta. Tại QK2, BV để 5 sư đoàn
(10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn độc lập (tương
đương một sư đoàn), toàn bộ
khoảng 6 sư đoàn, tại QK1 của ta BV để
5 sư đoàn BB và hơn mười trung đoàn
độc lập, toàn bộ vào khoảng hơn 8 sư
đoàn So với năm 1972, t́nh h́nh bi đát hơn gấp bội phần v́ đồng minh phản bội xé bỏ giấy tờ cam kết yểm trợ không quân khi bị VC tấn công, một ḿnh VNCH phải gánh vác chiến trường với sự thiếu thốn trầm trọng về tiếp liệu, đạn dược. Như trên ta thấy BV tung vào chiến trường miền Trung tất cả 14 sư đoàn trong khi ta chỉ có 7 sư đoàn và 11 liên đoàn BĐQ (tương đương hơn 2 sư đoàn), toàn bộ chủ lực quân ta (kể cả Biệt động quân) vào khoảng hơn 8 sư đoàn, ta phải trải quân giữ đất, địch tập trung quân nên mũi dùi tấn công rất mạnh. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng Mùa Xuân) Tướng Thiệu đă bố trí lực lượng sai ở chỗ mạnh hai đầu, có nghĩa ta để 5 sư đoàn tại QK1 và 3 sư đoàn tại QK3, QK3 được tăng cường nhiều máy bay chiến đấu và xe tăng. Như thế ta để yếu ở QK2, đó là nơi CS chủ trương tấn công mở đầu chiến dịch 1975. Tại
QK2 như trên ta thấy chủ lực quân VNCH là 2 sư
đoàn và 7 liên đoàn BĐQ, toàn bộ chỉ vào
khoảng 3 sư đoàn trong khi CSBV tập trung tại
đây tới 6 sư đoàn, v́ ta bố trí sai
lực lượng nên không đủ sức chống
lại địch. Ngày 10-3 Cộng quân đem 3 sư
đoàn tấn công chớp nhoáng chiếm Ban Mê
Thuột, phần v́ sai lầm của Tướng Phú,
ông mắc lừa kế nghi binh của địch tưởng
chúng đánh Pleiku, phần v́ Bộ TTM và Tướng
Thiệu đă bố trí sai lực lượng
tại QK2 nên ta không đủ lực lượng
chống lại địch. Tại Ban Mê Thuột
lực lượng ta chỉ có 2 tiểu đoàn BB và
3 liên đoàn địa phương quân không thể
chống lại quân số địch khoảng 12 trung
đoàn. Theo bút kư của Nguyễn Định, năm
1975, QĐVNCH Ban Mê Thuột chỉ vào khoảng 2000
kể cả nghĩa quân, cảnh sát..BMT như
một thành phố bỏ hoang. Phần th́ hốt hoảng v́ mất Ban Mê Thuột, lại bị toá hoả tam tinh v́ hạ Viện Mỹ bác bỏ quân viện, Tướng Thiệu bèn ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên hôm 14-3-1975 mặc dù Tướng Phú nài nỉ xin ở lại giữ đất. Cuộc triệt thoái bắt đầu từ ngày 16-3, chia làm 4 đoàn, mỗi ngày một đoàn xe, mỗi đoàn 250 chiếc, ngày đầu 16-3 th́ êm xuôi nhờ yếu tố bất ngờ, ngày hôm sau dân chúng chạy ùa theo gây náo noạn cả lên , ngày 16-3 sư đoàn 320 VC được lệnh cấp tốc đuổi theo đến 18-3 th́ bắt kịp. Hỗn loạn bắt đầu xẩy ra tại Phú Bổn, bọn lưu manh côn đồ đốt chợ, VC pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đám người di tản. Tối đến VC pháo thị xă, 70% xe tăng và đại bác dồn đống tại thị xă bị phá hủy gần hết, 40 xe tăng M-41, M-48 bị huỷ, Tướng Phú ra lệnh bỏ Phú Bổn, đoàn quân đi được 20km th́ VC tràn vào Phú túc, BĐQ chiếm lại Phú Túc, ra khỏi Phú Túc người ta tranh dành nhau lên trước hỗn loạn xẩy ra, bắn nhau dành đường đi, VC đưa các lực lượng đă tham chiến tại Ban Mê Thuột để đuổi theo truy kích, tới 26-3 trong số 1200 ciếc xe chỉ có 300 cái mở đường máu về được Tuy hoà. Phạm Huấn gọi đây là một hành lang máu. Trong số 60 ngàn chủ lực quân chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ c̣n 900 người, 100 xe tăng chỉ c̣n 13 cái M-113, toàn bộ vũ khí đạn dược trị giá 253 triệu phần lớn lọt vào tay VC, theo Đại tướng Cao Văn Viên ít nhất 75% lực lượng chiếnđấu của Quân đoàn 2 bị tiêu diệt, đây là một cuộc hành quân phá sản kéo theo sự sụp đổ của cả Quân khu. Ngày 13-3 ông Thiệu lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân khu 1 đưa sư đoàn Dù về Sài G̣n. Ngày 14-3 Tướng Trưởng về dinh Độc Lập họp Hội Đồng an ninh QG về kế hoạch tái phối trí, hôm sau Tướng Trưởng ra QK1 họp nội bộ thi hành lệnh tái phối trí đưa sư đoàn Dù về Sài G̣n, ngày 17-3 TQLC ra Đà Nẵng thay Dù khiến dân chúng sợ hăi ùn ùn kéo nhau di tản trên Quốc lộ 1 về Đà nẵng. Ngày 19-3 Tướng Trưởng về Sài G̣n tŕnh bầy kế hoạch lui binh. Kế hoạch thứ nhất cho các đơn vị theo Quốc Lộ 1 từ Chu Lai về Đà Nẵng, kế hoạch thứ hai các lực lượng tập trung tại Huế và Chu Lai sau đó tầu Hải quân sẽ đưa về Đà Nẵng, trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng. Từ ngày 19-3 CSBV bắt đầu tấn công mạnh từ Bắc và Nam QK1 theo thế gọng ḱm. Ngày 20-3 đài Huế cho phát thanh hiệu triệu của Tổng thống tử thủ Huế. Chiều hôm ấy Tướng Thiệu đổi ư gửi công điện cho Tướng Trưởng không bó buộc phải giữ Huế, chỉ giữ Đà Nẵng. Ngày 24-3 Quảng Nam, Quảng Tín ở phía Nam QK1 bị VC tấn công mạnh phải rút về Chu lai, t́nh h́nh QK chỉ trong một ngày rối loạn đến mức không thế kiểm soát được . Ngày 23-3 lệnh bỏ Huế được chính thức ban hành v́ áp lực CS và binh sĩ ta ră ngũ, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước nên các đơn vị VNCH như rắn mất đầu đă tan hàng . Tại Nam QK1 sư đoàn 2 tại Chu lai được tầu đưa ra Cù Lao Ré nhưng chỉ được một nửa quân số. Các đơn vị VNCH từ Huế di tản về cửa Thuận An, Tư Hiền bị thiệt hại rất nặng, các đơn vị tập trung tại hai cửa biển đă làm mồi cho pháo binh địch, dân quân trúng pháo kích chết như rạ. Hỗn loạn diễn ra, tranh nhau lên tầu bắn giết nhau dă man, t́nh trạng hỗn loạn được coi là quá tồi tệ so với QK2. Ngày
27-3 Cuộc pḥng thủ Đà Nẵng trở nên vô
hiệu v́ hỗn loạn, dân tị nạn quá đông
(hơn một triệu người), phố xá
chật ních những người, hỗn loạn
diễn ra dữ dội tranh nhau lên tầu, lên máy bay
bắn giết nhau không c̣n quân kỷ y như xă
hội thời thượng cổ. Ngày 28-3 xă ấp
quanh Đà Nẵng lọt vào tay CSBV, 4 sư đoàn BV
bao vây tấn công Đà Nẵng. Các sư đoàn 1 và
2, các đơn vị thiết giáp, pháo binh VNCH
thiệt hại nặng trên đường di tản
khiến cho cuộc pḥng thủ Đà Nẵng không c̣n
lực lượng nào ngoài sư đoàn 3 . Ngày 29-3 Tướng
Trưởng xin lệnh bỏ Đà Nẵng, thành
phố lớn thứ nh́ của VNCH coi như mất
ngày 29-3. Trong ṿng 10 ngày Quân đoàn 1 gồm 3 sư
đoàn BB và sư đoàn TQLC, thiết giáp, pháo binh,
Công binh… coi như tan ră, VC chiếm được
cả QK 1 mà không phải giao tranh dai dẳng. Qua kinh nghiệm các cuộc Tổng công kích trước đây như năm1968, 1972 địch không đủ khả năng tấn công cả 4 quân khu cùng một lúc v́ mũi dùi sẽ yếu dễ bị bẻ gẫy mà chúng chỉ tấn công vào 2 Quân khu nhất là Vùng 1 và 2. Năm 1975 CSBV tung vào chiến trường miền Trung 14 sư đoàn (6 SĐ tại QK2 và 8 SĐ tại QK1), tính ra khoảng 70% chủ lực quân của chúng, mũi dùi tấn công rất mạnh, ta chỉ có 7 sư đoàn (22, 23, 1, 2, 3, TQLC, Dù) và 11 Liên đoàn BĐQ trải quân giữ đất, đă thế ông Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Sài G̣n khiến cho t́nh h́nh càng bi đát hơn. Trong khi ấy Vùng 4 đă có trên 200 ngàn Địa Phương quân (40% toàn bộ ĐPQ toàn quốc) lại để thêm 3 Sư đoàn BB giữ đất, tại đây áp lực địch nhẹ chúng chỉ có 6 trung đoàn, không có nhiều xe tăng đại bác có nhiệm vụ đánh cầm chân QĐVNCH, ta có thể rút bớt quân để tăng cường cho chiến trường miền Trung, chắc ông Thiệu cũng biết vậy nhưng ông không muốn đưa thêm quân tăng viện v́ trong thâm tâm ông muốn bỏ miền Trung để giữ hai QK 3 và 4. Cuối
tháng 3-1975 QK 1 hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân, hai ngày
sau QK2 cũng mất gần hết lănh thổ chỉ
c̣n Phan Rang và Phan Thiết. Ba sư đoàn 1, 3, 23 BB
bị tan ră hoàn toàn, sư đoàn 2, 22, TQLC, các sư
đoàn không quân, Lữ đoàn Dù, BĐQ.. bị
thiệt hại từ 60 tới 70 % quân số , toàn
bộ vũ khí đạn dược xe tăng đại
bác của miền Trung coi như mất hết, theo
Phạm Huấn: Điều nguy hại nhất là phần lớn số vũ khí đạn dược ấy lại lọt vào tay CSBV, giáo vào tay giặc, miền Nam đưa dao cho người ta giết ḿnh. Văn Tiến Dũng viết trong Đại Thắng Mùa Xuân. “Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng đạn dược đă dự tính trong kế hoạch mà lại c̣n lấy thêm được khá nhiều của địch” (Trang 117). “Ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần quân ngụy…..(trang 136-137) “…Vũ khí đạn dược tiêu hao không đáng kể. . . . Ta thu được của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược” (trang 137) Cũng có nhiều người cho rằng ông Thiệu tháu cáy giả vờ thua chạy để lôi kéo Mỹ vào yểm trợ nên đă đưa tới sụp đổ nhanh chóng như vậy, ông đă đem đất nước non sông gấm vóc ra đánh bạc th́ thật hết chỗ nói. Sau khi hai QK1 và QK2 sụp đổ, giới lănh đạo Sài G̣n chỉ c̣n mong manh hy vọng vào sự cứu trợ của Mỹ. CSBV hối hả chuyển vận vũ khí đại binh vào Nam để tấn công chiếm Sài G̣n trước mùa mưa th́ ta không có một kế hoạch cụ thể nào để ngăn chận địch như phá cầu, oanh kích các đoàn xe, phục kích đánh công voa… mà chỉ ngồi chờ giặc. Vả lại cấp lănh đạo, ông to bà lớn của ta chỉ lo kế hoạch “tẩu vi thượng sách” cho ḿnh hơn là lo cho đất nước, cha chung không ai khóc. Tại Xuân Lộc, từ 9-4 cho tới 20-4- 1975 sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đă anh dũng đẩy lui các cuộc tấn công vũ băo của VC trong hơn một tuần lễ nhưng cũng không cứu văn nổi t́nh thế. CSBC dốc toàn bộ lực lượng vào canh bạc cuối cùng, chúng đưa vào trận địa 20 sư đoàn BB, khoảng 280 ngàn người, cùng với 400 xe tăng, 400 đại bác, QĐVNCH gồm 6 sư đoàn chủ lực và địa phương quân, thiết giáp.. tổng cộng 240 ngàn người nhưng lính nhà nghề chỉ có khoảng 60 ngàn. Nhân lực đă chênh lệch, ta lại lâm vào t́nh trạng hết đạn trong khi VC đầy đủ đạn dược. Năm tuyến pḥng thủ của ta quanh SàiG̣n gồm:Tuyến Củ Chi ở tây bắc, Tuyến B́nh Dương phía bắc, tuyến Biên Hoà phía đông bắc, tuyến Vũng Tầu phía đông, Tuyến Long An phía Nam. Ngày
21-4 Ông Thiệu từ chức bàn giao cho ông Hương,
ngày 24-3 hai ông Thiệu và Khiêm bỏ nước ra
đi, tinh thần quân ta suy sụp. Ngày 26-4 Cộng quân
bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài
g̣n, ngày 28-4 Đại tướng Dương Văn
Minh lên thay thế ông Trần văn Hương, các pḥng
tuyến của ta sụp đổ dần dần trước
các đợt tấn công pháo kích của địch.
Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất
thế kỷ. V́
thế ngoài nguyên nhân quân sự nêu trên c̣n những
nguyên nhân khác đóng góp vào sự sụp đổ
miền Nam. Một nguyên nhân gần nữa vô cùng quan
trọng ở đây là vấn đề cắt quân
viện. Theo
Nguyễn Đức Phương vấn đề
cắt quân viện đă manh nha từ đầu
thập niên 1970. Người Mỹ kư hiệp định Ba Lê để rút quân ra khỏi VN và lấy tù binh về không đếm xỉa ǵ tới sự tồn vong của miền Nam nước Việt. Sir R Thompson, chuyên viên về du kích chiến cho rằng miền Nam bị đe doạ chỉ v́ để cứu nước Mỹ khỏi cảnh xâu xé nhau, miền Bắc bị buộc phải ngồi vào bàn hội nghị để cứu nước Mỹ. Ông M.Gauvin nguyên chủ tịch Ủy Hội Kiểm Soát Quốc tế tuyên bố ngày 4-4-1975 cho rằng miền Nam VN thất bại do quyết tâm bỏ rơi đồng minh của Mỹ nhiều hơn là do hết đạn. “C̣n về khả năng tồn tại, ông cho là ‘vẫn c̣n tùy thuộc vào số quân viện Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH’. ĐT Viên kết luận “Một sự thật không thể chối căi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu” Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 457. Khi lập luận như trên người ta sẽ đạt thêm câu hỏi tại sao họ lại bỏ rơi VNCH? ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết “Tại sao Mỹ lại dứt khoát bỏ rơi Miền nam? Câu trả lời ngắn gọn là v́ quyền lợi của Mỹ ở Việt nam đă không c̣n nữa” KĐMTC trang 455. Ngoài những nguyên nhân gần nêu trên, lại những động cơ khác đă gây lên hoặc ảnh hưởng trực tiếp mà ta gọi là nguyên nhân xa, người Pháp gọi là cause lointaine. Trọng Đạt
|