Việt Nam Cộng Hoà 1975, Nguyên Nhân Sụp Đổ 
Phần Hai 
 Trọng Đạt
   


Thuyết Domino không c̣n giá trị:

Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu bộ trưởng Quốc pḥng Laird dưới thời Tổng thống Nixon cho biết Tổng thống Ford năm 1975 đă bác bỏ thuyết Domino có từ 7-4-1954 dưới thời Tổng thống Eisenhower, thuyết này cho rằng hễ mất một nước th́ mất luôn nhiều quốc gia khác y như trong ván cờ Domino.  
Các cấp lănh đạo Hoa Kỳ đă sống qua thập niên 30 với những biến chuyển lịch sử trên thế giới và nhận thấy có những tương đồng với t́nh h́nh Đông Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật chiếm Măn Châu đưa tới lấn chiếm Trung Hoa, Đông Dương, Mă lai..rồi dẫn tới trận Trân Châu Cảng. Đức chiếm Áo, Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới chiến tranh Âu Châu. Nếu xâm lược không bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên theo kiểu tầm ăn dâu y như một căn bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến chuyển lịch sử trên đây đă h́nh thành học thuyết Domino.

Tổng thống Eisenhower là người đầu tiên đề xướng học thuyết Domino trong cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên báo chí ông cho biết nếu mất Đông Dương th́ dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái lan, Mă Lai, Nam Dương…và rồi từ từ Đài Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân Tây Lan cũng mất theo. Thuyết Dommino đă khiến Mỹ quyết tâm ngăn chận chính sách tầm ăn dâu, sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy không thể hoà hoăn với Cộng Sản được.
Việt Nam được coi như một thí điểm để ngăn chận làn sóng đỏ, người Mỹ cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các nước lân bang th́ dần dần năm châu bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc bởi biển đỏ và họ sẽ phải xây một Vạn lư trường thành thứ hai để chống ngoại xâm. Người Mỹ chỉ đổ quân đổ của vào một cuộc chiến nào khi cảm thấy nền an ninh của đất nước họ bị đe dọa.  
Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup Việt Minh, tháng 10-1950 Mỹ đă đă vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ chở tới Sài G̣n 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, mới đầu quân viện Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng nổ dữ dội, quân viện tăng lên tới 74% .  

Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam để biến nơi đây thành tiền đồn chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964 CS tăng cường chiến tranh du kích ḥng xâm lược miền Nam bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt đổ quân vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới cuối năm tổng số quân Mỹ tăng lên 184 ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn, năm 1967 lên 485 ngàn, năm 1968 lên 536 ngàn, đó là đỉnh cao của cuộc đổ quân. Tướng Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào VN năm 1965 th́ chỉ trong ṿng 6 tháng là mất v́ áp lực CS rất nặng. Sau Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân chúng chỉ trích dữ dội v́ sau mấy năm truy lùng và diệt địch mà vẫn không b́nh định được miền Nam . Giới lănh đạo Mỹ bắt đầu chán ghét cuộc chiến tranh VN v́ phong trào phản chiến từ 1965 đến nay ngày càng dữ dội, và nhất là họ thấy rằng hiểm hoạ CS đe doạ Đông Nam Á không c̣n nặng nề như trước.  

BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc tế, BV cũng bị CSQt thúc dục đánh tới cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế, chính trị Đế Quốc, tuy nhiên hiểm họa CS tại Á Châu không c̣n trầm trọng như trước nữa v́ nay Nga Tầu chống đối nhau ra mặt như kẻ thù. Đụng phải sức chống trả dữ dội của Thế giới Tự do, CS Quốc tế cũng chùn bước vả lại việc cung cấp vũ khí cho đàn em BV họ cũng tốn kém rất nhiều, có tài liệu cho biết Trung Cộng viện trợ cho BV từ 1950 tới 1975 tốn kém 20 tỉ đô la (Việt Nguyên, Tổng thống Nixon sang Tầu..). Thuyết Domino dần dần không c̣n ư nghĩa như từ 1955 cho tới những năm Mỹ mới đổ quân vào VN.

Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân về nước. Họ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân đội Mỹ sẽ bàn giao trách nhiệm pḥng thủ và bảo vệ miền Nam cho QĐVNCH. Thực hiện VN hoá chiến tranh là họ đă nghĩ đến việc bỏ VN cũng như Đông Dương v́ thuyết Domino không c̣n đứng vững, mất VN cũng sẽ không ảnh hưởng ǵ tới các nước Đông Nam Á. Quyết định bỏ Đông Dương coi như đă bắt đầu thành h́nh, vấn đề c̣n lại là rút lui trong danh dự để khỏi bẽ mặt một siêu cường. Từ năm 1969 họ đă đi đêm với Trung Cộng để t́m cách rút quân ra khỏi VN, bỏ Đông Dương v́ nó không c̣n đúng với ư nghĩa tiền đồn chống Cộng nữa.  

Song song với VN hoá chiến tranh, họ t́m cách hoà hoăn với Trung Cộng, anh khổng lồ nghèo kiết xác này cũng tốn kém rất nhiều với cuộc chiến tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày 21-2-1972, cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh đă thay đổi cả một kỷ nguyên. Điều mà người Mỹ ao ước bấy lâu nay đă thành sự thật, Đông Nam Á không c̣n bị đe doạ bởi chiến lược tầm ăn dâu của Trung Cộng, thuyết Dommino đến lúc lỗi thời, không c̣n giá trị, bỏ Đông Dương coi như điều tất yếu.
Trận Mùa hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh cấp sư đoàn với nhiều xe tăng đại bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng, họ đă yểm trợ oanh tạc B52 tối đa và Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để tạo thế mạnh trên bàn hội nghị tại cuộc Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định Paris kư kết ngày 28-1-1973 chỉ là mớ giấy lộn để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh mặc dù họ thừa biết VNCH sẽ lănh đủ.  

Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng Đính trong hồi kư của ông .  

“Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đă ghi lại nhận xét của ông Ngô Đ́nh Nhu từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó (Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể một cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, th́ ḿnh cũng để cho tụi nó thử sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi nó là t́m một thế ‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, th́ đánh để làm chi, rốt cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là Bắc Kinh, ḿnh chỉ là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận định đó đến thập niên 1970 đă trở thành sự thật và khi Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông, th́ tiền đồn chống Cộng của VNCH đă hết ư nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến tranh không c̣n cần thiết mặc cho nền hoà b́nh này đă làm sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ và đẩy miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội” Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 635.
Nguyễn Đức Phương kết luận.  
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nh́n thấy được chính sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc chém giết. Mùa hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa hè rực lửa. Những trận đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đă hầu như vô nghĩa. Hiệp định Ba lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại tù binh và đoạn chiến. Số phận của VNCH đă được định đoạt từ lâu và cũng không phải tại chiến trường.” CTVNTT trang 635, 636.  

Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói:

“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc th́ giá trị của Miền Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đă không c̣n là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền Nam đă hết vai tṛ một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề c̣n lại đối với Mỹ th́ chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi” Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.  
Phong trào phản chiến ngày một lên cao cũng đă đóng vai tṛ then chốt đưa tới sụp đổ miền Nam ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên nhân xa, nhưng Phong trào có tính cách quyết định v́ nó là động cơ thúc đẩy Quốc Hội bỏ phiếu cắt viện trợ quốc pḥng cho miền Nam đưa tới sụp đổ trong chớp mắt.
 

- Phản Chiến:

Phong trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng thống Johnson đổ quân vào Việt Nam giao chiến với Việt Cộng, hồi ấy khoảng 5,000 nhà khoa học phản đối chiến tranh hoá học khai quang. Ngày 15-5-1966 khoảng 12 ngàn người biểu t́nh chống chính sách của Tổng Thống Johson tại Việt nam. Ngày 23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu t́nh trước Ngũ Giác Đài, họ trương biểu ngữ nói “Nhân danh nhân loại chúng tôi muốn nói chuyện với bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969 tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam, thời điểm này có 31 ngàn người lính Mỹ chết ở Việt Nam.
Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu t́nh phản chiến tại Chicago, 5,000 người phản chiến tại New Jeersey bị giải tán bằng lựu đạn cay. Ngày 11-11-1969 phe ủng hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh Mỹ.. tổng cộng 10 ngàn người biểu t́nh tại Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống chiến tranh tại Hoa Thịnh Đốn và các thành phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người phản chiến. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu t́nh tại đại học Kent, Ohio 4 sinh viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị thương khiến phong trào càng lên cao dữ dội.  
Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đă bị phân hoá, a people divided. Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá v́ chiến tranh VN. Nhiều người cho rằng phản chiến do những cuộc biểu t́nh của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoăn dịch v́ lư do học vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ v́ chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đă phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc pḥng, 2 triệu người đă (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đă trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch, 300 ngàn t́m cách xin hoăn dịch bị từ chối, 70 ngàn được hoăn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc.  

- Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao:  
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối 1966 ông nản ḷng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau v́ bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago . Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York ông đă lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa đ̣i nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.  
Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans against The War gọi tắt là VVAW). Họ lư luận rằng những người đă bị gọi nhập ngũ đưa sang Việt Nam tham chiến có quyền phản đối chiến tranh, năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết tŕnh tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4 -1971 họ biểu t́nh tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có con là lính chết trận ở Việt Nam đến Nghĩa trang Arlington National Cemetery . Những người này đă vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh. T́nh trạng đă đi đến chỗ thật bi đát khi những người này t́m cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.  
Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm trại, lập hàng rào gỗ quanh điện Capitol, những người cựu chiến binh đă ném trả huy chương, trong số này có John Kerry, ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làmg mạc ở Việt Nam đă hăm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hăn. Họ nói đất nước ta đă tạo dựng con quái vật hung dữ, đó là đạo quân một triệu người, và những người lính chiến đă được chỉ dậy dùng bạo lực và chết chẳng có mục đích nào cả ( … and who are given the chance to die for the biggest nothing in history), chúng tôi cựu chiến binh trở về trong uất hận v́ bị chính phủ Hoa Kỳ lạm dụng.  
Năm 1970, phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đă chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bay. Bọn phản chiến đă dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam .
Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đă bị chính phủ đánh lừa, ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy và phải rút bỏ Việt Nam, họ nói t́nh h́nh Việt Nam không có ǵ để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and from our experience, there is nothing in South Vietnam which could happen that realistally threatens the United States Of America). Chúng tôi đ̣i hỏi ở Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có thẩm quyền tạo dựng và duy tŕ quân đội, chúng tôi đến đây không phải để gặp Tổng Thống mà tin rằng Quốc Hội có thể thoả măn ư nguyện người dân để đưa chúng ra rút khỏi VN (that we should be out of Vietnam now..)  
T́nh h́nh phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho chính phủ ngày một suy yếu, đất nước bị phân hoá, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến tranh miền Nam vừa phải đối đầu với phong trào phản chiến.  
Chúng ta có thể kết luận một cách giản dị phong trào phản chiến xuất phát từ tâm lư của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới h́nh thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm 1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương tại Việt Nam , theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn Việt Cộng tử thương. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử của VC nhưng địch không bao giờ có một lời than văn, như thế ta thấy người Mỹ đă sai lầm khi tham gia cuộc chiến tranh với một kẻ thù nghèo đói, thằng nghèo đói không bao giờ sợ chết. Người Mỹ đă tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.  
Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích những đề tài anh hùng hào hiệp, cuốn phim nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người Hiệp Sĩ (Seven Samourais) quay năm 1954 đă được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ, họ bắt chước quay thành phim cao bồi miền Tây tới 4 lần vào những năm 1960, 1966, 1969, 1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần của bẩy người hiệp sĩ anh hùng giúp dân làng chống lại bọn cướp Người Mỹ rất thích những đề tài anh hùng hào kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy, họ thích làm “yêng hùng” nhưng thật là khôi hài thay, “yêng hùng sợ chết”! Người Mỹ thích làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết, thật là diễu hết chỗ nói!

Phản chiến đă tạo niềm tin cho CSBV, chúng chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh 1947-1954 đă có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ v́ không giải quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của VC đă từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt Pháp nay chúng lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phong trào phản chiến đă là cơ hội bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt phiếu và rồi nắm đa số tại Quốc Hội. Chính họ đă hạ “Nhát gươm đao phủ” thanh toán miền Nam VN.
Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN, nhiều người cũng cho nguyên nhân cả từ hai phía.  

- Phía Việt Nam :

Các nhà chính trị, tướng lănh, kư giả, các nhà nghiên cứu… như cựu đại sứ Bùi Diễm, tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Hoàng Lạc, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương … đều cho rằng ta thiếu nhà lănh đạo có khả năng để lèo lái con thuyền quốc gia, thậm chí có người nói đất nước đă được giao phó cho lănh đạo tồi.  
Thật vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968, guồng máy tương đối c̣n có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối nát tồi tệ, nó đă phá hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu có thể nói đă tiến tới chỗ tột cùng của thối nát. Các chế độ, chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân c̣n chấp nhận được, đến Nguyễn Văn Thiệu th́ thật hết nước nói. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức than thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục trên đống vàng”!  
Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”.  
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc hái ra tiền đều được mua bán trả giá cả ṣng phẳng, ngoài ra quan chức phải nộp tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ thống quân giai, Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương. Nguyễn Đức Phương nói các h́nh thức tham nhũng tại miền Nam đă được nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính: buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam History by television, ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption) đă phát triển quá độ tại miền Nam VN, chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rơ như vậy và họ đă phải che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm um lên, nếu đến tai Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.

Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xă hội, b́nh định phát triển.. bị đục khoét trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục tiêu kinh tế quân sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng bắt nguồn từ ḷng tham vô đáy của con người hơn là v́ thiếu thốn. Các quan chức có được căn nhà, cái xe hơi th́ cũng được rồi, so với đời sống nhân dân như thế cũng là được quá ưu đăi. Nhưng kẻ tham ô không dừng chân ở đó, được voi tṛi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn điền, mua dăm bẩy căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha Trang, cái Đà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại quốc… Tham nhũng như đă nói ở trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu tinh thần người dân cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con mắt người ngoại quốc.

- Hậu quả của t́nh trạng tham nhũng này đă được một sĩ quan nhận xét.  
‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xă hội. Tại Việt Nam , một nước đang trong thời chiến th́ sự bất công trong xă hội lại càng rơ ràng hơn so với các nước khác. Tham nhũng đă tạo ra một thiểu số nắm giữ tất cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn giai cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn và phải chịu hy sinh.Họ mới chính là người đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh sát, phải mua phân bón với giá cắt cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ do chính phủ ấn định, và cũng chính họ đă cho con cái đi chiến đấu và hy sinh cho đất nước trong khi các công chức cao cấp của chính phủ và những kẻ giầu có lại gửi con cái ra nước ngoài.Một bác sĩ quân y đă nói với tôi rằng ông đau ḷng khi nh́n thấy những thương binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều thuộc giai cấp b́nh dân, thuộc các gia đ́nh nông dân, các thương binh này phải chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính phủ tuyên bố t́m cách chiếm ḷng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn khoảng cách giữa giai cấp lănh đạo và quần chúng.” Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.  

Hồi ấy trên báo chí đă có người lên án bất công xă hội tại miền Nam ngày càng trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận th́ tại các thành phố lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ xông pha mũi tên ḥn đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xă hội đă ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu cho một chế độ bất công thối nát.  
Phạm Huấn có ư chê các Tướng lănh Việt Nam không có sự ngay thẳng, tư cách như các Tướng lănh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre Tướng 5 sao, Tư lệnh Đông Dương nhưng vẫn để cho người con một, Bernard De Lattre đóng tại đền Non nước Ninh B́nh. Mặc dù vua Bảo Đại đề nghị đưa Bernard về làm trong văn pḥng Quốc trưởng nhưng ông Tướng vẫn để con chiến đấu tại chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt, Đô đốc Sharps, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương đă để con trai ông, Thiếu tá phi công Mac Cain tham gia oanh tạc và đă bị bắn rơi. “Trong khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể t́m thấy con một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận” Phạm Huấn,Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133
“..con những ông Tướng khác th́ cứ gần đến tuổi động viên đă bằng cách này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng động viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, v́ không có tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại ‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài G̣n hay hay các tỉnh” Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết theo lời kể của Thiếu uư Phạm văn Trung, sư đoàn 18 BB.  
Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có nêu ra một vụ tham nhũng hối lộ động trời của các Tướng lănh VNCH, chẳng biết hư thực ra sao.
“Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, t́nh báo VNCH báo cáo sự hiện diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa 712, gần thị trấn Snoul, Cam Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9 được phát hiện tại vùng đồn điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó là hai mục tiêu hành quân của Quân đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt 1971. Kế hoạch đă bị đ́nh hoăn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III QLVNCH.  
Trung Tướng Đỗ Cao Trí đă bị thảm sát v́ đă cùng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do toà Đại sứ Nga tại Paris trao cho Quang để thả Trung Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chạy trối chết qua Cam Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao vây tại vùng rừng Tây Ninh v́ những cánh quân của Quân đoàn III tiến quá nhanh, cục R chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ đánh điện cầu cứu Hà Nội. MACV phối hợp Đệ 2 Quân đoàn tiền phương Hoa Kỳ (US II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một lữ đoàn Dù, Liên đoàn 5, 6 Biệt động quân tung quân bao vây, Cục R chỉ c̣n một trung đoàn bảo vệ, cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên quân Việt Mỹ siết chặt ṿng vây, Lữ đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy động, một liên đoàn Biệt Động Quân lănh nhiệm vụ án ngữ biên giới Cam Bốt th́ bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng Đỗ Cao trí cho lệnh rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân th́ tối hôm đó bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở cho toàn bộ Trung ương Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng đồn điền Snoul.  
Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên ra tay tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc sứ Komer (hàm Đại sứ) kể lại, ông đặc trách B́nh định phát triển MACV.”
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ tịch Phong trào Nhân dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các nhóm khác như sinh viên, kư giả, chính khách.. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng vơ lực khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.  
Người dân trong nước đă quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói: “Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi v́ đă yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”.  
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, kư giả… đều cho rằng đất nước đă được giao phó vào tay lănh đạo tồi. Trần Việt Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà lănh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền th́ đánh, không tiền th́ chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch ǵ về chính trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đă hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc pḥng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…  
Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về đường lối, lư tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là h́nh thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo đường hướng chúng đă vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lư tưởng Quốc gia, lư tưởng Tự Do Dân chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu th́ đánh đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đă khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi c̣n trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xă hội miền nam đă cấu thành yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806

Một điều không thể chối căi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến cho CS đă thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng phái Quốc Gia đă chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm là người có bản lănh cao nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Đụng chạm với Bảo Đại thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được triệu hồi sang Pháp để Quốc trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều nhiệt t́nh ủng hộ Thủ tướng Diệm, đả đảo và truất phế ông vua vong bản Bảo Đại. Năm 1956 ông Diệm Trưng Cầu dân ư lên làm Tổng thống rồi từ từ xung đột với các đảng phái, nhân sĩ Quốc gia. Những người Quốc gia trước đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông. Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối lập ra mặt.

Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào t́nh trạng chia rẽ trầm trọng gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lănh tranh giành quyền hành biến miền Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên báo chí, rồi lại có phe chủ trương chia rẽ Bắc Nam để ḥng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền quân nhân đă tạm ổn định được t́nh h́nh lại bị phong trào Phật Giáo miền Trung chống đối dữ dội, phong trào đă gây t́nh trạng xáo trộn nhiễu nhương khiến cho nhân tâm xao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc gia.  

Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys tuyên bố với báo Newsweek, ông bi quan cho rằng chỉ có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam là một xứ có quá nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét lại đường lối và sẵn sàng thừa nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dù Cộng Sản có thể thắng trong cuộc bầu cử đó. Như thế những cuộc biểu t́nh, chia rẽ nội bộ của ta đă bắt đầu khiến người Mỹ chán nản, chính chúng ta làm cho họ chán.  

Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu t́nh chống chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái, chính khách… khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán nản và ảnh hưởng tai hại đến sự sống c̣n của đất nước.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.  

- Kẻ Thù dai dẳng:  

Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút vào các chiến khu, từ năm 1949, Mao thắng Tưởng nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh được Trung cộng viện trợ vũ khí ồ ạt bắt đầu chuyển bại thành thắng. Những năm 1950, 1951, 1952 được Trung Cộng dậy cho lối đánh biển người, Việt Minh lấy thịt đè người tấn công quân Pháp dữ dội tại trận Vĩnh Yên 1950, sông Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh thí quân đẩy thanh niên hết lớp này đến lớp khác vào họng súng địch mà không thành công ǵ mấy nhưng nó đă làm cho đối phương phải run sợ trước quyết tâm của một kẻ thù liều mạng. Ngay từ 1952 người dân Pháp đă quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông Dương, chết người tốn của, không hy vọng ǵ thắng được kẻ thù. Đến năm 1953, 1954 họ chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh đến cùng cực, cho dù nếu không thua trận Điện Biên Phủ họ cũng tính chuyện rút quân về nước càng sớm càng tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đă có 19 chính phủ bị đổ v́ không giải quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.  


Người Mỹ đổ quân vào miền Nam giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả lực hùng hậu có thể đè bẹp cuộc xâm lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong năm, sáu tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC bị oanh kích, truy nă chết như rạ nhưng lạ thay, không có dấu hiệu ǵ cho thấy địch phải rút lui, từ bỏ ư định xâm lăng. Không những thế, VC vẫn gia tăng xâm nhập hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết có từ thời Pháp thuộc. Năm 1967, 68, 69 người Mỹ thống kê cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy trăm ngh́n, trong khi ấy người Mỹ chỉ mới thiệt hại ba chục ngh́n, VC vẫn gia tăng xâm nhập và rồi người Mỹ thất vọng, họ cho rằêng VC sẵn sàng chiến đấu dù phải hy sinh thêm một triệu nữa và số thiệt hại của Mỹ sẽ c̣n lên tới 100 hay 200 ngàn người…

Ngày 26-2-1968, khi liên quân Việt Mỹ đă tái chiếm lại Huế trong trận Tết Mậu thân, đài VOA nói: “Hôm nay ngày 26-2 Huế đă được các lực lượng VNCH và Mỹ hành quân giải toả, chấm dứt một cuộc chiến tranh bẩn thỉu nhất kéo dài từ một tháng qua”
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Việt Nam bẩn thỉu v́ các chiến thuật chiến lược của địch tiểu nhân nhơ bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC miệng nói hoà b́nh tay ŕnh đánh trộm, lợi dụng ngày hưu chiến, ngày Tết để đánh. Chủ trương lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC dùng tất cả mọi thủ đoạn tiểu nhân bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn bà trẻ em đi trước để làm bia đỡ đạn. Người Mỹ đă từng chiến đấu tại Âu Châu với quân Đức, Á Châu với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề thấy một cuộc chiến tranh nào kỳ quái như tại VN. Họ phải đương đầu với một kẻ thù dai dẳng, cố đấm ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù có mặt khắp nơi ẩn hiện như ma, một cuộc chiến tranh không giới tuyến. Tất cả những chiến thuật chiến lược VC đều không đếm xỉa ǵ tới qui ước chiến tranh quốc tế, địch pháo kích vào các khu vực đông dân cư để gây náo loạn, không đếm xỉa ǵ tới sinh mạng đàn bà trẻ nít.
Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC cũng cố đấm ăn xôi y như tại chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn thỉu, ma mănh lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá chán ghét chiến tranh VN và t́m cách rút chân ra v́ biết không thể thắng được kẻ thù liều mạng trong một cuộc chiến tranh bẩn thỉu như vậy. Trận Mậu Thân VC tuy bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng chúng lại thắng lợi to lớn về chính trị, địch đă tạo được sự ghê tởm cho kẻ thù để họ phải chán nản bỏ cuộc. Sự ĺ lợm, cố đấm ăn xôi đă đạt được kết quả mong muốn, VC đă thành công trong cuộc chiến tranh Việt Pháp và lại áp dụng “chiến lược cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến kẻ thù phải ghê tởm. Sau 1975 những người ở ngoài Bắc vào Sài G̣n nói “ Thằng nghèo đói nó không sợ chết”, đó là nguyên do đưa tới sự sai lầm của người Mỹ, họ đă đưa quân vào tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Trong phim Viêtnam History By Television, Vơ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của một kư giả Tây phương: "Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới thắng lợi cuối cùng”.
Nguyên văn “Nous continuerons à combattre jusqu’à la victoire finale..”. Sự thực th́ Giáp không chiến đấu mà chỉ đẩy thanh niên vào chỗ chết.  


Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đă đi vào vết xe đổ của người Pháp, cuối cùng đă phải đầu hàng chiến lược bẩn thỉu ghê tởm của kẻ địch. Khát máu như bọn thực dân Pháp c̣n phải bỏ chạy huống hồ Mỹ. Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta phải thắng, họ yểm trợ B52 trải thảm cho QĐVNCH giành thắng lợi tại chiến trường để có ưu thế trên bàn hội nghị Paris ḥng kư kết hiệp Định rút quân về nước. Cuối cùng kẻ địch lại thắng thêm một trận vĩ đại nữa qua chiến lược cố đấm ăn xôi.

Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm những yếu tố phụ thuộc khác, trong khi ta bị địch tấn công tại tuyến đầu, đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt hoảng tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật ở nhiều chỗ, Quảng Đức di tản ngày 22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC cũng nói đă bị tràn ngập…
Những nguyên nhân chúng tôi đă nêu ở trên chỉ là tương đối, mặc dù những nay nhiều hồ sơ đă được giải mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn c̣n nhiều bí ẩn. Trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho biết sau khi ném 2 quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV bị thiệt hại khoảng 10 ngàn người, ông xin lệnh cho ném thêm 5 quả nữa nhưng được trả lời người Mỹ chỉ cung cấp ng̣i nổ cho 2 quả, họ chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như thế ta mới thấy đă có sự sắp đặt sẵn giữa các thế lực siêu cường v́ nếu họ cho ta ng̣i nổ 10 quả mà không cần viện trợ khẩn cấp, không cần đưa B52 sang trải thảm ta vẫn thừa sức đẩy lui VC ra khỏi miền Nam. Rơ ràng họ đă sắp đặt bỏ miền Nam chứ không phải vấn đề tốn kém, bởi v́ bom đă để sẵn cả nhưng chỉ thiếu ng̣i, cái ng̣i chẳng đáng giá bao nhiêu.  

Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam và Đô Đốc Sharps, Cựu Tư lệnh Thái B́nh Dương Mỹ phúc tŕnh dài 347 trang về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào Miền Nam năm 1965 th́ sẽ mất trong 6 tháng. Hai cựu Tư Lệnh này nhấn mạnh sự bó tay của Quân đội Mỹ trước chính sách hạn chế chiến tranh của Tổng thống Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày 27-1969 Đô Đốc Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara đă không cho oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn xâm nhập nên các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu.
Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự mà là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ nên các kế hoạch công phá địch đă bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt giả thuyết cho rằng họ bị tư bản chi phối cố t́nh kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả vờ không đánh thắng được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự nghi ngờ này đă đưa tới những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh tại Mỹ cũng như tại Việt Nam năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có lợi cho CS. Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp tục oanh tạc th́ đă thắng rồi, BV lợi dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để chuyển quân vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ v́ đă quá phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc pḥng, kinh tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của người bạn Đồng Minh .  

Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh , cái tṛ mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đă có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây đă hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc Xă tiến quân đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ th́ được lệnh phải dừng lại ngay lập tức v́ Tiệp đă được nhường cho Nga. Sau này những bí mật đă được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga v́ họ có nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy vọng ǵ lắm.  

Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đă gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật vẫn c̣n hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á, họ lại chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh mạng của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương máu nhân dân chỉ c̣n cách đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận lời ngay v́ sinh mạng dân Xă hội chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni, Virgil Gheorghui trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube đă diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia bại sản đă bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.  

Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Măn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện trợ để cứu nguy t́nh thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc v́ trước đây họ giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đă cầm chân được một số lớn quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng không c̣n là đồng minh cần thiết nữa. Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước Tầu rồi trở thành mối đe dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà b́nh thế giới và bây giờ vẫn c̣n đe dọa, cái giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng tư 1975 họ lại dở cái tṛ vắt chanh bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.
Người Mỹ có được lợi lộc ǵ trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đă ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đă khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đă bắt tay hoà hoăn được với Trung Cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung Cộng đă viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đă cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đă tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đă bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”.  
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN số tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí tổng gộp bao gồm cả lương lính, nhân viên quốc pḥng, cố vấn, công nhân chế tạo vũ khí, chi phí di chuyển .. những khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh tế, lănh thổ nước họ hơn là ra ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương cho 58 ngàn người lính của họ đă “ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không hề đoái thương tới hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết v́ bị các thế lực siêu cường xúi cho người ta giết lẫn nhau. Người Mỹ không hề thương tiếc cho hàng mấy triệu người dân Miên vô tội bị Khmer đỏ tàn sát v́ họ đă bỏ rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.

Ông Nguyễn Tiến Hưng nói Hoa Kỳ bỏ Việt Nam v́ quyền lợi của họ tại đây không c̣n nữa.  

Mời xem
một đoạn hồi kư trong cuốn VNQMOK của kư giả P. Darcourt

Trọng Đạt

 

Trở lại