Thuyết Domino không c̣n giá trị:
Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu bộ trưởng
Quốc pḥng Laird dưới thời Tổng thống
Nixon cho biết Tổng thống Ford năm 1975 đă bác
bỏ thuyết Domino có từ 7-4-1954 dưới
thời Tổng thống Eisenhower, thuyết này cho
rằng hễ mất một nước th́ mất luôn
nhiều quốc gia khác y như trong ván cờ Domino.
Các cấp lănh đạo Hoa Kỳ đă sống qua
thập niên 30 với những biến chuyển
lịch sử trên thế giới và nhận thấy có
những tương đồng với t́nh h́nh Đông
Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật
chiếm Măn Châu đưa tới lấn chiếm Trung
Hoa, Đông Dương, Mă lai..rồi dẫn tới
trận Trân Châu Cảng. Đức chiếm Áo,
Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới
chiến tranh Âu Châu. Nếu xâm lược không
bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên
theo kiểu tầm ăn dâu y như một căn
bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến
chuyển lịch sử trên đây đă h́nh thành
học thuyết Domino.
Tổng thống Eisenhower là người đầu tiên
đề xướng học thuyết Domino trong
cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên
báo chí ông cho biết nếu mất Đông Dương
th́ dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái
lan, Mă Lai, Nam Dương…và rồi từ từ Đài
Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân Tây Lan cũng
mất theo. Thuyết Dommino đă khiến Mỹ
quyết tâm ngăn chận chính sách tầm ăn dâu,
sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy không
thể hoà hoăn với Cộng Sản được.
Việt Nam được coi như một thí điểm
để ngăn chận làn sóng đỏ, người
Mỹ cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các
nước lân bang th́ dần dần năm châu
bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa
Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc bởi
biển đỏ và họ sẽ phải xây một
Vạn lư trường thành thứ hai để
chống ngoại xâm. Người Mỹ chỉ đổ
quân đổ của vào một cuộc chiến nào
khi cảm thấy nền an ninh của đất nước
họ bị đe dọa.
Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup
Việt Minh, tháng 10-1950 Mỹ đă đă vội
viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la,
hàng không mẫu hạm Mỹ chở tới Sài G̣n 40
máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội
Quốc gia Việt Nam được thành lập,
mới đầu quân viện Mỹ cho Pháp mới
chỉ là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng
nổ dữ dội, quân viện tăng lên tới 74%
.
Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt
Nam
để biến nơi đây thành tiền đồn
chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964
CS tăng cường chiến tranh du kích ḥng xâm lược
miền
Nam
bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt đổ
quân vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới
cuối năm tổng số quân Mỹ tăng lên 184
ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn,
năm 1967 lên 485 ngàn, năm 1968 lên 536 ngàn, đó là
đỉnh cao của cuộc đổ quân. Tướng
Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào
VN năm 1965 th́ chỉ trong ṿng 6 tháng là mất v́ áp
lực CS rất nặng. Sau Cuộc Tổng công kích
Tết Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân chúng
chỉ trích dữ dội v́ sau mấy năm truy lùng
và diệt địch mà vẫn không b́nh định
được miền
Nam
. Giới lănh đạo Mỹ bắt đầu chán
ghét cuộc chiến tranh VN v́ phong trào phản
chiến từ 1965 đến nay ngày càng dữ
dội, và nhất là họ thấy rằng hiểm
hoạ CS đe doạ Đông Nam Á không c̣n nặng
nề như trước.
BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc
tế, BV cũng bị CSQt thúc dục đánh tới
cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế,
chính trị Đế Quốc, tuy nhiên hiểm họa
CS tại Á Châu không c̣n trầm trọng như trước
nữa v́ nay Nga Tầu chống đối nhau ra
mặt như kẻ thù. Đụng phải sức
chống trả dữ dội của Thế giới
Tự do, CS Quốc tế cũng chùn bước
vả lại việc cung cấp vũ khí cho đàn em
BV họ cũng tốn kém rất nhiều, có tài
liệu cho biết Trung Cộng viện trợ cho BV
từ 1950 tới 1975 tốn kém 20 tỉ đô la (Việt
Nguyên, Tổng thống Nixon sang Tầu..). Thuyết
Domino dần dần không c̣n ư nghĩa như từ
1955 cho tới những năm Mỹ mới đổ
quân vào VN.
Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa
hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân về nước.
Họ thực hiện Việt
Nam
hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân đội Mỹ
sẽ bàn giao trách nhiệm pḥng thủ và bảo
vệ miền
Nam
cho QĐVNCH. Thực hiện VN hoá chiến tranh là
họ đă nghĩ đến việc bỏ VN cũng
như Đông Dương v́ thuyết Domino không c̣n
đứng vững, mất VN cũng sẽ không
ảnh hưởng ǵ tới các nước Đông
Nam Á. Quyết định bỏ Đông Dương
coi như đă bắt đầu thành h́nh, vấn
đề c̣n lại là rút lui trong danh dự để
khỏi bẽ mặt một siêu cường. Từ năm
1969 họ đă đi đêm với Trung Cộng để
t́m cách rút quân ra khỏi VN, bỏ Đông Dương
v́ nó không c̣n đúng với ư nghĩa tiền đồn
chống Cộng nữa.
Song song với VN hoá chiến tranh, họ t́m cách hoà hoăn
với Trung Cộng, anh khổng lồ nghèo kiết xác
này cũng tốn kém rất nhiều với cuộc
chiến tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày
21-2-1972, cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao
Trạch Đông tại Bắc Kinh đă thay đổi
cả một kỷ nguyên. Điều mà người
Mỹ ao ước bấy lâu nay đă thành sự
thật, Đông Nam Á không c̣n bị đe doạ
bởi chiến lược tầm ăn dâu của
Trung Cộng, thuyết Dommino đến lúc lỗi
thời, không c̣n giá trị, bỏ Đông Dương
coi như điều tất yếu.
Trận Mùa hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh
cấp sư đoàn với nhiều xe tăng đại
bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng,
họ đă yểm trợ oanh tạc B52 tối đa
và Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để
tạo thế mạnh trên bàn hội nghị tại
cuộc Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định
Paris
kư kết ngày 28-1-1973 chỉ là mớ giấy lộn
để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh
mặc dù họ thừa biết VNCH sẽ lănh đủ.
Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng
Đính trong hồi kư của ông .
“Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đă
ghi lại nhận xét của ông Ngô Đ́nh Nhu từ
đầu thập niên 60 về chiến lược toàn
cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó (Mỹ)
nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản
như ở Triều Tiên, bất kể một
cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam
thế chiến, th́ ḿnh cũng để cho tụi nó
thử sức với Cộng sản xem sao, chứ
ở đây mục đích của tụi nó là t́m
một thế ‘sống chung nào đó’ với
Cộng Sản, th́ đánh để làm chi, rốt
cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường
của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là
Bắc Kinh, ḿnh chỉ là vật tế thần
‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng
Đính kết luận: ‘Nhận định đó
đến thập niên 1970 đă trở thành sự
thật và khi Nixon bắt tay được với Mao
Trạch Đông, th́ tiền đồn chống
Cộng của VNCH đă hết ư nghĩa, và do đó
Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để
chấm dứt một cuộc chiến tranh không c̣n
cần thiết mặc cho nền hoà b́nh này đă làm
sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ
và đẩy miền Nam vào địa ngục của
Cộng Sản Hà Nội” Chiến Tranh Việt Nam Toàn
Tập, trang 635.
Nguyễn Đức Phương kết luận.
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt
Nam đều không nh́n thấy được chính sách
ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên
70 để tiếp tục cuộc chém giết. Mùa hè
năm 1972 không cần thiết phải là một mùa hè
rực lửa. Những trận đánh đẫm máu
tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đă
hầu như vô nghĩa. Hiệp định Ba lê
chỉ là một biên lai để khách hành nhận
lại tù binh và đoạn chiến. Số phận
của VNCH đă được định đoạt
từ lâu và cũng không phải tại chiến trường.”
CTVNTT trang 635, 636.
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói:
“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được
với Trung Quốc th́ giá trị của Miền Nam
để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đă
không c̣n là bao nhiêu trong những tính toán của
Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần
dần, Miền
Nam
đă hết vai tṛ một tiền đồn của
thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề
c̣n lại đối với Mỹ th́ chỉ là làm
sao rút ra được cho êm thắm, ít bị
tổn hại về uy tín là được rồi”
Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.
Phong trào phản chiến ngày một lên cao cũng
đă đóng vai tṛ then chốt đưa tới
sụp đổ miền
Nam
ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên nhân xa, nhưng
Phong trào có tính cách quyết định v́ nó là động
cơ thúc đẩy Quốc Hội bỏ phiếu
cắt viện trợ quốc pḥng cho miền
Nam
đưa tới sụp đổ trong chớp mắt.
-
Phản Chiến:
Phong
trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng
thống Johnson đổ quân vào Việt Nam giao
chiến với Việt Cộng, hồi ấy
khoảng 5,000 nhà khoa học phản đối
chiến tranh hoá học khai quang. Ngày 15-5-1966 khoảng
12 ngàn người biểu t́nh chống chính sách
của Tổng Thống Johson tại Việt nam. Ngày
23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu t́nh trước
Ngũ Giác Đài, họ trương biểu ngữ nói
“Nhân danh nhân loại chúng tôi muốn nói chuyện
với bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969
tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn
biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam, thời
điểm này có 31 ngàn người lính Mỹ
chết ở Việt Nam.
Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu t́nh
phản chiến tại Chicago, 5,000 người
phản chiến tại New Jeersey bị giải tán
bằng lựu đạn cay. Ngày 11-11-1969 phe ủng
hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh Mỹ..
tổng cộng 10 ngàn người biểu t́nh tại
Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống
chiến tranh tại Hoa Thịnh Đốn và các thành
phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người
phản chiến. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc
biểu t́nh tại đại học Kent, Ohio 4 sinh viên
phản chiến bị quân đội bắn chết,
nhiều người khác bị thương khiến
phong trào càng lên cao dữ dội.
Người Mỹ nói, đất nước dân
tộc đă bị phân hoá, a people divided. Thật
vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá v́
chiến tranh VN. Nhiều người cho rằng
phản chiến do những cuộc biểu t́nh
của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là
hai nguồn chống đối khác đó là những
người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ
không được hoăn dịch v́ lư do học
vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ v́ chính
phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh
của Tổng thống Johnson khiến họ nghi
ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến
tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đă phục
vụ (luân phiên) cho ngành Quốc pḥng, 2 triệu người
đă (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đă trốn quân
dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội
trốn quân dịch, 300 ngàn t́m cách xin hoăn dịch
bị từ chối, 70 ngàn được hoăn
dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người
trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại
Mỹ hay ra ngoại quốc.
- Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao:
Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên
bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh
đề cập tới chiến tranh một thời
gian nhưng cuối 1966 ông nản ḷng khi thấy
chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng
tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và
ủng hộ chính phủ đánh nhau v́ bất đồng
chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu
phong trào antiwar tại
Chicago
. Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ
Riverside
Church New York ông đă lớn tiếng chống đối
chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa
đ̣i nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông
bị ám sát năm 1968.
Ngay trong quân đội cũng có những người
chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân
thành lập một tổ chức lấy tên Cựu
Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam
Veterans against The War gọi tắt là VVAW). Họ lư
luận rằng những người đă bị
gọi nhập ngũ đưa sang Việt
Nam
tham chiến có quyền phản đối chiến
tranh, năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau
tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức
thuyết tŕnh tại Detroit, 100 người cựu
chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh,
từ 19-4 tới 23-4 -1971 họ biểu t́nh tại
Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac
Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có con là
lính chết trận ở Việt
Nam
đến Nghĩa trang
Arlington
National
Cemetery
. Những người này đă vận động
Quốc Hội để sớm chấm dứt
chiến tranh. T́nh trạng đă đi đến
chỗ thật bi đát khi những người này t́m
cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.
Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm
trại, lập hàng rào gỗ quanh điện Capitol,
những người cựu chiến binh đă ném
trả huy chương, trong số này có John Kerry,
ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ
tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làmg mạc
ở Việt
Nam
đă hăm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt
đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới
thời Thành Cát Tư Hăn. Họ nói đất nước
ta đă tạo dựng con quái vật hung dữ, đó
là đạo quân một triệu người, và
những người lính chiến đă được
chỉ dậy dùng bạo lực và chết chẳng có
mục đích nào cả ( … and who are given the chance to
die for the biggest nothing in history), chúng tôi cựu chiến
binh trở về trong uất hận v́ bị chính
phủ Hoa Kỳ lạm dụng.
Năm 1970, phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại
trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu
số phóng đại những mặt xấu của
bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa
số chiến sĩ ta đă chiến đấu,
chết tại những cánh đồng lúa Á Châu
để bảo vệ tự do trong khi một
thiểu số lợi dụng làm bay. Bọn phản
chiến đă dùng điểm này để công kích
nỗ lực của ta ở Việt
Nam
.
Những cựu chiến binh này nói người dân
Mỹ đă bị chính phủ đánh lừa, ta không
thể thắng được cuộc chiến này
nếu cứ tiếp tục như vậy và phải
rút bỏ Việt Nam, họ nói t́nh h́nh Việt Nam không
có ǵ để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi
hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and from our
experience, there is nothing in South Vietnam which could happen that
realistally threatens the United States Of America). Chúng tôi đ̣i
hỏi ở Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có
thẩm quyền tạo dựng và duy tŕ quân đội,
chúng tôi đến đây không phải để
gặp Tổng Thống mà tin rằng Quốc Hội có
thể thoả măn ư nguyện người dân để
đưa chúng ra rút khỏi VN (that we should be out of
Vietnam now..)
T́nh h́nh phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965
đến 1971 khiến cho chính phủ ngày một suy
yếu, đất nước bị phân hoá, chính
phủ vừa phải lo cuộc chiến tranh miền
Nam vừa phải đối đầu với phong trào
phản chiến.
Chúng ta có thể kết luận một cách giản
dị phong trào phản chiến xuất phát từ tâm
lư của anh nhà giầu sợ chết, dù được
che đậy dưới h́nh thức nào cũng không
thể dấu diếm được cái bản
chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm
1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương
tại Việt
Nam
, theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân
mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có
vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn Việt
Cộng tử thương. Tính ra số tổn
thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5%
hoặc 10% so với số tử của VC nhưng
địch không bao giờ có một lời than văn, như
thế ta thấy người Mỹ đă sai lầm
khi tham gia cuộc chiến tranh với một kẻ thù
nghèo đói, thằng nghèo đói không bao giờ
sợ chết. Người Mỹ đă tham dự
một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa
một anh nhà giầu sợ chết và một
thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.
Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích
những đề tài anh hùng hào hiệp, cuốn phim
nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người
Hiệp Sĩ (Seven Samourais) quay năm 1954 đă
được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ,
họ bắt chước quay thành phim cao bồi
miền Tây tới 4 lần vào những năm 1960,
1966, 1969, 1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần
của bẩy người hiệp sĩ anh hùng giúp dân
làng chống lại bọn cướp Người
Mỹ rất thích những đề tài anh hùng hào
kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy,
họ thích làm “yêng hùng” nhưng thật là khôi hài
thay, “yêng hùng sợ chết”! Người Mỹ thích
làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết,
thật là diễu hết chỗ nói!
Phản chiến đă tạo niềm tin cho CSBV, chúng
chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người
dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc
chiến tranh Đông Dương vừa chết người
tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh
1947-1954 đă có 19 chính phủ Pháp bị đánh
đổ v́ không giải quyết được
cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào
phản chiến để đối phương
phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược
“cố đấm ăn xôi” của VC đă
từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt
Pháp nay chúng lại đem áp dụng vào cuộc
chiến tranh chống Mỹ.
Phong trào phản chiến đă là cơ hội
bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt phiếu
và rồi nắm đa số tại Quốc Hội.
Chính họ đă hạ “Nhát gươm đao
phủ” thanh toán miền Nam VN.
Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN,
nhiều người cũng cho nguyên nhân cả từ
hai phía.
- Phía Việt Nam
:
Các
nhà chính trị, tướng lănh, kư giả, các nhà
nghiên cứu… như cựu đại sứ Bùi
Diễm, tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng
Hoàng Lạc, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương
… đều cho rằng ta thiếu nhà lănh đạo
có khả năng để lèo lái con thuyền
quốc gia, thậm chí có người nói đất nước
đă được giao phó cho lănh đạo tồi.
Thật vậy những năm đầu của
chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968,
guồng máy tương đối c̣n có kỷ cương
nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng
thối nát tồi tệ, nó đă phá hoại kinh
tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân
dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng
dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu
có thể nói đă tiến tới chỗ tột cùng
của thối nát. Các chế độ, chính phủ
Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu,
Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Cao
Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người
dân c̣n chấp nhận được, đến
Nguyễn Văn Thiệu th́ thật hết nước
nói. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay
Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức
than thở “chế độ Thiệu đi theo
vết xe đổ của Tưởng Giới
thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục
trên đống vàng”!
Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975
trang 56, Phạm Huấn có nói.
“Theo dư luận, cái giá để mua chức
Tỉnh trưởng qua đường giây bà
Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10
đến 20 triệu”.
Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ
liễu, những chức vụ, công việc hái ra
tiền đều được mua bán trả giá
cả ṣng phẳng, ngoài ra quan chức phải nộp
tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ
thống quân giai, Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh
nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương.
Nguyễn Đức Phương nói các h́nh thức
tham nhũng tại miền Nam đă được nhóm
nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành
bốn loại chính: buôn lậu, hối lộ, mua quan
bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam
History by television, ông giám đốc CIA khi trả
lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption)
đă phát triển quá độ tại miền Nam VN,
chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rơ như
vậy và họ đă phải che dấu không cho báo
chí biết sợ người ta làm um lên, nếu
đến tai Quốc hội viện trợ sẽ
bị cắt giảm.
Tại
các tỉnh, viện trợ kinh tế, xă hội, b́nh
định phát triển.. bị đục khoét
trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ
không được dùng vào mục tiêu kinh tế quân
sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng
bắt nguồn từ ḷng tham vô đáy của con người
hơn là v́ thiếu thốn. Các quan chức có
được căn nhà, cái xe hơi th́ cũng
được rồi, so với đời sống nhân
dân như thế cũng là được quá ưu
đăi. Nhưng kẻ tham ô không dừng chân ở
đó, được voi tṛi tiên, họ tậu
rừng tậu ruộng, tậu đồn điền,
mua dăm bẩy căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha
Trang, cái Đà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra
ngoại quốc… Tham nhũng như đă nói ở
trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm
suy yếu tinh thần người dân cũng như người
lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con
mắt người ngoại quốc.
-
Hậu quả của t́nh trạng tham nhũng này
đă được một sĩ quan nhận xét.
‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công
trong xă hội. Tại Việt
Nam
, một nước đang trong thời chiến th́
sự bất công trong xă hội lại càng rơ ràng hơn
so với các nước khác. Tham nhũng đă
tạo ra một thiểu số nắm giữ tất
cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn
giai cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn
và phải chịu hy sinh.Họ mới chính là người
đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho
cảnh sát, phải mua phân bón với giá cắt
cổ để rồi phải bán gạo với giá
rẻ do chính phủ ấn định, và cũng chính
họ đă cho con cái đi chiến đấu và hy
sinh cho đất nước trong khi các công chức
cao cấp của chính phủ và những kẻ
giầu có lại gửi con cái ra nước ngoài.Một
bác sĩ quân y đă nói với tôi rằng ông đau
ḷng khi nh́n thấy những thương binh, các binh sĩ
cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện
đều thuộc giai cấp b́nh dân, thuộc các gia
đ́nh nông dân, các thương binh này phải
chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng
thống trị. Chính phủ tuyên bố t́m cách
chiếm ḷng dân nhưng thực tế chỉ làm
lớn hơn khoảng cách giữa giai cấp lănh
đạo và quần chúng.” Nguyễn Đức Phương,
Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
Hồi ấy trên báo chí đă có người lên án
bất công xă hội tại miền Nam ngày càng
trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như
rạ ngoài mặt trận th́ tại các thành phố
lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây
nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh
mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn
hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền
cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi
những kẻ xông pha mũi tên ḥn đạn ngoài
chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn
thiếu thốn. Thực trạng xă hội đă
ảnh hưởng rất nhiều đến tinh
thần người chiến sĩ, họ phải hy
sinh, chiến đấu cho một chế độ
bất công thối nát.
Phạm Huấn có ư chê các Tướng lănh Việt
Nam
không có sự ngay thẳng, tư cách như các Tướng
lănh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre Tướng 5
sao, Tư lệnh Đông Dương nhưng vẫn
để cho người con một, Bernard De Lattre đóng
tại đền Non nước Ninh B́nh. Mặc dù vua
Bảo Đại đề nghị đưa Bernard
về làm trong văn pḥng Quốc trưởng nhưng
ông Tướng vẫn để con chiến đấu
tại chiến trường và tử trận tháng
5-1951. Khi Mỹ bắt đầu ném bom Bắc
Việt, Đô đốc Sharps, tư lệnh các
lực lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương
đă để con trai ông, Thiếu tá phi công Mac Cain
tham gia oanh tạc và đă bị bắn rơi. “Trong
khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng
tại Việt Nam, chắc chắn không thể t́m
thấy con một ông tướng nào chiến đấu
ngoài mặt trận” Phạm Huấn,Những Uất
Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang
133
“..con những ông Tướng khác th́ cứ gần
đến tuổi động viên đă bằng cách
này, cách khác, được xuất ngoại du
học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh
con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành
lệnh Tổng động viên một cách rất
kỹ lưỡng. Ngoài ra, v́ không có tiền bạc
để chạy chọt, chắc chắn không bao
giờ họ được phục vụ tại
‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài G̣n hay hay các
tỉnh” Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong
Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết
theo lời kể của Thiếu uư Phạm văn
Trung, sư đoàn 18 BB.
Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972
trang 155, 156 có nêu ra một vụ tham nhũng hối
lộ động trời của các Tướng lănh
VNCH, chẳng biết hư thực ra sao.
“Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến
tháng 3-1972, t́nh báo VNCH báo cáo sự hiện diện
của công trường 5 Bắc Việt tại căn
cứ địa 712, gần thị trấn Snoul, Cam
Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận
lỵ Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường
7, 9 được phát hiện tại vùng đồn
điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt,
nơi đó là hai mục tiêu hành quân của Quân
đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt
1971. Kế hoạch đă bị đ́nh hoăn sau
cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ
Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III QLVNCH.
Trung Tướng Đỗ Cao Trí đă bị thảm
sát v́ đă cùng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng
Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do
toà Đại sứ Nga tại Paris trao cho Quang để
thả Trung Ương Cục và Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam chạy trối chết qua Cam
Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao vây
tại vùng rừng Tây Ninh v́ những cánh quân của
Quân đoàn III tiến quá nhanh, cục R chậm chân
kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ
đánh điện cầu cứu Hà Nội. MACV
phối hợp Đệ 2 Quân đoàn tiền phương
Hoa Kỳ (US II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH
được tăng cường một lữ đoàn
Dù, Liên đoàn 5, 6 Biệt động quân tung quân bao
vây, Cục R chỉ c̣n một trung đoàn bảo
vệ, cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên
quân Việt Mỹ siết chặt ṿng vây, Lữ
đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy động,
một liên đoàn Biệt Động Quân lănh
nhiệm vụ án ngữ biên giới Cam Bốt th́
bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng
Đỗ Cao trí cho lệnh rút về chi khu Phước
Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân th́ tối hôm
đó bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh
úp để che chở cho toàn bộ Trung ương
Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng
đồn điền Snoul.
Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ
Cao Trí là người của Cộng sản nên ra tay
tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc
sứ Komer (hàm Đại sứ) kể lại, ông
đặc trách B́nh định phát triển MACV.”
Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh
mục Trần Hữu Thanh Chủ tịch Phong trào Nhân
dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo
trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và
yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị
tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa,
đất đai, đầu cơ phân bón, gạo
miền Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi
cuốn các nhóm khác như sinh viên, kư giả, chính khách..
Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo
trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều
tội và hô hào lật đổ bằng vơ lực
khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho
bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.
Người dân trong nước đă quá chán ghét chính
quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ
phải chán nản hơn thế nữa, tiền
của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió
lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi
Diễm nói: “Một quốc hội quá chán ngán
chiến tranh và mệt mỏi v́ đă yểm trợ
một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm
và thối nát”.
Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng,
Phạm Huấn, chính khách, kư giả… đều cho
rằng đất nước đă được
giao phó vào tay lănh đạo tồi. Trần Việt
Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác
cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà
lănh đạo mà chỉ là những anh cai thầu
chiến tranh, hễ có tiền th́ đánh, không
tiền th́ chạy. Trong tám, chín năm cầm
quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có
một kế hoạch ǵ về chính trị, kinh
tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ
vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta
đă hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ
quốc pḥng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Đương đầu với một kẻ thù nguy
hiểm, công chức quân nhân không được
học tập về đường lối, lư tưởng
chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ
là h́nh thức. Tổ chức hoạt động tuyên
truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi
cuốn được sự ủng hộ của nhân
dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên
truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội
để lái họ theo đường hướng chúng
đă vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của
ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân,
quân nhân, công chức một lư tưởng Quốc
gia, lư tưởng Tự Do Dân chủ để quân dân
ta có một tinh thần vững mạnh mà chỉ là
chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu th́ đánh
đấy.
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người
dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc
chiến đấu.
“Cuộc chiến tranh quá dài đă khiến mọi
người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc
bảo vệ đất nước cho quân đội.
Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi c̣n
trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời
chiến. Tất cả những mục nát của chính
quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung
thối của xă hội miền nam đă cấu thành
yếu tố tự hủy” CTVNTT, trang 806
Một điều không thể chối căi được
là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến
cho CS đă thừa cơ nước đục
thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng
phái Quốc Gia đă chia rẽ nhau khiến cho CS
lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi
cuốn quần chúng để rồi cướp
được chính quyền. Ông Ngô Đ́nh Diệm
chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng
tiền nhiệm như Trần Văn Hữu,
Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm là người
có bản lănh cao nhất, dám chơi bạo hất
cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Đụng
chạm với Bảo Đại thân Pháp, tháng 4-1955,
ông Diệm được triệu hồi sang Pháp
để Quốc trưởng cất chức. Các
đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều
nhiệt t́nh ủng hộ Thủ tướng Diệm,
đả đảo và truất phế ông vua vong
bản Bảo Đại. Năm 1956 ông Diệm Trưng
Cầu dân ư lên làm Tổng thống rồi từ
từ xung đột với các đảng phái, nhân sĩ
Quốc gia. Những người Quốc gia trước
đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông. Chính
phủ cũng chống đối đàn áp những
người đối lập ra mặt.
Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền
Nam
lại lâm vào t́nh trạng chia rẽ trầm trọng
gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo,
Tướng lănh tranh giành quyền hành biến
miền
Nam
thành một đất nước vô chính phủ.
Phật Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên
báo chí, rồi lại có phe chủ trương chia
rẽ Bắc
Nam
để ḥng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền
quân nhân đă tạm ổn định được
t́nh h́nh lại bị phong trào Phật Giáo miền
Trung chống đối dữ dội, phong trào đă
gây t́nh trạng xáo trộn nhiễu nhương
khiến cho nhân tâm xao xuyến, kẻ thù thừa cơ
len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc gia.
Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys
tuyên bố với báo Newsweek, ông bi quan cho rằng
chỉ có ông Trời mới lật được
thế cờ ở Việt Nam là một xứ có quá
nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét
lại đường lối và sẵn sàng thừa
nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể
chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dù
Cộng Sản có thể thắng trong cuộc bầu
cử đó. Như thế những cuộc biểu t́nh,
chia rẽ nội bộ của ta đă bắt đầu
khiến người Mỹ chán nản, chính chúng ta làm
cho họ chán.
Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm,
cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu
t́nh chống chính phủ của Linh mục Trần
Hữu Thanh, đảng phái, chính khách… khiến cho các
binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán
nản và ảnh hưởng tai hại đến
sự sống c̣n của đất nước.
Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố
ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải
đương đầu với một kẻ thù nguy
hiểm.
- Kẻ Thù dai dẳng:
Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút
vào các chiến khu, từ năm 1949, Mao thắng Tưởng
nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh được
Trung cộng viện trợ vũ khí ồ ạt
bắt đầu chuyển bại thành thắng.
Những năm 1950, 1951, 1952 được Trung
Cộng dậy cho lối đánh biển người,
Việt Minh lấy thịt đè người tấn công
quân Pháp dữ dội tại trận Vĩnh Yên 1950, sông
Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh
thí quân đẩy thanh niên hết lớp này đến
lớp khác vào họng súng địch mà không thành công
ǵ mấy nhưng nó đă làm cho đối phương
phải run sợ trước quyết tâm của
một kẻ thù liều mạng. Ngay từ 1952 người
dân Pháp đă quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông
Dương, chết người tốn của, không
hy vọng ǵ thắng được kẻ thù. Đến
năm 1953, 1954 họ chán ghét, ghê sợ cuộc
chiến tranh đến cùng cực, cho dù nếu không
thua trận Điện Biên Phủ họ cũng tính
chuyện rút quân về nước càng sớm càng
tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đă có
19 chính phủ bị đổ v́ không giải
quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.
Người Mỹ đổ quân vào miền Nam
giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả
lực hùng hậu có thể đè bẹp cuộc xâm
lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong năm,
sáu tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC
bị oanh kích, truy nă chết như rạ nhưng
lạ thay, không có dấu hiệu ǵ cho thấy địch
phải rút lui, từ bỏ ư định xâm lăng.
Không những thế, VC vẫn gia tăng xâm nhập
hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái
chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy
thanh niên vào chỗ chết có từ thời Pháp
thuộc. Năm 1967, 68, 69 người Mỹ thống kê
cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy trăm
ngh́n, trong khi ấy người Mỹ chỉ mới
thiệt hại ba chục ngh́n, VC vẫn gia tăng xâm
nhập và rồi người Mỹ thất vọng,
họ cho rằêng VC sẵn sàng chiến đấu dù
phải hy sinh thêm một triệu nữa và số
thiệt hại của Mỹ sẽ c̣n lên tới 100
hay 200 ngàn người…
Ngày 26-2-1968, khi liên quân Việt Mỹ đă tái
chiếm lại Huế trong trận Tết Mậu thân,
đài VOA nói: “Hôm nay ngày 26-2 Huế đă được
các lực lượng VNCH và Mỹ hành quân giải
toả, chấm dứt một cuộc chiến tranh
bẩn thỉu nhất kéo dài từ một tháng qua”
Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh
Việt Nam bẩn thỉu v́ các chiến thuật
chiến lược của địch tiểu nhân nhơ
bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC miệng nói
hoà b́nh tay ŕnh đánh trộm, lợi dụng ngày hưu
chiến, ngày Tết để đánh. Chủ trương
lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC
dùng tất cả mọi thủ đoạn tiểu nhân
bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn
bà trẻ em đi trước để làm bia đỡ
đạn. Người Mỹ đă từng chiến
đấu tại Âu Châu với quân Đức, Á Châu
với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề
thấy một cuộc chiến tranh nào kỳ quái như
tại VN. Họ phải đương đầu
với một kẻ thù dai dẳng, cố đấm
ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù có
mặt khắp nơi ẩn hiện như ma, một
cuộc chiến tranh không giới tuyến. Tất
cả những chiến thuật chiến lược
VC đều không đếm xỉa ǵ tới qui ước
chiến tranh quốc tế, địch pháo kích vào các
khu vực đông dân cư để gây náo loạn,
không đếm xỉa ǵ tới sinh mạng đàn bà
trẻ nít.
Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC
cũng cố đấm ăn xôi y như tại
chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn
thỉu, ma mănh lấy cứu cánh biện minh cho phương
tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá
chán ghét chiến tranh VN và t́m cách rút chân ra v́
biết không thể thắng được kẻ thù
liều mạng trong một cuộc chiến tranh
bẩn thỉu như vậy. Trận Mậu Thân VC tuy
bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng
chúng lại thắng lợi to lớn về chính
trị, địch đă tạo được
sự ghê tởm cho kẻ thù để họ
phải chán nản bỏ cuộc. Sự ĺ lợm,
cố đấm ăn xôi đă đạt được
kết quả mong muốn, VC đă thành công trong
cuộc chiến tranh Việt Pháp và lại áp dụng
“chiến lược cố đấm ăn xôi”
đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến kẻ
thù phải ghê tởm. Sau 1975 những người
ở ngoài Bắc vào Sài G̣n nói “ Thằng nghèo đói
nó không sợ chết”, đó là nguyên do đưa
tới sự sai lầm của người Mỹ,
họ đă đưa quân vào tham dự một
cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một
anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo
đói đánh thí mạng cùi.
Trong phim Viêtnam History By Television, Vơ Nguyên Giáp trả
lời phỏng vấn của một kư giả Tây phương:
"Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu
cho tới thắng lợi cuối cùng”. Nguyên
văn “Nous continuerons à combattre jusqu’à la victoire
finale..”. Sự thực th́ Giáp không chiến đấu
mà chỉ đẩy thanh niên vào chỗ chết.
Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đă đi
vào vết xe đổ của người Pháp,
cuối cùng đă phải đầu hàng chiến lược
bẩn thỉu ghê tởm của kẻ địch. Khát
máu như bọn thực dân Pháp c̣n phải bỏ
chạy huống hồ Mỹ. Trận Mùa Hè đỏ
lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta
phải thắng, họ yểm trợ B52 trải
thảm cho QĐVNCH giành thắng lợi tại
chiến trường để có ưu thế trên bàn
hội nghị Paris ḥng kư kết hiệp Định
rút quân về nước. Cuối cùng kẻ địch
lại thắng thêm một trận vĩ đại
nữa qua chiến lược cố đấm ăn
xôi.
Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm
những yếu tố phụ thuộc khác, trong khi ta
bị địch tấn công tại tuyến đầu,
đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá
hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt
hoảng tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ
địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật
ở nhiều chỗ, Quảng Đức di tản ngày
22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC cũng
nói đă bị tràn ngập…
Những nguyên nhân chúng tôi đă nêu ở trên
chỉ là tương đối, mặc dù những
nay nhiều hồ sơ đă được giải
mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn c̣n
nhiều bí ẩn. Trả lời phỏng vấn
của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho biết sau
khi ném 2 quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV
bị thiệt hại khoảng 10 ngàn người, ông
xin lệnh cho ném thêm 5 quả nữa nhưng
được trả lời người Mỹ
chỉ cung cấp ng̣i nổ cho 2 quả, họ
chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như thế ta
mới thấy đă có sự sắp đặt
sẵn giữa các thế lực siêu cường v́
nếu họ cho ta ng̣i nổ 10 quả mà không cần
viện trợ khẩn cấp, không cần đưa
B52 sang trải thảm ta vẫn thừa sức đẩy
lui VC ra khỏi miền Nam. Rơ ràng họ đă sắp
đặt bỏ miền Nam chứ không phải
vấn đề tốn kém, bởi v́ bom đă để
sẵn cả nhưng chỉ thiếu ng̣i, cái ng̣i
chẳng đáng giá bao nhiêu.
Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội
Mỹ tại Việt Nam và Đô Đốc Sharps,
Cựu Tư lệnh Thái B́nh Dương Mỹ phúc tŕnh
dài 347 trang về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm
qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ quân
vào Miền Nam năm 1965 th́ sẽ mất trong 6 tháng.
Hai cựu Tư Lệnh này nhấn mạnh sự bó
tay của Quân đội Mỹ trước chính sách
hạn chế chiến tranh của Tổng thống
Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày 27-1969 Đô Đốc
Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng
Quốc pḥng Mc Namara đă không cho oanh tạc phá
hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà
chỉ cho ngăn xâm nhập nên các cuộc oanh
tạc hóa ra vô hiệu.
Những người hoạch định chiến lược
Mỹ không phải là những nhà quân sự mà là các
chính trị gia, họ họach định với thái
độ do dự và lo sợ nên các kế hoạch công
phá địch đă bị vô hiệu. Nhiều người
cũng đặt giả thuyết cho rằng họ
bị tư bản chi phối cố t́nh kéo dài
chiến tranh để bán vũ khí, giả thuyết
đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ
giả vờ không đánh thắng được
Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến
tranh. Sự nghi ngờ này đă đưa tới
những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh
tại Mỹ cũng như tại Việt Nam năm
1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có
lợi cho CS. Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh
Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp
tục oanh tạc th́ đă thắng rồi, BV lợi
dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh
tạc hơn một năm nay để chuyển quân
vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho
rằng miền Nam sụp đổ v́ đă quá
phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc pḥng, kinh
tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ
lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào
sự giúp đỡ của người bạn Đồng
Minh .
Sự thực đây không phải là lần đầu
tiên người Mỹ phản bội đồng minh
, cái tṛ mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em
đă có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây
đă hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton
Mỹ đánh Đức Quốc Xă tiến quân đến
sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng
họ th́ được lệnh phải dừng
lại ngay lập tức v́ Tiệp đă được
nhường cho Nga. Sau này những bí mật đă
được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường
Đông Âu cho Nga v́ họ có nhờ Nga phụ giúp
một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có
cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy
vọng ǵ lắm.
Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đă
gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật
vẫn c̣n hơn 5 triệu quân đóng rải rác
tại các nước Đông Nam Á, họ lại
chiến đấu dai dẳng không chịu đầu
hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh
một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong,
sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh
mạng của tư bản quí như vàng. Muốn
tiết kiệm xương máu nhân dân chỉ c̣n cách
đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline
nhận lời ngay v́ sinh mạng dân Xă hội chủ
nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni,
Virgil Gheorghui trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube
đă diễn tả nỗi đau đớn uất
hận của 150 triệu người Đông Âu tan
gia bại sản đă bị Hoa Kỳ bán đứng
cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.
Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất
Măn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân đại thắng
ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới
thạch xin Mỹ viện trợ để cứu nguy
t́nh thế quá hiểm nghèo nhưng không được
đáp ứng. Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân
bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu
viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi
Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc v́ trước
đây họ giúp Tưởng Giới Thạch
chống Nhật, Tưởng đă cầm chân
được một số lớn quân Nhật, nay
đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng
không c̣n là đồng minh cần thiết nữa. Hoa
Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả
tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ
nước Tầu rồi trở thành mối đe
dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà b́nh thế giới
và bây giờ vẫn c̣n đe dọa, cái giá mà Hoa
kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn
đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng tư 1975
họ lại dở cái tṛ vắt chanh bỏ vỏ
ấy tại Việt Nam.
Người Mỹ có được lợi lộc ǵ
trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là
thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt
họ đă ngăn chận được cuộc
chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung
Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết
liệt đă khiến khối Cộng chùn bước.
Mỹ đă bắt tay hoà hoăn được với
Trung Cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi
sự đe dọa an ninh cho đất nước.
Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ”
cho biết Trung Cộng đă viện trợ cho
Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc
chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan
Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH
đă cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng
lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào
cuộc chiến tranh. Họ đă tạo thời
giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh
tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc
họ đă bị trói tay để đưa đến
thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”.
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ
Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN số
tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí
tổng gộp bao gồm cả lương lính, nhân
viên quốc pḥng, cố vấn, công nhân chế
tạo vũ khí, chi phí di chuyển .. những
khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh
tế, lănh thổ nước họ hơn là ra
ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương
cho 58 ngàn người lính của họ đă
“ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không
hề đoái thương tới hàng mấy triệu
người Việt Nam và Đông Dương chết
v́ bị các thế lực siêu cường xúi cho người
ta giết lẫn nhau. Người Mỹ không hề thương
tiếc cho hàng mấy triệu người dân Miên vô
tội bị Khmer đỏ tàn sát v́ họ đă
bỏ rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.
Ông Nguyễn Tiến Hưng nói Hoa
Kỳ bỏ Việt Nam v́ quyền lợi của
họ tại đây không c̣n nữa.
Mời xem
một đoạn
hồi
kư trong cuốn VNQMOK của kư giả P.
Darcourt
Trọng
Đạt
|