Hồi
ức CIA Polgar: Chúng tôi là đoàn quân bại trận
[1]
Châu Quang |
Thomas
Polgar là trưởng nhiệm sở CIA cuối cùng
tại miền Nam Việt Nam trước khi chế
độ VNCH sụp đổ. Trong những đại
sứ quán “nhạy cảm” của Hoa Kỳ, trưởng
nhiệm sở CIA là nhân vật quyền lực thứ
nh́, sau đại sứ. Polgar
sinh năm 1922 tại Hungary trong một gia đ́nh Do Thái,
gia đ́nh ông chạy sang Mỹ để tránh Đức
Quốc Xă. Ông nhập tịch Mỹ lúc 22 tuổi và
gia nhập CIA lúc 25 tuổi, sau khi tốt nghiệp
cử nhân. Trước khi đến Việt Nam, ông
chỉ phục vụ tại các nhiệm sở ở châu
Âu và Nam Mỹ. Ông mất tại Florida năm 2014,
thọ 92 tuổi. Hồi
ức của ông http://lde421.blogspot.gr/2013/01/tom-polgar-remembers.html https://en.wikipedia.org/wiki/Peter_principle
có đă mấy năm nay nhưng gần đây mới
được chú ư qua trang mạng viet-studies của TS
Trần Hữu Dũng. Mời
quư vị theo dơi bản dịch phần hồi ức này
và khi gặp “chúng
ta” trong bản
dịch, xin hiểu là “người
Mỹ chúng ta.” Tài
liệu dài nên ĐCV đă đặt những tựa
nhỏ. Những phần trong dấu ngoặc là chú thích
của ĐCV.
——————————————– Từ Buenos Aires đến Sài
G̣n Lư do tôi đến Sài G̣n là
v́ người được chỉ định làm trưởng
nhiệm sở CIA kế nhiệm cho Ted Shakley, đă
ở Sài G̣n hơn ba năm, là anh chàng Joe Smith. Vào thời điểm đó,
Smith đang là trưởng nhiệm sở ở Tokyo,
một trong những vị trí danh giá nhất của
CIA, sau khi đă làm phó vùng đặc trách Viễn
Đông. Trưởng vùng đặc trách Viễn Đông
bấy giờ do Bill Colby nắm. (Colby cũng từng có
nhiệm kỳ tại Việt Nam và sau này làm Giám
Đốc CIA). Smith là một lựa chọn
rất hợp lư. Giấy tờ chọn lựa này
đă được kư tên, đóng dấu và trao tay.
Smith sẽ tiếp nối công việc của Shakley. Bất ngờ, cha của Smith
qua đời. Tang gia bối rối, phải có người
lo tang lễ với đủ thứ công việc
lỉnh kỉnh. Không có ai khác để gánh vác ngoài
Smith. V́ vậy, Smith xin nghỉ hưu để lo
chuyện gia đ́nh. Chuyện kế nhiệm cho Shakley,
dù đă được lập kế hoạch trong hai năm,
coi như vứt đi. Đáng lư ra, Smith là một
lựa chọn rất hợp lư nếu nói về kinh
nghiệm ở châu Á, kinh nghiệm tại Viễn Đông. Thật t́nh, nếu nói
một cách chính xác th́ tôi cũng không phải là
một bóng mờ. Tại thời điểm đó tôi
đă quen giám đốc CIA Richard Helms khoảng 25
năm, tôi làm dưới quyền ông ở Berlin, tôi là
trưởng nhiệm sở tại Đức, một
chỗ ưng ư dưới cặp mắt của cả
cựu Giám đốc Alan Dulles lẫn đương
kim Giám đốc Helms. Tôi ăn lương cấp GS-17
(của hàng ngũ công chức liên bang), một cấp
khá cao. Thực ra, có rất nhiều
điểm tương đồng giữa loại
hoạt động mà tôi đă gặp khi làm trưởng
ban sưu tra khu vực Nam Mỹ và t́nh huống mà chúng
ta đang đối mặt ở Việt Nam. Và có
lẽ quan trọng nhất, tôi
là phụ tá đặc biệt trong bốn năm cho
một anh trung tướng có tên là Lucien Truscott, là
người phụ trách nhiều công việc nhưng
việc chính là điều phối công tác t́nh báo.
Trong tư cách đó, tôi đă có rất nhiều kinh
nghiệm làm việc với giới nhà binh Hoa Kỳ. Công
việc này nhiêu khê hơn câu chuyện không tặc. (Trước
đó, Polgar nổi tiếng qua chuyện giải
quyết vụ cướp máy bay ở Chilê bằng cách
đích thân bước lên máy bay điều đ́nh
với bọn không tặc). Tôi
đang làm trưởng nhiệm sở ở Buenos Aires
th́ nghe tin ḿnh đă được chọn làm trưởng
nhiệm sở ở Sài G̣n. Tôi nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi
nói tiếng Đức. Tôi nói tiếng Pháp (ngoài
tiếng Hungary). Chẳng có thứ tiếng châu Á nào.
Đó là một bất lợi lớn nhưng đó là
t́nh trạng chung của CIA, bởi v́ tôi nghĩ
rằng trên bậc lương cấp GS-12, tương
đương với cấp thiếu tá quân đội,
CIA bấy giờ không ai biết tiếng Việt. Những vụn vặt đầu
tiên Ngay khi tôi đến Sài G̣n, tôi
đă cố gắng tiếp xúc với những người
Việt ngoài những người Việt mà tôi
phải gặp trong công việc trách nhiệm hằng ngày.
Tôi
đă cố gắng gặp những người như
người đứng đầu luật sư đoàn,
người đứng đầu hăng hàng không, người
đứng đầu một công ty dược
phẩm, bác sĩ, nha sĩ… để tôi có thể
cảm nhận một chút về xă hội miền Nam. Đó là một công việc
khó khăn. Đôi khi tôi phải làm việc 11, 12, 14
tiếng một ngày. Sau này nh́n lại chắc là
ngu ngốc, nhưng lúc đó tôi hoàn toàn tin tưởng
rằng chúng ta đă thực hiện những ǵ chúng
ta cam kết ở Việt Nam. Tôi nghĩ rằng
chừng nào Nixon c̣n làm tổng thống, Bắc
Việt sẽ cư xử một cách chừng mực,
cộng trừ đi một chút. Tôi không bao giờ mong đợi
sẽ có ngừng bắn hoàn toàn như chúng ta đă
gặp ở châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945 (sau Thế
Chiến 2). Tôi chưa bao giờ mong đợi như
vậy. Chuyện đó cũng chẳng bao giờ
xảy ra. Nhưng quả thực chúng ta đă có
một thời gian dài, cụ thể là trong suốt năm
1973 và nửa đầu năm 1974, một thời
kỳ mà chúng ta thường gọi là “ít máu lửa
hơn”. Nói cách khác, chúng ta đă có một t́nh
huống không hẳn là ngưng bắn, nhưng không có
hoạt động quân sự lớn; và mức độ
bạo lực, phá hoại, ám sát, phục kích vân vân,
nằm trong ṿng mà chúng ta gọi là “giới hạn
chấp nhận được”. Đó là một
mức độ bạo lực mà cả hai bên có
thể chịu đựng vô thời hạn, không
tạo bất kỳ thay đổi t́nh h́nh chính
trị nào. Tôi
nghĩ rằng nếu miền Bắc hành xử theo
đúng nghĩa vụ của họ ghi trong Hiệp
định Paris th́ sẽ không có vấn đề ǵ. Ngay cả sự hiện
diện của quân đội Bắc Việt ở
miền Nam cũng không phải là vấn đề. Quân
đội mà họ được phép để
lại tại miền Nam vừa trải qua cuộc
tổng tấn công vào dịp lễ Phục sinh mùa xuân
năm 1972 (VNCH gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa) và khi
bạn nh́n thẳng vào vấn đề, bạn sẽ
thấy họ chẳng tạo được thắng
lợi nào. Tóm lại, họ có mặt ở đó, nhưng
chẳng đi tới đâu. Ư tôi muốn nói là
họ có một ít rừng, họ có một ít núi, nhưng
tại thời điểm đó chính phủ Nam
Việt Nam kiểm soát ít nhất 95% dân số, chính
phủ này kiểm soát tất cả các khu vực
sản xuất kinh tế của đất nước.
V́ thế cho nên chuyện có một số binh sĩ
Bắc Việt sống trên vùng cao nguyên chung với
hổ và rắn cũng không làm ai bận tâm. Ư tôi
muốn nói chắc chắn là họ không có bất
cứ một tí mơ tưởng nào để lập
một thủ đô tạm thời. Vấn đề lúc bấy
giờ là Việt Nam chỉ đơn giản là
một phần của một vấn đề toàn
cầu mà Hoa Kỳ đang đối phó một cách liên
tục. Việt Nam là một tṛ ảo thuật mà Nixon
muốn sử dụng trong mối quan hệ giữa ông
ta với người Nga và quan hệ giữa ông ta
với Trung Quốc và quan hệ giữa ông ta với
cử tri Mỹ. Đối với người
Việt Nam, tất nhiên, vấn đề Việt Nam 100
phần trăm là sự tồn tại của họ.
Họ không thể nghĩ về bất cứ chuyện
ǵ khác. Đây cũng chính là vấn đề chúng ta
gặp phải với người Cuba ngày nay. Chúng ta
nghĩ về Cuba có thể năm phút mỗi tháng, c̣n
người Cuba nghĩ về mối quan hệ của
họ với Hoa Kỳ vào mọi lúc. V́ vậy, tôi không
nghĩ rằng người Mỹ và người
Việt Nam có cách tiếp cận về kết thúc
chiến tranh theo cùng quan điểm, ngay cả gần
giống quan điểm cũng chẳng có. Nixon và Thiệu Trọng tâm của Hiệp
định Paris là cam kết của chúng ta rằng
những tổn thất mà người miền Nam
gặp phải sau khi ngừng bắn sẽ được
thay thế trên cơ sở một đổi một. Chúng
ta cũng có một lực lượng không quân lớn
ở Thái Lan với mục đích rơ ràng là sẽ hành
động như một lực lượng trả
đũa, nếu cần. Thật vậy, tôi đă có
mặt ở San Clemente (Ṭa Bạch Ốc miền Tây
của Nixon ở California) lúc Tổng thống Nixon nói
với Tổng thống Thiệu vào tháng 4 năm 1973
rằng nếu Bắc Việt vi phạm trọng tâm
của Hiệp định Paris, sự trả đũa
của chúng ta sẽ là ngay lập tức và tàn
bạo. Tôi không có lư do ǵ để nghi ngờ điều
đó. Và người Bắc Việt cũng vậy. Khi chúng tôi ở San Clemente năm
1973, nhân dịp Tổng thống Thiệu được
mời đến thăm Nixon, phía Hoa Kỳ có Chánh Văn
Pḥng của tổng thống (tương đương
với Bộ trưởng Phủ tổng thống
của VNCH hoặc Chủ nhiệm Văn pḥng Chính
phủ của CSVN) và một vài người khác. Ngoài
ra c̣n có Đại sứ Bunker mang theo theo hai người,
một trong hai người này là tôi. Đây là lần
đầu tiên tôi được giới thiệu
với Erlichman (Cố Vấn Đối Nội của
Tổng thống), Haldeman (Chánh Văn Pḥng), Ziegler (Phát
Ngôn Viên) nói chung là cái đám bậu xậu dễ
chịu đó. Tôi không hề ngờ rằng tất
cả cái đám này sẽ bị sa thải trong một
hai năm sau đó, và cuối cùng Nixon cũng từ
chức. Tôi không hiểu tại sao. Ư tôi muốn nói là
họ đang ở trong đỉnh cao của sự
nghiệp. Thế rồi sau đó, bước
sang tuần đầu tiên của tháng Tư, tôi không
hiểu tại sao mọi thứ trở nên tồi
tệ giống như đă xảy ra. Nixon vừa
được tái đắc cử với đa số
phiếu lớn lao đây mà. Có hôm Kissinger nói với tôi
khi chúng tôi ăn sáng riêng với nhau, ông ta gọi
Haldeman là “một tên tội phạm”. Nhưng v́
Kissinger hay lăng mạ người khác mà chẳng ai làm
ǵ được, nhất là khi lăng mạ người
nào mà ông ta biết rơ. Kissinger có thể gọi ai đó
là một tên tội phạm chỉ v́ những
chuyện nhỏ nhặt, chẳng hạn như người
đó làm xáo trộn thứ tự chỗ ngồi trong
một bữa ăn tối, v́ thế, tôi không để
ư những chuyện như vậy. Trước khi đi Việt
Nam vào năm 1972, tôi đến gặp Bộ trưởng
Quốc pḥng và nói, “Thưa bộ trưởng, ông
biết tôi đến gặp ông v́ tôi đang ở
một thời điểm rất quan trọng trong
sự nghiệp của tôi. Tôi mới chạm tuổi
50, tôi đủ điều kiện để nghỉ hưu,
tôi có ba đứa con phải lo cho xong đại
học. Tôi không thể đưa gia đ́nh đến
Việt Nam. Ông thấy t́nh h́nh ở đó sẽ
diễn biến ra sao? ” “Ồ,” bộ trưởng
nói, “anh sẽ không gặp vấn đề ǵ
cả.” Ông nói tiếp: “Việt Nam sẽ giống như
Đức. Chúng ta sẽ để lại ở đó
một lực lượng trong 40 năm.” Lúc đó là tháng Giêng năm
1972. Chắc chắn, chúng ta sẽ giảm số quân
ở đó, nhưng quân đội Mỹ chắc
chắn vào thời điểm đó hoạt động
với giả định rằng sẽ để
lại một lực lượng từ 60 đến
100 ngh́n người. Giống như Hàn Quốc hay
giống như Đức. Và trên thực tế Việt
Nam là nơi duy nhất mà quân đội Mỹ rút ra
sau khi vào. Ở Hàn Quốc, chúng ta ở lại. Ở
Đức, chúng ta ở lại. Chiến tranh và truyền thông Chưa bao giờ công chúng
Mỹ hiểu được bản chất của
cuộc chiến ở Việt Nam. Bản chất đó
chắc chắn không bao giờ được các phương
tiện truyền thông Mỹ làm rơ. Ở Việt Nam tôi thấy có
sự khác biệt rất rơ ràng của từng phóng viên
báo chí. Và tôi thấy những ǵ họ định làm.
Bob Shaplen là một người
bạn tốt của tôi. Và những ǵ anh cố
gắng làm bên Việt Nam th́ ở bên Mỹ đă
bị các biên tập viên của anh đảo ngược.
Tôi có dịp xem một số bản nháp đă
được những nhà báo từ Sài G̣n gửi
đi và rồi tôi đă nhận thấy sự khác
biệt giữa những ǵ họ đă viết và
những ǵ đă được in ra. Riêng Shaplen, theo tôi,
đă cố gắng t́m sự cân bằng. Có lần
anh ấy nói với tôi trong khi vẫn c̣n làm cho tờ
The New Yorker, rằng trong suốt một năm tờ báo
không hề in một bài nào của anh. Các biên tập
viên giải thích với anh rằng các bài của anh có
lợi cho miền Nam Việt Nam nên không thể in. Đó
là khoảng 1973-1974. Tôi biết anh ta và tờ The New
Yorker sau đó đă chia tay. Một số nhà báo khác có
trải nghiệm khá cay đắng hơn. Điều tương
tự cũng xảy ra với một phóng viên của
tạp chí Time, anh này cảm thấy rằng một
số khía cạnh của t́nh h́nh miền Nam Việt
Nam không được in ra ở Mỹ. Có lần
tờ Time chỉ thị cho người của họ
viết một câu chuyện về vấn đề
đào ngũ của quân đội miền Nam Việt
Nam. Chắc chắn là quân đội miền Nam
Việt Nam có vấn đề đào ngũ. Phóng viên
đến gặp tôi để được giúp
đỡ. Tôi nói, “Vâng, tôi sẽ cung cấp cho
bạn các sự kiện. Nhưng tôi c̣n làm hơn
thế nữa. Tôi cũng sẽ cung cấp cho bạn
những sự kiện mà chúng tôi biết về
vấn đề đào ngũ trong quân đội
Bắc Việt”. Anh ta nói, “Ồ, thật tuyệt
vời.” Vậy mà, khi câu chuyện xuất hiện,
Time chỉ nói về phần đào ngũ của quân
đội miền Nam Việt Nam. Phía bên truyền h́nh thậm
chí c̣n tệ hơn theo cái nghĩa là bạn kể cho
họ cả nửa giờ nhưng họ chỉ sử
dụng trong một phút rưỡi. V́ vậy, trong số những
nhà báo ở Việt Nam, có người tốt và có
người xấu. Tuy nhiên, khi nói đến người
không trung thực th́ phải kể Frances Fitzgerald. Tôi
quen cha cô ấy rất thân. Cha cô trước đây là
sếp của tôi nên cô ấy và tôi có gặp nhau vài
lần. Cô ấy đáng chú ư nếu nói về mặt
phụ nữ. Nhưng về mặt nhà báo, cô là
một người khác, nếu tin tức nào không phù
hợp, cô sẽ không đăng. Tản mạn về chiến
tranh và con người Ư kiến cá nhân của tôi
đă chuyển biến trong thời gian tôi can dự
ở Việt Nam, đó là chúng ta phải đặt ḿnh
vào vị trí của một bác sĩ đối mặt
với một bệnh nhân có nhiều chỗ ngứa và
nhiều vết thương trên cơ thể, và
nếu bạn chỉ điều trị hết chỗ
ngứa này đến chỗ ngứa khác, từng
vết thương này sang vết thương khác,
bạn sẽ không giải quyết được
vấn đề nguyên nhân nào đă gây ra. Và thực
tế là vấn đề ở miền Nam Việt Nam là
bộ máy chiến tranh nằm ở Hà Nội, nhưng
chúng ta chưa bao giờ giải quyết vấn đề
bộ máy chiến tranh ở Hà Nội. Để tôi kể cho bạn
một chuyện. Vào ngày 3 hoặc 4 tây tháng 5 năm
1972, lực lượng Nam Việt Nam chiếm Quảng
Trị, vốn là thị xă duy nhất lọt vào tay
miền Bắc trong cuộc tổng tấn công Phục
Sinh năm 1972. Quân miền Nam đă tái
chiếm và ngày hôm sau tôi dự buổi tiếp tân
tại Đại sứ quán Nhật Bản mừng sinh
nhật Nhật Hoàng. Một trong những vị khách
mời là người trước đây là Trưởng
đoàn Ba Lan trong ICC (Ủy ban Kiểm soát Đ́nh
chiến Việt Nam theo Hiệp định Genève
1954) — xin đừng nhầm với ICCS (Ủy ban
Quốc tế về Kiểm soát và Giám sát Đ́nh
chiến Việt Nam theo Hiệp định Paris 1973)
sau này. Anh chàng Ba Lan này hóa ra là một người
hoạt động t́nh báo rất giàu kinh nghiệm và
hiểu biết nhiều về t́nh h́nh thế giới.
Anh cũng từng là giám đốc của hăng hàng không
Ba Lan. Dịp này, tôi nói, “Anh nghĩ
thế nào về Quảng Trị?” Anh ta trả
lời, “Thực t́nh, tin này ấn tượng nhưng
không ăn thua ǵ.” Tôi nói, “Sao anh lại nói
vậy?” Anh trả lời, “Nó không ăn thua ǵ v́
miền Nam Việt Nam sẽ thua trận tại
Washington.” Anh ta nói câu đó vào tháng 5 năm 1972. Thật dễ để
biết ư định của Bắc Việt v́ Bắc
Việt không giữ bí mật ư định của
họ. Họ tiếp tục cho cán bộ của ḿnh
học tập đến tận chi tiết đáng kinh
ngạc về những ǵ họ định làm. Và nó hơi
giống Hitler với cuốn Mein Kampf (tự thuật
của Hitler nói về tư tưởng chính trị và
kế hoạch tương lai cho nước Đức).
Họ cứ tiếp tục nói ǵ họ sẽ làm nhưng
chúng ta vẫn tiếp tục không tin. Và đơn
giản là chính sách quốc gia của chúng ta không đáp
ứng với tin tức t́nh báo mà chúng ta thu thập. Lấy ví dụ, chúng tôi
bắt đầu nhận được báo cáo của
Hà Nội vào mùa thu năm 1974 nói rằng giờ th́
Nixon không c̣n làm tổng thống nữa, cuộc chơi
đă đổi khác, cho nên cần phải làm vài
trắc nghiệm trong lĩnh vực quân sự. Tôi xem tin này rất quan
trọng. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1974, tôi
c̣n nhớ, khi chúng tôi nhận được kế
hoạch cho năm 1975 của họ, tôi đă lái xe
đến Biên Ḥa để nói chuyện với trưởng
nhóm cấp cơ sở của tôi trong khu vực
bắt được tài liệu đặc biệt này.
Chúng tôi đi đến kết luận rằng ngôn
từ trong tài liệu này rất giống với
chỉ thị 90 của COSVN (Trung ương cục
miền Nam, Cục R), là loại chỉ thị đă
từng xuất hiện một vài tháng, trước khi
có cuộc tổng tấn công năm 1972. Một ngày nọ, tôi có
dịp hỏi Kissinger những ǵ ông nghĩ về ngành
t́nh báo của chúng ta. Không nói riêng Việt Nam, mà nói
chung. Ông ta vẫn nhận được hàng núi thông
tin t́nh báo trên toàn thế giới của CIA vào
thời điểm đó. Ông nghĩ ǵ về giá
trị của nó? Ông ta suy nghĩ một lúc rồi nói,
“À, khi nó hỗ trợ chính sách của tôi, nó rất
hữu ích.” Tôi nghĩ bụng, trọng tâm của
vấn đề chính là đây đây. Đó là chính
sách của Mỹ không được xây dựng để
đáp lại những ǵ mà thông tin t́nh báo cho
thấy. Chúng ta xây dựng chính sách trước,
rồi sau đó chúng ta cố gắng t́m ra thông tin t́nh
báo để hỗ trợ chính sách. Ba cơ quan chính thu thập thông
tin t́nh báo tại Việt Nam là T́nh báo của Tùy viên
Quốc pḥng (DAO-DIA), Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) và
CIA. Trong thực tế có rất ít mâu thuẫn giữa
ba nơi. Không có những chuyện trái cẳng
ngỗng giữa những tin được thu thập.
Chưa bao giờ xảy ra t́nh huống mà DAO-DIA nói
điều ǵ đó hoàn toàn khác với mọi người.
Chúng tôi phối hợp rất chặt chẽ với (Đại
tá) Bill LeGro, giám đốc t́nh báo cho DAO trong suốt
thời gian sau Hiệp định Paris. Chẳng có
vấn đề nào cả. Vấn đề là chính sách
của Mỹ dựa trên giả thuyết rằng
Chiến tranh Việt Nam đă kết thúc. Các lực lượng
quân sự của Mỹ đă bị loại và cho dù có
bất cứ chuyện ǵ xảy ra, Tổng thống
Ford cũng không dám mạo hiểm đánh mất cơ
hội đắc cử tổng thống của ông
bằng cách đưa lực lượng Mỹ trở
lại Việt Nam. (Nhưng cuối cùng Ford cũng
thất bại trước Jimmy Carter.) Ngay từ năm 1974, chúng ta
đă không cung cấp đồ tiếp liệu kịp
thời cho Nam Việt Nam. Chúng ta đă không làm đúng
với nghĩa vụ của ḿnh. Bấy giờ tôi
đă báo cáo rằng bất cứ khi nào người
miền Nam mất niềm tin vào sự ủng hộ
của Mỹ, họ sẽ sụp đổ. Tôi c̣n
nhấn mạnh rằng niềm tin – hay là tinh thần
– quan trọng hơn là mức viện trợ tiếp
liệu thực sự. Người Việt Nam có
thể nhận ra một vài điều xảy ra lúc
đó. Ư tôi là một cú đấm khủng khiếp
đối với Việt Nam, mà tôi nghĩ hầu
hết mọi người sẽ không nghĩ đến,
đó là cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm
1973 khi quá nhiều những món trước đây định
giao cho Việt Nam lại được chuyển cho
Israel. Và chuyện như vậy đă làm hỏng toàn
bộ quy tŕnh lập kế hoạch của Bộ
Quốc pḥng. Năm điều đă
xảy ra vào năm 1973 mà Việt Nam chẳng liên quan ǵ
nhưng đă gây ảnh hưởng rất nặng
nề. Đầu tiên là Chiến tranh Ả
rập-Israel đă lái sự chú ư và các nguồn cung
cấp quân cụ quan trọng của Bộ Quốc pḥng
sang hướng khác ngoài Việt Nam. Lệnh cấm
vận dầu hỏa sau đó và giá dầu thô tăng
cao đă gây ra tác động mạnh nhất cho
nền kinh tế Nam Việt Nam. Áp lực mới
nổi lên của nước ngoài dẫn đến
phản ứng tâm lư mạnh mẽ của người
Mỹ chống lại chuyện chính phủ tiếp
tục thực hiện những cam kết tốn kém
ở nước ngoài. Vụ quân đội Chile đảo
chính lật đổ Tổng thống Salvador Allende
đă làm phe tự do và phe cánh tả bực
bội thêm, sự thất vọng của họ
được trút lên đầu miền Nam Việt
Nam. Quốc hội ngày càng phẫn nộ với
những tiết lộ liên quan đến Watergate cho nên
đă trừng phạt Nixon bất kỳ chỗ nào có
thể, trong đó có các lĩnh vực liên quan đến
Việt Nam. Tôi
nghĩ ông Thiệu biết rất rơ rằng nếu không
có Mỹ, ông ta không thể sống sót. Tôi quen rất
thân Hoàng Đức Nhă, cháu ông. Nhă đặc biệt
ở chỗ là người duy nhất trong đám
cận thần của tổng thống học ở Hoa
Kỳ về. Và Nhă hiểu chuyện đó rơ hơn
nữa. Là
người đă trải qua bốn năm đại
học ở Mỹ, anh ta hiểu rơ tính chất
trồi sụt bất thường của t́nh h́nh chính
trị Mỹ, những chuyện thăng trầm do
những áp lực thuần túy trong nội bộ nước
Mỹ gây ra, các áp lực này không liên quan ǵ tới
yếu tố nước ngoài nhưng lại tác động
đến quan hệ đối ngoại. V́ vậy, Nhă
biết nhiều hơn những người khác đang
nắm quyền lực ở Việt Nam về cách
vận hành của Quốc hội Mỹ. Xét cho cùng, làm
thế nào mà một người như Thiệu
hiểu rơ cách vận hành của Quốc hội Mỹ
khi ông làm việc với quốc hội Việt Nam,
một quốc hội luôn luôn biết vâng lời? Khi
Phước Long mất vào đầu năm 1975, điều
đó không quan trọng về mặt quân sự, nhưng
rất quan trọng về mặt biểu tượng.
Đó là biểu tượng của việc Mỹ
từ chối thực hiện “sự trả đũa
ồ ạt và tàn bạo” mà Nixon đă hứa
với Thiệu. Miền Bắc đang trắc
nghiệm để thăm ḍ t́nh h́nh và t́nh h́nh th́ ngày
càng trở nên thuận lợi hơn, cho nên họ
tiếp tục ngày càng lấn sâu hơn. |