Hồi ức CIA Polgar: Chúng tôi là đoàn quân bại trận [2]

Châu Quang

 

  http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2018/06/4297_1150843564957_4378621_n.jpg
Thomas Polgar. 

Các nhà lập pháp

Sau đó là phái đoàn Quốc hội đến. Tôi nghĩ cách hành xử của (hai dân biểu) Fraser và Abzug trong phái đoàn không thể chấp nhận được. Abzug bước vào pḥng họp sau khi đến và hỏi, “Ai trong các bạn là Polgar?” Sau khi tôi tự xác nhận, bà nói, “À, tôi đă được cảnh báo là phải cẩn thận khi gặp ông.”

Bấy giờ có một sinh viên miền Nam đang ngồi tù, cuộc tranh đấu của anh ấy gây tí tiếng vang ở Hoa Kỳ. Bà Abzug đ̣i phỏng vấn anh ta, dù trước đó bà đă hô hoán rằng anh ta đă chết, chính quyền miền Nam đă giết anh ta.

Tôi trả lời: “Không, người miền Nam Việt Nam không làm chuyện đó. Họ có thể t́m ra bất cứ ai đang ngồi tù.” Bà nói: “Nếu thế th́ t́m người này.”

Chúng tôi đă t́m ra anh ta đang ở tù măi tận Tuy Ḥa thuộc Quân đoàn 3. (Polgar nhầm, Tuy Ḥa thuộc QĐ 2, có lẽ do gơ nhầm khi chuyển văn nói thành văn viết?) Chỗ đó hơi xa, không thể đi bằng xe mà phải dùng trực thăng. Bà nói thời gian duy nhất c̣n lại mà bà có thể gặp anh sinh viên là sáng Chủ nhật, một bất tiện cho mọi người, nhưng cũng không sao. Chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục ra vào nhà tù. Cho tới khi mọi thứ xong xuôi đâu vào đấy, bà ta lại bảo, “À này, tôi không c̣n quan tâm đến chuyện này nữa”. Rút cục, bà chẳng bao giờ đi gặp anh ta.

Dân biểu Millicent Fenwick cũng có mặt trong phái đoàn và mặc dù không có cảm t́nh với chiến tranh Việt Nam, bà vẫn giả vờ gật gù lẳng nghe các buổi thuyết tŕnh, nhưng Abzug th́ quá quắt, Frazer cũng vậy.

Lấy ví dụ, khi Tổng thống Thiệu mời phái đoàn dùng cơm tối, hai người đó không xuất hiện. Họ chẳng thông báo hủy hoặc cho biết bằng cách này cách khác, nhất định không ló mặt. Họ đă có mặt tại buổi tiếp đón của thủ tướng, diễn ra trước bữa cơm tối của tổng thống. Đêm đầu tiên họ tới Sài G̣n, Đại sứ mời cơm tối cả đoàn. Mọi người đều tới ngoài Abzug. Bữa đó tôi rất thất vọng v́ tôi đă thu xếp để ngồi cạnh bà!

Ban Mê Thuộc và kế tiếp

Theo tôi, không ai nghĩ rằng cuộc tấn công Ban Mê Thuộc sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 3, nhưng người nào có đầu óc tỉnh táo cũng nghĩ Bắc Việt sẽ mở một cuộc tấn công lớn ở Cao nguyên (bây giờ gọi là Tây nguyên).

Chúng tôi có trong tay sơ đồ trên giấy tờ của cuộc tấn công, mô tả cách họ cắt những đường lộ, chuyện đó đă xảy ra, cách họ di chuyển những đơn vị cấp sư đoàn, chuyện đó đă xảy ra, nhưng cuối cùng th́ Washington không tin. Lư do Washington không tin là bởi v́ — mà thôi, tôi không tiện nói ra những nguồn và phương pháp mà tôi không được phép tiết lộ — nhưng đại khái nói chung là t́nh báo ở Washington không chấp nhận những ước tính xuất phát từ Việt Nam do cả hai bộ phận DAO và CIA thu thập, rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn vào năm 1975. Họ nhất định không tin.

Có nhiều người cho chúng tôi biết chuyện ǵ đang xảy ra tại Cao nguyên. Tất cả đều đồng ư sẽ có tấn công lớn. Chúng tôi có nhiều nguồn tin nói rằng cuộc tấn công sẽ khởi sự ở Cao nguyên. Nhưng Washington vẫn không tin.

Phía Nam Việt Nam cũng không tự ḿnh nghĩ ra một chiến lược nào khác, ngoài chuyện đưa một trung đoàn ra chỗ này, một trung đoàn ra chỗ nọ để bảo vệ. C̣n trung đoàn được tăng cường cho Ban Mê Thuộc th́ không đủ sức để đối phó với t́nh h́nh. Quá xui cho họ.

Các lực lượng này th́ tốt cho nhiệm vụ duy tŕ an ninh cho địa phương và là một lực lượng trừ bị tốt khi ta ở thế tiến công. Nhưng nếu nói một cách khá chính xác th́ những lực lượng này không được huấn luyện hoặc trang bị để chống lại các đơn vị chính quy có xe bọc thép yểm trợ.

Sau khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú ở Cam Ranh và ra lệnh rút quân ở Cao nguyên. Tôi nhớ cuộc họp diễn ra vào ngày thứ Sáu.

Phú cho thi hành lệnh vào thứ Bảy. Tôi nhận được tin này vào sáng thứ Bảy. Tôi đi t́m Charles Timmes (Thiếu tướng, một trong những phụ tá cao cấp của Polgar) đang ở JGS – Bộ Tổng tham mưu VNCH, và nói với ông, “Tôi chẳng biết cái quái ǵ đang xảy ra.”

Tôi yêu cầu một phụ tá cao cấp khác đi gặp tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh quốc gia của Thiệu để hỏi xem chuyện ǵ đang xảy ra ở Quân đoàn 2. Quang trả lời, “Ông biết đó, t́nh h́nh không tốt. Có vẻ như chúng tôi không thể mở lại các đường giao thông, chúng tôi lo ngại trước t́nh h́nh, chúng tôi phải chuyển quân loanh quanh, nhưng chẳng có chuyện ǵ xảy ra ở Quân đoàn 2.”

Dường như Quang không biết ǵ về chuyện Phú đang lui quân.

Timmes không t́m ra tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, và nói chung, không khí hôm thứ Bảy đó giống như mọi thứ Bảy khác. Nhưng Timmes có gặp tướng Trần Đ́nh Thọ, trưởng pḥng hành quân (Pḥng 3) để hỏi về t́nh h́nh tại Quân đoàn 2. Tướng Thọ nói, “Không có ǵ xảy ra ngoài những chuyện các ông đă biết”.

Bộ Tổng tham mưu dường như cũng chẳng biết Phú đang lui quân. Tôi t́m người của tôi ở Pleiku. Một người đang lang thang đâu không biết, một người đang khám răng. Tôi bèn gọi cho Moncrieff Spear, Tổng lănh sự ở Quân đoàn 2, và nói, “Tốt hơn hết là anh nên đưa nhân viên của anh ra khỏi Pleiku.” Ông ta trả lời, “Anh điên rồi.” Ông ta đang ngồi ở Nha Trang. Tôi nói, “Không, tôi có lư do để tin rằng chuyện đó xảy ra.” Ông ta nói, “Bộ anh ra lệnh cho tôi di tản khỏi Plieiku hả?” Tôi trả lời, “Anh biết là tôi không có quyền đó, nhưng tôi có thể kết luận rằng di tản là một hành động khôn ngoan.”

Điểm tôi muốn nêu ra ở đây là những ǵ mà tướng Phú đă làm váo sáng hôm đó, cho dù trước đây ông ta có những công trạng ǵ đi nữa, là một hành động hoàn toàn thiếu phối hợp.

Thậm chí tướng Phú cũng không nói cho Tổng Lănh Sự biết, một chuyện mà lẽ ra ông ấy có nghĩa vụ phải làm, bởi v́ Tổng Lănh Sự là đại diện chính của Mỹ tại Quân đoàn 2.

Tướng Quang cũng không biết. Ư tôi là nếu sáng đó có chuyện ǵ quan trọng xảy ra th́ Quang cũng tỏ ra bận rộn, nhưng không, ông ấy vẫn tỏ ra b́nh thường như một sáng thứ Bảy b́nh yên. C̣n tướng Thọ, trưởng pḥng hành quân cũng không biết.

Theo suy luận của tôi, Phú đă khởi động một chuỗi hành động do hiểu lầm ư định của Tổng thống Thiệu, và Phú không biết tí ǵ rằng thực hiện một cuộc rút lui như vậy trong thực tế rất là khó khăn biết chừng nào. Sự thực là không hề có cái gọi là di tản tốt đẹp. Mỗi lần di tản trước sau ǵ cũng trở thành một thảm họa lớn lao.

Thế rồi Bắc Việt nắm bắt được cuộc di tản của Phú. Xe tăng miền Bắc xoay xở đến được một con đường ven quốc lộ ở Phú Bổn và chờ sẵn đoàn quân rút lui. Thế là cuộc tàn sát xảy ra.

Trước khi có cuộc họp ở Cam Ranh, tôi đă chính thức thông báo cho Washington biết rằng cuộc chiến đă chấm dứt. Tôi c̣n nhớ đă nói chuyện này với một trong những người tôi hay tiếp xúc, tôi xin miễn nêu tên, một người mà tôi vẫn tin cậy. Ông ta nói với tôi miền Nam không thể chịu đựng trước sự kiện mất Ban Mê Thuộc và kế tiếp sẽ mất Cao nguyên, mà ông nghĩ là hậu quả không tránh khỏi của chuyện mất Ban Mê Thuộc. Ông ta thuộc hàng tướng lănh.

Tại thời điểm đó, không có chuyện ǵ xảy ra tại Quân đoàn 1.

Thế rồi tai họa đổ xuống. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi Quân đoàn 1. Quyết định này phá hoại bất kỳ kế hoạch kháng cự nào mà tướng Ngô Quang Trưởng có được. Và rồi sư đoàn Thủy quân lục chiến thua trận và không c̣n dùng được nữa bởi v́ lúc đầu họ nhận lệnh rút nhưng sau đó lại có lệnh quay đầu lại, trở lại chỗ cũ, một động tác quân sự bất khả thi. Trong thực tế, sư đoàn Thủy quân lục chiến mất đi một số quân cụ một phần v́ không thể nào thu hồi quân cụ giữa ḍng người tỵ nạn đang chảy siết.

Dĩ nhiên, đến nước này th́ Thiệu chơi vơi trên đại dương và đi t́m ống thở. Nhưng cho dù ông ấy có làm ǵ đi chăng nữa cũng chẳng tạo khác biệt. Tṛ chơi đă chấm dứt.

Tôi tin chắc rằng ngay khi mà người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp bỏ chạy, mọi thứ sẽ sụp đổ. Tôi hoàn toàn đồng ư với Đại sứ Martin ở điểm đó.

Martin rời Việt Nam cùng với phái đoàn Quốc hội vừa đến Việt Nam v́ họ có sẵn máy bay, ông ấy có thể quá giang miễn phí. Ông tin rằng ḿnh có thể vận động với một số dân biểu, muốn trở về Mỹ để điều trần trước Quốc hội.

Theo tôi biết th́ trong thời gian Martin ở Washington, người ta phát hiện ông mắc một loại bệnh cần phải mổ, do đó, chuyến về Việt Nam bị dời lại. Khi biết người ta không muốn làm ồn ào về chuyện ông phải mổ, ông trở về quê nhà ở North Carolina. Ngay cả Bộ Ngoại giao cũng không t́m ra ông, hơn nữa, ông thuộc loại người thích giữ bí mật. Martin trở lại Việt Nam vào cuối tháng 3, trước khi mất Đà Nẵng và tai nạn máy bay C5A.

Trẻ mồ côi và máy bay rơi

Khi người ta gửi các trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam trên chiếc C5A th́ đó là một đề nghị thuần túy đánh động tâm lư quần chúng.

Bác sĩ Phan Quang Đán, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng y tế cảm thấy cần phải làm một cái ǵ đó cho đám trẻ mồ côi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cảm thấy nếu đưa số trẻ này đến Mỹ theo số lượng lớn sẽ đánh động dư luận quần chúng, một câu chuyện đầy ắp t́nh người.

Cùng lúc đó, văn pḥng tùy viên quốc pḥng DAO có nhiều nữ nhân viên trong tư thế sẵn sàng di tản, nhưng do thủ tục hành chính, họ chưa khởi hành được v́ chính phủ Mỹ chưa phát lệnh di tản chính thức.

Ai phải chi cho tiền máy bay đưa họ ra khỏi Việt Nam? Chính phủ Mỹ đúng không? Nếu vậy th́ tôi nghĩ ta có thể cho các nữ nhân viên này đi chiếc máy bay quân sự đang trống bụng sau khi bốc hàng hóa xuống, và chỉ đinh họ là những người tháp tùng các trẻ mồ côi, luôn tiện giải quyết luôn chuyện tiền bạc phải kết toán như thế nào.

Có nhiều người v́ nhiều lư do khác nhau đă lạm dụng số chỗ ngồi trên chiếc máy bay to lớn này. Vợ tôi cũng ra khỏi Việt Nam với tư cách tháp tùng trẻ mồ côi, nhưng bà ấy đi với Cathay Pacific, một hăng hàng không dân sự, cùng ngày với chiếc C5A rơi.

Lúc bấy giờ CIA chúng tôi có hai bác sĩ, khi máy bay rơi, họ phụ đưa các trẻ vào bệnh viện Seventh Day Adventist ở Sài G̣n (bệnh viện do một giáo phái Tin Lành điều hành). Một trong hai bác sĩ của tôi đầu óc c̣n tỉnh táo, có mang theo máy ảnh, chụp được rất nhiều ảnh trông rất tang thương.

Tôi cho đại sứ xem ảnh, ông ta suy nghĩ thật lâu để xem có nên công bố số ảnh này hay không. Cuối cùng, ông kết luận rằng những h́nh ảnh khủng khiếp này, tất cả đều rơ ràng, màu sắc sinh động cho thấy những cơ thể méo mó của phụ nữ và trẻ con, thay v́ khơi động ḷng thương xót của quần chúng, sẽ tạo ra kết quả ngược lại, làm quần chúng mất tinh thần. Đó chính xác là những ǵ đă xảy ra tại DAO bấy giờ. Các ảnh này không được phổ biến.

Đằng sau hậu trường

Vài ngày trước khi Thiệu từ chức, một sĩ quan Hungary cao cấp trong Ủy ban ICCS gặp tôi và nói, “Này này, anh phải thực tế, anh phải biết là các anh đă thua rồi.” Tôi trả lời, “OK, tôi thú nhận chúng tôi đă thua.” Rồi ông nói, “Thua trận bắt buộc dẫn đến hậu quả chính trị.” Tôi nói, “Tôi đồng ư với anh.” Ông nói, “Hậu quả chính trị hiển nhiên sẽ là cay đắng, nhưng cái phe mà tôi đại diện cũng không muốn…” — ông ta bỏ lửng phe mà ông đại diện là phe nào — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết. Có thể làm cái ǵ đó để không thay đổi kết quả chiến tranh, v́ chiến tranh đă chấm dứt, mà là để tạo một kết thúc lẽ ra không nên dẫn đến…” — một lần nữa ông nhắc lại — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết.”

Tôi mới hỏi: “Anh có ư kiến ǵ không?” “Thật ra th́,” ông nói, “anh biết đoàn (Hungary) chúng tôi ở Tân Sân Nhất hay nói chuyện với các đồng nghiệp Bắc Việt. Chúng tôi cũng có người ở Hà Nội. Chúng tôi đoán có thể làm một cái ǵ đó dựa theo những đường nét sau đây. Thiệu phải từ chức. Hoa Kỳ phải hứa không can thiệp công chuyện của Nam Việt Nam ngoài chuyện duy tŕ một đại sứ quán b́nh thường. Phía Nam Việt Nam th́ phải có một chính quyền gồm những người mà Bắc Việt có thể chấp nhận. Đó là những nét chính.”

Tôi nói, “Vâng, thế th́ cám ơn anh. Dĩ nhiên tôi sẽ báo cáo những ǵ chúng ta vừa trao đổi. Tôi sẽ bàn với đại sứ để sau đó chuyển về Washington, và rồi sẽ nói lại với anh sau. Trong khi chờ đợi câu trả lời từ Washington, anh làm ơn nói chuyện lại với các bạn anh để t́m hiểu một số người nào mà họ xem là có thể chấp nhận được trong chính phủ hộ tôi được không?”

Vài ngày sau đó, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp ông bạn Hungary và nói, “Thấy chưa, tôi đă thực hiện điểm đầu tiên của anh. Chúng tôi vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát (từ Washington). Anh có đề nghị nào về những cái tên chưa?” Ông trả lời, “À, có chứ, nhưng tôi không rành tiếng Việt lắm, cho nên tôi đă ghi ra.” Ông móc cuốn sổ tay ra và đọc cho tôi một số tên, tất cả đều quen thuộc với tôi.

Xong tôi nói, “Tốt lắm, tất nhiên tôi sẽ tiếp tục báo cáo rồi sẽ cho anh biết sau.” Nhưng ông ta nói, “Các đồng nghiệp của tôi muốn nói thêm như thế này nữa, họ nói với tôi rằng khi họ nói các anh phải quyết định nhanh nhanh th́ điều đó có nghĩa là trong ṿng vài ngày, không phải vài tuần.”

Tôi xin dừng lại ở đây để nói thêm rằng ông đại sứ rất siêu ḷng về giải pháp này. Ông nghĩ rằng đây là chuyện mà chúng ta có thể làm được. Nhưng chúng tôi gặp phải phản ứng rất tiêu cực của Kissinger. Kissinger chẳng muốn điều đ́nh ǵ cả.

Thế rồi chúng tôi gặp lại nhau ngày 26 hoặc 27 ǵ đó. Lần này, ông nói, “Thôi, tôi nghĩ bây giờ đă quá trễ.” Nói cách khác, khoảnh khắc mà họ xem là thuận lợi để có một thỏa hiệp nào đó đă vuột khỏi tầm tay.

Lư do tôi kể ra chuyện này là v́ tôi muốn nói những lời mạnh mẽ nhất có thể được, rằng chúng ta chưa hề có một thỏa hiệp nào và chúng ta chưa hề làm những ǵ mà phía bên kia muốn chúng ta làm, c̣n chuyện Thiệu từ chức là hoàn toàn v́ những lư do khác, nhưng tôi cứ làm bộ với họ rằng chúng ta có can dự vào chuyện này.

Họ muốn tránh làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết, nhưng cuộc thu xếp không thành theo cái nghĩa là người Hungary không c̣n cảm thấy họ có thể đóng góp một cái ǵ đó để mang lại giải pháp.

Thiệu từ chức

Ngày Thiệu từ chức là thứ Hai, 21 tháng Tư. Ông đại sứ không nói với Thiệu về chuyện từ chức, nhưng tính đến ngày 19 tháng Tư, khi đại sứ nói chuyện với tổng thống, rơ ràng là Thiệu đă mất tin tưởng với tất cả mọi người, và cũng rơ ràng là mọi người đều thấy Thiệu là trở ngại cho bất kỳ một thu xếp nào, bất kỳ một ngưng bắn dễ chịu nào, nói tóm lại là nếu c̣n Thiệu th́ chẳng làm được bất kỳ chuyện ǵ.

Một hôm, ông đại sứ gọi tôi vào văn pḥng, cho biết ông vừa đi gặp Tổng thống Hương và Hương cho biết không thoải mái khi Thiệu vẫn c̣n ở Việt Nam. Hương nghĩ rằng sự có mặt của Thiệu làm loăng đi quyền lực của Hương và Hương coi như bị tê liệt, bao lâu mà Thiệu vẫn c̣n đó. Hương khẩn thiết quay sang Đại sứ Martin bởi v́ chỉ có Hoa Kỳ mới ở vào vị trí có thể làm ǵ đó để giải quyết chuyện này. Hương c̣n nói đưa Thiệu ra khỏi Việt Nam cần phải làm trong ṿng tuyệt đối bí mật.

Thật vậy, Đại sứ Martin, một khi nghe đến tuyệt đối bí mật, nếu suy luận một cách hợp lư, th́ ông bèn nghĩ ngay đến CIA. Ông kể câu chuyện của Hương và hỏi tôi: “Liệu anh có làm được không?”

Tôi trả lời, “Vâng, tôi làm được, thưa Đại sứ, nhưng với một số điều kiện. Ông cứ để yên ḿnh tôi làm. Ông giao nhiệm vụ cho tôi th́ cứ để tôi làm, đừng làm theo kiểu một nhóm, ông chịu không?” Hôm đó phải là ngày 24.

Mọi chuyện xảy ra dồn dập sau ngày đó. Tôi biết chỗ để t́m ra chiếc máy bay thích hợp. Tôi sử dụng Tướng Timmes làm đầu mối liên lạc chính (với chỗ có máy bay).

Bấy giờ Thiệu đang ở căn biệt thự bên trong bộ Tổng tham mưu. Các tướng lănh Việt Nam đều có biệt thư trong khu vực gần Tân Sơn Nhất này.

Chúng tôi đồng ư với một kế hoạch hành động. Có một vài chuyện cần phải lo lắng. Lo lắng về công luận. Lo lắng phe quân đội bất tuân kỷ luật có thể xen vào, một số sĩ quan trung cấp muốn lấy tiếng trong lịch sử (như đă từng xảy ra đảo chánh và dội bom). Lo lắng về các trạm kiểm soát của cảnh sát trên đường vào Tân Sơn Nhất, các trạm này đă có sẵn, chẳng liên quan ǵ đến chuyện Thiệu ra đi.

V́ thế, chúng tôi phải bịa ra một câu chuyện, giả vờ đi dự một buổi liên hoan ở Bộ Tổng tham mưu. Chúng tôi dùng các xe màu đen bốn cửa thông thường của Mỹ, trong đó có xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, vừa đủ để chở từ 10 đến 12 người, cọng thêm các tài xế, cọng thêm Timmes, cọng thêm tôi, cọng thêm hành lư.

Chúng tôi dặn mỗi người chỉ được mang một kiện hành lư và hẹn gặp nhau tại biệt thự của Thủ tướng, là tướng Khiêm. Lư do chọn nhà của Khiêm thứ nhất nhà này rộng nhất, thứ hai ít gây chú ư hơn nhà của Thiệu.

Chúng tôi cũng đồng ư sẽ bay tới Đài Loan, nơi Thiệu có ông anh làm đại sứ, ông này sẽ thu xếp với nhà chức trách Đài Loan để cho mọi người nhập cảnh. Hơn nữa, Thủ tướng Khiêm trước đây đă từng làm đại sứ ở đó nên ông cũng có những quen biết riêng.

Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng chịu ảnh hưởng bởi khả năng của chiếc DC-6. Đài Loan là điểm xa nhất mà loại máy bay này đến được mà không cần tiếp nhiên liệu.

Về phía tài xế th́ tôi chọn những người mà tôi nghĩ là hay nhất, đáng tin cậy nhất, và có tinh thần cao nhất. Dĩ nhiên, tôi không muốn dùng tài xế người Việt trong trường hợp này.

Một trong những tài xế là Frank Snepp (ngạch Phân tích gia CIA, sau 75 viết cuôn Decent Interval, cũng thuật lại những ngày cuối cùng mất miền Nam.) Timmes ngồi ghế hành khách v́ cấp bậc anh ta không cho phép anh lái xe và ngạch trật của tôi cũng vậy.

Tiếp theo là t́m một cấp đại tá cảnh sát Việt Nam được biệt phái từ quân đội sang, tôi muốn có “một người nào có quyền ra lệnh” để lỡ gặp những người canh gác có thắc mắc, hỏi han làm khó.

Thật ra tôi nghĩ chắc chẳng có ai làm khó khi thấy bốn chiếc xe Mỹ do bốn người Mỹ lái, họ sẽ nhận ra xe của đại sứ Mỹ đi họp.

Chắc chắn sẽ không có vấn đề ǵ nhưng tôi vẫn muốn có ông đại tá quân đội biệt phái sang cảnh sát để pḥng hờ trường hợp có quá đông người trên các xe.

Chúng tôi không rơ Thiệu sẽ mang theo người nào. Chúng tôi biết đích thân Thiệu sẽ đi, Khiêm cũng vậy, nhưng không biết số người c̣n lại gồm những ai.

Do đó, chúng tôi mang theo một số giấy tờ đă kư sẵn nhưng tên th́ để trống, để Timmes sẽ điền vào bằng tay. Chúng tôi sẽ đưa những giấy tờ này cho trưởng phi cơ và dặn, “Khi nào bạn đến Đài Loan, chúng tôi sẽ thông báo cho giới chức quân sự Mỹ, bạn phải xin nói chuyện với giới chức quân sự Mỹ cao cấp nhất ở đó, và trao cho người đó bao thư này, trong đó có tất cả giấy tờ về hành khách.”

Cùng khi ấy, một chiếc xe khác đưa ông đại sứ đến thẳng máy bay v́ ông muốn từ giă Thiệu. Trước đó, tôi nói với ông, “Tôi không muốn ông đi cùng xe với tôi loanh quanh khắp thành phố, như vậy sẽ tạo thêm rủi ro.” Chúng tôi đổi xe với nhau, ông ấy dùng xe tôi, tôi dùng xe ông.

Mọi việc diễn ra đúng y bon như đồng hồ Thụy Sĩ, giống như mọi chuyện thường xảy ra khi chúng tôi làm một ḿnh. Chúng tôi đưa mọi người đến máy bay an toàn, đưa họ cùng hành lư lên máy bay, và máy bay cất cánh.

Tôi đi cùng xe với Thủ tướng. Nếu tôi không lầm, tướng Timmes đi với Thiệu. Không khí rất êm ả, không nghe tiếng khóc. Bà con họ đă đi hết rồi.

Thật ra tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên bởi v́ trong số tất cả những người thân cận với Thiệu, người duy nhất mà ông muốn mang theo lên máy bay là cựu Thủ tướng Khiêm. Cái này hơi buồn cười bởi v́ trong những năm trước đó, các quán cà phê ở Sài G̣n đồn rằng có sự kèn cựa giữa Thiệu và Khiêm, người này sẽ đẩy người kia đi, đại loại như vậy. Thật vậy, tôi không hề muốn kể công bởi v́ thực sự tôi có quan hệ tốt với Thủ tướng, tôi luôn luôn đánh giá ông là người trung thành với Thiệu.

Đêm hôm đó có tất cả 14 người đi trên phi cơ, toàn là đàn ông.

Bữa đó tôi lo lo, lỡ có chuyện ǵ không vui xảy ra nếu có người biết được Thiệu có mặt trong đoàn xe. Nhưng tôi lại nghĩ thế nào dân Việt Nam cũng phân biệt được giữa một đoàn xe trông có vẻ quan trọng của ṭa đại sứ Mỹ khác với cách di chuyển thường lệ của Thiệu trong thành phố bằng chiếc Mercedes cũ.

Lúc đó trời tối và tôi nghĩ khó có chuyện xen vào công việc của bốn chiếc xe Mỹ. Chiếc dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice bọc thép của đại sứ, trong xe có tôi, có ông đại tá cảnh sát bên cạnh. Vấn đề lớn nhất của tôi là rủi cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ và chiếu đèn sáng vào bên trong th́ họ sẽ nhận ra Thiệu và Khiêm.

Nhưng trong thực tế, khi bốn chiếc xe trông có vẻ quan trọng tiến gần sát trạm kiểm soát của cảnh sát, mọi người đứng nghiêm và chào tay; và đó là điều tôi mong đợi.

Thực ra, kinh nghiêm về thứ tâm lư này tôi đă học được sau lần đưa một nhân vật quan trọng đào thoát khỏi Đông Berlin trên một chiếc xe loại lớn như vậy, chúng tôi tính toán rằng khi lính gác Soviet thấy một chiếc xe loại này, họ sẽ chào tay. Và họ chào thật. 

(C̣n nữa)

Xem phần 1

Trở lại