Hồi
ức CIA Polgar: Chúng tôi là đoàn quân bại trận
[2]
Châu Quang |
Các
nhà lập pháp Sau
đó là phái đoàn Quốc hội đến. Tôi nghĩ
cách hành xử của (hai dân biểu) Fraser và Abzug trong
phái đoàn không thể chấp nhận được.
Abzug bước vào pḥng họp sau khi đến và
hỏi, “Ai trong các bạn là Polgar?” Sau khi tôi tự xác
nhận, bà nói, “À, tôi đă được cảnh báo
là phải cẩn thận khi gặp ông.” Bấy
giờ có một sinh viên miền Nam đang ngồi tù,
cuộc tranh đấu của anh ấy gây tí tiếng
vang ở Hoa Kỳ. Bà Abzug đ̣i phỏng vấn anh ta,
dù trước đó bà đă hô hoán rằng anh ta
đă chết, chính quyền miền Nam đă giết
anh ta. Tôi
trả lời: “Không, người miền Nam Việt Nam
không làm chuyện đó. Họ có thể t́m ra bất
cứ ai đang ngồi tù.” Bà nói: “Nếu thế th́
t́m người này.” Chúng
tôi đă t́m ra anh ta đang ở tù măi tận Tuy Ḥa
thuộc Quân đoàn 3. (Polgar nhầm, Tuy Ḥa thuộc QĐ
2, có lẽ do gơ nhầm khi chuyển văn nói thành văn
viết?) Chỗ đó hơi xa, không thể đi
bằng xe mà phải dùng trực thăng. Bà nói
thời gian duy nhất c̣n lại mà bà có thể
gặp anh sinh viên là sáng Chủ nhật, một bất
tiện cho mọi người, nhưng cũng không sao.
Chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ
tục ra vào nhà tù. Cho tới khi mọi thứ xong xuôi
đâu vào đấy, bà ta lại bảo, “À này, tôi
không c̣n quan tâm đến chuyện này nữa”. Rút
cục, bà chẳng bao giờ đi gặp anh ta. Dân
biểu Millicent Fenwick cũng có mặt trong phái đoàn
và mặc dù không có cảm t́nh với chiến tranh
Việt Nam, bà vẫn giả vờ gật gù
lẳng nghe các buổi thuyết tŕnh, nhưng Abzug th́
quá quắt, Frazer cũng vậy. Lấy
ví dụ, khi Tổng thống Thiệu mời phái đoàn
dùng cơm tối, hai người đó không xuất
hiện. Họ chẳng thông báo hủy hoặc cho
biết bằng cách này cách khác, nhất định không
ló mặt. Họ đă có mặt tại buổi
tiếp đón của thủ tướng, diễn ra trước
bữa cơm tối của tổng thống. Đêm
đầu tiên họ tới Sài G̣n, Đại sứ
mời cơm tối cả đoàn. Mọi người
đều tới ngoài Abzug. Bữa đó tôi rất
thất vọng v́ tôi đă thu xếp để
ngồi cạnh bà! Ban
Mê Thuộc và kế tiếp Theo
tôi, không ai nghĩ rằng cuộc tấn công Ban Mê
Thuộc sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 3, nhưng người
nào có đầu óc tỉnh táo cũng nghĩ Bắc
Việt sẽ mở một cuộc tấn công
lớn ở Cao nguyên (bây giờ gọi là Tây nguyên). Chúng
tôi có trong tay sơ đồ trên giấy tờ của
cuộc tấn công, mô tả cách họ cắt
những đường lộ, chuyện đó đă
xảy ra, cách họ di chuyển những đơn
vị cấp sư đoàn, chuyện đó đă
xảy ra, nhưng cuối cùng th́ Washington không tin. Lư do
Washington không tin là bởi v́ — mà thôi, tôi không
tiện nói ra những nguồn và phương pháp mà tôi
không được phép tiết lộ — nhưng đại
khái nói chung là t́nh báo ở Washington không chấp
nhận những ước tính xuất phát từ
Việt Nam do cả hai bộ phận DAO và CIA thu
thập, rằng sẽ có một cuộc tấn công
lớn vào năm 1975. Họ nhất định không
tin. Có
nhiều người cho chúng tôi biết chuyện ǵ
đang xảy ra tại Cao nguyên. Tất cả đều
đồng ư sẽ có tấn công lớn. Chúng tôi có
nhiều nguồn tin nói rằng cuộc tấn công
sẽ khởi sự ở Cao nguyên. Nhưng Washington
vẫn không tin. Phía
Nam Việt Nam cũng không tự ḿnh nghĩ ra
một chiến lược nào khác, ngoài chuyện
đưa một trung đoàn ra chỗ này, một trung
đoàn ra chỗ nọ để bảo vệ. C̣n
trung đoàn được tăng cường cho Ban Mê
Thuộc th́ không đủ sức để đối
phó với t́nh h́nh. Quá xui cho họ. Các
lực lượng này th́ tốt cho nhiệm vụ duy
tŕ an ninh cho địa phương và là một lực
lượng trừ bị tốt khi ta ở thế
tiến công. Nhưng nếu nói một cách khá chính xác
th́ những lực lượng này không được
huấn luyện hoặc trang bị để chống
lại các đơn vị chính quy có xe bọc thép
yểm trợ. Sau
khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Thiệu họp
với tướng Phạm Văn Phú ở Cam Ranh và ra
lệnh rút quân ở Cao nguyên. Tôi nhớ cuộc
họp diễn ra vào ngày thứ Sáu. Phú
cho thi hành lệnh vào thứ Bảy. Tôi nhận
được tin này vào sáng thứ Bảy. Tôi đi t́m
Charles Timmes (Thiếu tướng, một trong những
phụ tá cao cấp của Polgar) đang ở JGS –
Bộ Tổng tham mưu VNCH, và nói với ông, “Tôi
chẳng biết cái quái ǵ đang xảy ra.” Tôi
yêu cầu một phụ tá cao cấp khác đi gặp
tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh
quốc gia của Thiệu để hỏi xem
chuyện ǵ đang xảy ra ở Quân đoàn 2. Quang
trả lời, “Ông biết đó, t́nh h́nh không
tốt. Có vẻ như chúng tôi không thể mở
lại các đường giao thông, chúng tôi lo ngại
trước t́nh h́nh, chúng tôi phải chuyển quân
loanh quanh, nhưng chẳng có chuyện ǵ xảy ra
ở Quân đoàn 2.” Dường
như Quang không biết ǵ về chuyện Phú đang
lui quân. Timmes
không t́m ra tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu
trưởng, và nói chung, không khí hôm thứ Bảy
đó giống như mọi thứ Bảy khác. Nhưng
Timmes có gặp tướng Trần Đ́nh Thọ, trưởng
pḥng hành quân (Pḥng 3) để hỏi về t́nh h́nh
tại Quân đoàn 2. Tướng Thọ nói, “Không có
ǵ xảy ra ngoài những chuyện các ông đă
biết”. Bộ
Tổng tham mưu dường như cũng chẳng
biết Phú đang lui quân. Tôi t́m người của tôi
ở Pleiku. Một người đang lang thang đâu không
biết, một người đang khám răng. Tôi bèn
gọi cho Moncrieff Spear, Tổng lănh sự ở Quân
đoàn 2, và nói, “Tốt hơn hết là anh nên
đưa nhân viên của anh ra khỏi Pleiku.” Ông ta
trả lời, “Anh điên rồi.” Ông ta đang
ngồi ở Nha Trang. Tôi nói, “Không, tôi có lư do để
tin rằng chuyện đó xảy ra.” Ông ta nói,
“Bộ anh ra lệnh cho tôi di tản khỏi Plieiku
hả?” Tôi trả lời, “Anh biết là tôi không có
quyền đó, nhưng tôi có thể kết luận
rằng di tản là một hành động khôn ngoan.” Điểm
tôi muốn nêu ra ở đây là những ǵ mà tướng
Phú đă làm váo sáng hôm đó, cho dù trước đây
ông ta có những công trạng ǵ đi nữa, là
một hành động hoàn toàn thiếu phối
hợp. Thậm
chí tướng Phú cũng không nói cho Tổng Lănh
Sự biết, một chuyện mà lẽ ra ông ấy có
nghĩa vụ phải làm, bởi v́ Tổng Lănh Sự
là đại diện chính của Mỹ tại Quân
đoàn 2. Tướng
Quang cũng không biết. Ư tôi là nếu sáng đó có
chuyện ǵ quan trọng xảy ra th́ Quang cũng tỏ
ra bận rộn, nhưng không, ông ấy vẫn tỏ
ra b́nh thường như một sáng thứ Bảy b́nh
yên. C̣n tướng Thọ, trưởng pḥng hành quân
cũng không biết. Theo
suy luận của tôi, Phú đă khởi động
một chuỗi hành động do hiểu lầm ư
định của Tổng thống Thiệu, và Phú không
biết tí ǵ rằng thực hiện một cuộc rút
lui như vậy trong thực tế rất là khó khăn
biết chừng nào. Sự thực là không hề có cái
gọi là di tản tốt đẹp. Mỗi lần di
tản trước sau ǵ cũng trở thành một
thảm họa lớn lao. Thế
rồi Bắc Việt nắm bắt được
cuộc di tản của Phú. Xe tăng miền Bắc
xoay xở đến được một con đường
ven quốc lộ ở Phú Bổn và chờ sẵn
đoàn quân rút lui. Thế là cuộc tàn sát xảy ra. Trước
khi có cuộc họp ở Cam Ranh, tôi đă chính
thức thông báo cho Washington biết rằng cuộc
chiến đă chấm dứt. Tôi c̣n nhớ đă nói
chuyện này với một trong những người tôi
hay tiếp xúc, tôi xin miễn nêu tên, một người
mà tôi vẫn tin cậy. Ông ta nói với tôi miền Nam
không thể chịu đựng trước sự
kiện mất Ban Mê Thuộc và kế tiếp sẽ
mất Cao nguyên, mà ông nghĩ là hậu quả không tránh
khỏi của chuyện mất Ban Mê Thuộc. Ông ta
thuộc hàng tướng lănh. Tại
thời điểm đó, không có chuyện ǵ xảy
ra tại Quân đoàn 1. Thế
rồi tai họa đổ xuống. Thiệu quyết
định rút cả Thủy quân lục chiến
lẫn Nhảy dù khỏi Quân đoàn 1. Quyết định
này phá hoại bất kỳ kế hoạch kháng cự
nào mà tướng Ngô Quang Trưởng có được.
Và rồi sư đoàn Thủy quân lục chiến thua
trận và không c̣n dùng được nữa bởi v́
lúc đầu họ nhận lệnh rút nhưng sau
đó lại có lệnh quay đầu lại, trở
lại chỗ cũ, một động tác quân sự
bất khả thi. Trong thực tế, sư đoàn
Thủy quân lục chiến mất đi một số
quân cụ một phần v́ không thể nào thu hồi
quân cụ giữa ḍng người tỵ nạn đang
chảy siết. Dĩ
nhiên, đến nước này th́ Thiệu chơi vơi
trên đại dương và đi t́m ống thở.
Nhưng cho dù ông ấy có làm ǵ đi chăng nữa cũng
chẳng tạo khác biệt. Tṛ chơi đă chấm
dứt. Tôi
tin chắc rằng ngay khi mà người Việt Nam
có cảm tưởng chúng ta sắp bỏ chạy,
mọi thứ sẽ sụp đổ. Tôi hoàn toàn
đồng ư với Đại sứ Martin ở điểm
đó. Martin
rời Việt Nam cùng với phái đoàn Quốc
hội vừa đến Việt Nam v́ họ có
sẵn máy bay, ông ấy có thể quá giang miễn phí.
Ông tin rằng ḿnh có thể vận động với
một số dân biểu, muốn trở về Mỹ
để điều trần trước Quốc
hội. Theo
tôi biết th́ trong thời gian Martin ở Washington, người
ta phát hiện ông mắc một loại bệnh cần
phải mổ, do đó, chuyến về Việt Nam
bị dời lại. Khi biết người ta không
muốn làm ồn ào về chuyện ông phải mổ,
ông trở về quê nhà ở North Carolina. Ngay cả
Bộ Ngoại giao cũng không t́m ra ông, hơn nữa,
ông thuộc loại người thích giữ bí mật.
Martin trở lại Việt Nam vào cuối tháng 3, trước
khi mất Đà Nẵng và tai nạn máy bay C5A. Trẻ
mồ côi và máy bay rơi Khi
người ta gửi các trẻ mồ côi ra khỏi
Việt Nam trên chiếc C5A th́ đó là một đề
nghị thuần túy đánh động tâm lư quần
chúng. Bác
sĩ Phan Quang Đán, phó thủ tướng kiêm bộ
trưởng y tế cảm thấy cần phải làm
một cái ǵ đó cho đám trẻ mồ côi. Đại
sứ Martin và vài cố vấn cảm thấy nếu
đưa số trẻ này đến Mỹ theo số
lượng lớn sẽ đánh động dư
luận quần chúng, một câu chuyện đầy
ắp t́nh người. Cùng
lúc đó, văn pḥng tùy viên quốc pḥng DAO có
nhiều nữ nhân viên trong tư thế sẵn sàng di
tản, nhưng do thủ tục hành chính, họ chưa
khởi hành được v́ chính phủ Mỹ chưa
phát lệnh di tản chính thức. Ai
phải chi cho tiền máy bay đưa họ ra khỏi
Việt Nam? Chính phủ Mỹ đúng không? Nếu
vậy th́ tôi nghĩ ta có thể cho các nữ nhân viên
này đi chiếc máy bay quân sự đang trống
bụng sau khi bốc hàng hóa xuống, và chỉ đinh
họ là những người tháp tùng các trẻ
mồ côi, luôn tiện giải quyết luôn chuyện
tiền bạc phải kết toán như thế nào. Có
nhiều người v́ nhiều lư do khác nhau đă
lạm dụng số chỗ ngồi trên chiếc máy
bay to lớn này. Vợ tôi cũng ra khỏi Việt Nam
với tư cách tháp tùng trẻ mồ côi, nhưng bà
ấy đi với Cathay Pacific, một hăng hàng không dân
sự, cùng ngày với chiếc C5A rơi. Lúc
bấy giờ CIA chúng tôi có hai bác sĩ, khi máy bay rơi,
họ phụ đưa các trẻ vào bệnh viện
Seventh Day Adventist ở Sài G̣n (bệnh viện do một
giáo phái Tin Lành điều hành). Một trong hai bác sĩ
của tôi đầu óc c̣n tỉnh táo, có mang theo máy
ảnh, chụp được rất nhiều ảnh
trông rất tang thương. Tôi
cho đại sứ xem ảnh, ông ta suy nghĩ thật
lâu để xem có nên công bố số ảnh này hay
không. Cuối cùng, ông kết luận rằng những h́nh
ảnh khủng khiếp này, tất cả đều rơ
ràng, màu sắc sinh động cho thấy những cơ
thể méo mó của phụ nữ và trẻ con, thay v́
khơi động ḷng thương xót của quần
chúng, sẽ tạo ra kết quả ngược
lại, làm quần chúng mất tinh thần. Đó chính
xác là những ǵ đă xảy ra tại DAO bấy
giờ. Các ảnh này không được phổ
biến. Đằng
sau hậu trường Vài
ngày trước khi Thiệu từ chức, một sĩ
quan Hungary cao cấp trong Ủy ban ICCS gặp tôi và nói,
“Này này, anh phải thực tế, anh phải biết
là các anh đă thua rồi.” Tôi trả lời, “OK, tôi
thú nhận chúng tôi đă thua.” Rồi ông nói, “Thua
trận bắt buộc dẫn đến hậu quả
chính trị.” Tôi nói, “Tôi đồng ư với anh.”
Ông nói, “Hậu quả chính trị hiển nhiên
sẽ là cay đắng, nhưng cái phe mà tôi đại
diện cũng không muốn…” — ông ta bỏ lửng
phe mà ông đại diện là phe nào — “làm nhục
Hoa Kỳ một cách không cần thiết. Có thể làm
cái ǵ đó để không thay đổi kết
quả chiến tranh, v́ chiến tranh đă chấm
dứt, mà là để tạo một kết thúc
lẽ ra không nên dẫn đến…” — một
lần nữa ông nhắc lại — “làm nhục Hoa
Kỳ một cách không cần thiết.” Tôi
mới hỏi: “Anh có ư kiến ǵ không?” “Thật
ra th́,” ông nói, “anh biết đoàn (Hungary) chúng tôi
ở Tân Sân Nhất hay nói chuyện với các đồng
nghiệp Bắc Việt. Chúng tôi cũng có người
ở Hà Nội. Chúng tôi đoán có thể làm một cái
ǵ đó dựa theo những đường nét sau
đây. Thiệu phải từ chức. Hoa Kỳ
phải hứa không can thiệp công chuyện của Nam
Việt Nam ngoài chuyện duy tŕ một đại
sứ quán b́nh thường. Phía Nam Việt Nam th́
phải có một chính quyền gồm những người
mà Bắc Việt có thể chấp nhận. Đó
là những nét chính.” Tôi
nói, “Vâng, thế th́ cám ơn anh. Dĩ nhiên tôi
sẽ báo cáo những ǵ chúng ta vừa trao đổi.
Tôi sẽ bàn với đại sứ để sau
đó chuyển về Washington, và rồi sẽ nói
lại với anh sau. Trong khi chờ đợi câu
trả lời từ Washington, anh làm ơn nói chuyện
lại với các bạn anh để t́m hiểu
một số người nào mà họ xem là có thể
chấp nhận được trong chính phủ hộ tôi
được không?” Vài
ngày sau đó, Thiệu từ chức. Tôi trở
lại gặp ông bạn Hungary và nói, “Thấy chưa,
tôi đă thực hiện điểm đầu tiên
của anh. Chúng tôi vẫn chưa có câu trả lời
dứt khoát (từ Washington). Anh có đề nghị nào
về những cái tên chưa?” Ông trả lời, “À,
có chứ, nhưng tôi không rành tiếng Việt
lắm, cho nên tôi đă ghi ra.” Ông móc cuốn sổ
tay ra và đọc cho tôi một số tên, tất
cả đều quen thuộc với tôi. Xong
tôi nói, “Tốt lắm, tất nhiên tôi sẽ tiếp
tục báo cáo rồi sẽ cho anh biết sau.” Nhưng
ông ta nói, “Các đồng nghiệp của tôi muốn
nói thêm như thế này nữa, họ nói với tôi
rằng khi họ nói các anh phải quyết định
nhanh nhanh th́ điều đó có nghĩa là trong ṿng vài
ngày, không phải vài tuần.” Tôi
xin dừng lại ở đây để nói thêm
rằng ông đại sứ rất siêu ḷng về
giải pháp này. Ông nghĩ rằng đây là chuyện
mà chúng ta có thể làm được. Nhưng chúng tôi
gặp phải phản ứng rất tiêu cực
của Kissinger. Kissinger chẳng muốn điều đ́nh
ǵ cả. Thế
rồi chúng tôi gặp lại nhau ngày 26 hoặc 27 ǵ
đó. Lần này, ông nói, “Thôi, tôi nghĩ bây giờ
đă quá trễ.” Nói cách khác, khoảnh khắc mà
họ xem là thuận lợi để có một
thỏa hiệp nào đó đă vuột khỏi tầm
tay. Lư
do tôi kể ra chuyện này là v́ tôi muốn nói
những lời mạnh mẽ nhất có thể
được, rằng chúng ta chưa hề có một
thỏa hiệp nào và chúng ta chưa hề làm những
ǵ mà phía bên kia muốn chúng ta làm, c̣n chuyện
Thiệu từ chức là hoàn toàn v́ những lư do khác,
nhưng tôi cứ làm bộ với họ rằng chúng
ta có can dự vào chuyện này. Họ
muốn tránh làm nhục Hoa Kỳ một cách không
cần thiết, nhưng cuộc thu xếp không thành
theo cái nghĩa là người Hungary không c̣n cảm
thấy họ có thể đóng góp một cái ǵ đó
để mang lại giải pháp. Thiệu
từ chức Ngày
Thiệu từ chức là thứ Hai, 21 tháng Tư. Ông
đại sứ không nói với Thiệu về
chuyện từ chức, nhưng tính đến ngày 19
tháng Tư, khi đại sứ nói chuyện với
tổng thống, rơ ràng là Thiệu đă mất tin tưởng
với tất cả mọi người, và cũng rơ ràng
là mọi người đều thấy Thiệu là
trở ngại cho bất kỳ một thu xếp nào,
bất kỳ một ngưng bắn dễ chịu nào,
nói tóm lại là nếu c̣n Thiệu th́ chẳng làm
được bất kỳ chuyện ǵ. Một
hôm, ông đại sứ gọi tôi vào văn pḥng, cho
biết ông vừa đi gặp Tổng thống Hương
và Hương cho biết không thoải mái khi Thiệu
vẫn c̣n ở Việt Nam. Hương nghĩ
rằng sự có mặt của Thiệu làm loăng đi
quyền lực của Hương và Hương coi như
bị tê liệt, bao lâu mà Thiệu vẫn c̣n đó. Hương
khẩn thiết quay sang Đại sứ Martin bởi v́
chỉ có Hoa Kỳ mới ở vào vị trí có
thể làm ǵ đó để giải quyết
chuyện này. Hương c̣n nói đưa Thiệu ra
khỏi Việt Nam cần phải làm trong ṿng
tuyệt đối bí mật. Thật
vậy, Đại sứ Martin, một khi nghe đến
tuyệt đối bí mật, nếu suy luận một
cách hợp lư, th́ ông bèn nghĩ ngay đến CIA. Ông
kể câu chuyện của Hương và hỏi tôi:
“Liệu anh có làm được không?” Tôi
trả lời, “Vâng, tôi làm được, thưa
Đại sứ, nhưng với một số điều
kiện. Ông cứ để yên ḿnh tôi làm. Ông giao
nhiệm vụ cho tôi th́ cứ để tôi làm, đừng
làm theo kiểu một nhóm, ông chịu không?” Hôm đó
phải là ngày 24. Mọi
chuyện xảy ra dồn dập sau ngày đó. Tôi
biết chỗ để t́m ra chiếc máy bay thích
hợp. Tôi sử dụng Tướng Timmes làm đầu
mối liên lạc chính (với chỗ có máy bay). Bấy
giờ Thiệu đang ở căn biệt thự bên
trong bộ Tổng tham mưu. Các tướng lănh
Việt Nam đều có biệt thư trong khu
vực gần Tân Sơn Nhất này. Chúng
tôi đồng ư với một kế hoạch hành
động. Có một vài chuyện cần phải lo
lắng. Lo lắng về công luận. Lo lắng phe quân
đội bất tuân kỷ luật có thể xen vào,
một số sĩ quan trung cấp muốn lấy
tiếng trong lịch sử (như đă từng
xảy ra đảo chánh và dội bom). Lo lắng
về các trạm kiểm soát của cảnh sát trên
đường vào Tân Sơn Nhất, các trạm này
đă có sẵn, chẳng liên quan ǵ đến
chuyện Thiệu ra đi. V́
thế, chúng tôi phải bịa ra một câu chuyện,
giả vờ đi dự một buổi liên hoan ở
Bộ Tổng tham mưu. Chúng tôi dùng các xe màu đen
bốn cửa thông thường của Mỹ, trong
đó có xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của
tôi, vừa đủ để chở từ 10 đến
12 người, cọng thêm các tài xế, cọng thêm
Timmes, cọng thêm tôi, cọng thêm hành lư. Chúng
tôi dặn mỗi người chỉ được
mang một kiện hành lư và hẹn gặp nhau tại
biệt thự của Thủ tướng, là tướng
Khiêm. Lư do chọn nhà của Khiêm thứ nhất nhà này
rộng nhất, thứ hai ít gây chú ư hơn nhà
của Thiệu. Chúng
tôi cũng đồng ư sẽ bay tới Đài Loan, nơi
Thiệu có ông anh làm đại sứ, ông này sẽ
thu xếp với nhà chức trách Đài Loan để
cho mọi người nhập cảnh. Hơn nữa,
Thủ tướng Khiêm trước đây đă
từng làm đại sứ ở đó nên ông cũng
có những quen biết riêng. Khi
chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng
chịu ảnh hưởng bởi khả năng
của chiếc DC-6. Đài Loan là điểm xa nhất
mà loại máy bay này đến được mà không
cần tiếp nhiên liệu. Về
phía tài xế th́ tôi chọn những người mà tôi
nghĩ là hay nhất, đáng tin cậy nhất, và có
tinh thần cao nhất. Dĩ nhiên, tôi không muốn dùng
tài xế người Việt trong trường hợp
này. Một
trong những tài xế là Frank Snepp (ngạch Phân tích gia
CIA, sau 75 viết cuôn Decent Interval, cũng thuật
lại những ngày cuối cùng mất miền Nam.)
Timmes ngồi ghế hành khách v́ cấp bậc anh ta không
cho phép anh lái xe và ngạch trật của tôi cũng
vậy. Tiếp
theo là t́m một cấp đại tá cảnh sát
Việt Nam được biệt phái từ quân
đội sang, tôi muốn có “một người nào
có quyền ra lệnh” để lỡ gặp
những người canh gác có thắc mắc, hỏi
han làm khó. Thật
ra tôi nghĩ chắc chẳng có ai làm khó khi thấy
bốn chiếc xe Mỹ do bốn người Mỹ lái,
họ sẽ nhận ra xe của đại sứ
Mỹ đi họp. Chắc
chắn sẽ không có vấn đề ǵ nhưng tôi
vẫn muốn có ông đại tá quân đội
biệt phái sang cảnh sát để pḥng hờ trường
hợp có quá đông người trên các xe. Chúng
tôi không rơ Thiệu sẽ mang theo người nào. Chúng
tôi biết đích thân Thiệu sẽ đi, Khiêm cũng
vậy, nhưng không biết số người c̣n
lại gồm những ai. Do
đó, chúng tôi mang theo một số giấy tờ
đă kư sẵn nhưng tên th́ để trống,
để Timmes sẽ điền vào bằng tay. Chúng tôi
sẽ đưa những giấy tờ này cho trưởng
phi cơ và dặn, “Khi nào bạn đến Đài
Loan, chúng tôi sẽ thông báo cho giới chức quân
sự Mỹ, bạn phải xin nói chuyện với
giới chức quân sự Mỹ cao cấp nhất
ở đó, và trao cho người đó bao thư này,
trong đó có tất cả giấy tờ về hành khách.” Cùng
khi ấy, một chiếc xe khác đưa ông đại
sứ đến thẳng máy bay v́ ông muốn từ giă
Thiệu. Trước đó, tôi nói với ông, “Tôi không
muốn ông đi cùng xe với tôi loanh quanh khắp thành
phố, như vậy sẽ tạo thêm rủi ro.” Chúng
tôi đổi xe với nhau, ông ấy dùng xe tôi, tôi dùng
xe ông. Mọi
việc diễn ra đúng y bon như đồng hồ
Thụy Sĩ, giống như mọi chuyện thường
xảy ra khi chúng tôi làm một ḿnh. Chúng tôi đưa
mọi người đến máy bay an toàn, đưa
họ cùng hành lư lên máy bay, và máy bay cất cánh. Tôi
đi cùng xe với Thủ tướng. Nếu tôi không
lầm, tướng Timmes đi với Thiệu. Không khí
rất êm ả, không nghe tiếng khóc. Bà con họ
đă đi hết rồi. Thật
ra tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên bởi v́ trong
số tất cả những người thân cận
với Thiệu, người duy nhất mà ông muốn
mang theo lên máy bay là cựu Thủ tướng Khiêm. Cái
này hơi buồn cười bởi v́ trong những năm
trước đó, các quán cà phê ở Sài G̣n đồn
rằng có sự kèn cựa giữa Thiệu và Khiêm, người
này sẽ đẩy người kia đi, đại
loại như vậy. Thật vậy, tôi không hề
muốn kể công bởi v́ thực sự tôi có quan
hệ tốt với Thủ tướng, tôi luôn luôn
đánh giá ông là người trung thành với
Thiệu. Đêm
hôm đó có tất cả 14 người đi trên phi cơ,
toàn là đàn ông. Bữa
đó tôi lo lo, lỡ có chuyện ǵ không vui xảy ra
nếu có người biết được Thiệu có
mặt trong đoàn xe. Nhưng tôi lại nghĩ thế
nào dân Việt Nam cũng phân biệt được
giữa một đoàn xe trông có vẻ quan trọng
của ṭa đại sứ Mỹ khác với cách di
chuyển thường lệ của Thiệu trong thành
phố bằng chiếc Mercedes cũ. Lúc
đó trời tối và tôi nghĩ khó có chuyện xen vào
công việc của bốn chiếc xe Mỹ. Chiếc
dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice bọc thép
của đại sứ, trong xe có tôi, có ông đại
tá cảnh sát bên cạnh. Vấn đề lớn
nhất của tôi là rủi cảnh sát chận lại
hỏi giấy tờ và chiếu đèn sáng vào bên
trong th́ họ sẽ nhận ra Thiệu và Khiêm. Nhưng
trong thực tế, khi bốn chiếc xe trông có vẻ
quan trọng tiến gần sát trạm kiểm soát
của cảnh sát, mọi người đứng nghiêm
và chào tay; và đó là điều tôi mong đợi. Thực ra, kinh nghiêm về thứ tâm lư này tôi đă học được sau lần đưa một nhân vật quan trọng đào thoát khỏi Đông Berlin trên một chiếc xe loại lớn như vậy, chúng tôi tính toán rằng khi lính gác Soviet thấy một chiếc xe loại này, họ sẽ chào tay. Và họ chào thật. (C̣n nữa) |