Tác giả: Phan Nhật Nam (trích
tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, xuất
bản tại Saigon năm 1972/73) Mùa Hè, những cơn mưa
bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt
chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời
thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt,
nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh,
những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ
14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non
lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa
đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng
dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây
thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn
sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên
với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên
đồng cỏ xôn xao gió thổi... Mùa Hè, gió Lào miền
Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng
luồng, từng chập, đưa "con
trốt" chạy lừng lững trên cánh đồng
cát chói chang, những đồi hoa sim, hoa dủ
dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời
hạ chí. Giòng nước sông Hương, sông
Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục
hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng
sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ
đá, bãi cát, chầm chậm chảy về phía Tam
Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa. Mùa Hè, những con đường
thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên
qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc
dài dày kín, nâng khối tóc xôn xao lên khỏi
chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào
chè xanh thổi khô đi lớp mồ hôi rịn trên
những lông tơ nõn. Mùa Hè, mưa rào tăm
tắp đổ xuống kín trời An Lộc,
chập chùng ẩn hiện những thân cây cao su nhòa
vào nền trời xám tối, khu rừng biến thành
khối đêm đen trong khoảng khắc, khối
đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo
từng cơn lốc gió... Mưa tan, trời
tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương
tây, cuối bình nguyên lồng lộng, núi Bà Đen
ấn một nét đen thẫm thần bí trên
nền trời xanh ánh trăng. Và đàn nai bắt
đầu tung tăng từ đầu nguồn,
cuối lạch... Đàn nai chạy vun vút qua
rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng,
chạy và ngừng lại, "bép" mấy
tiếng âm u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng
cỏ. Mùa Hè, mùa đẹp đẽ,
tươi gắt căng sức sống, ngày ngày
nỗ lực trên mặt nước loáng ánh
nắng hay đồng lúa nặng hạt. Hạt
ngọc của trời, và người dân cất cao
tiếng hò... Được
mùa chớ phụ môn khoai, Tiếng hò chạy dài trên lúa,
theo cơn gió đưa ra đến đầu
ghềnh, cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng
nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi
về Thế Chí, Đại Lộc dọc Phá Tam
Giang¹, lại vang dội một giọng hò khác
phảng phất nét tàn tạ bi thảm của hơi
Nam Ai thê thiết... Hò... ơ... ai...về... ạ... ạ... Đại... Lộc... ạ... ạ...
ai vượt... ạ.. ơ... Kế Môn... Đã từ lâu, lâu lắm, người
dân của ba miền đã qua những mùa hè trong
cạn đáy khắc khoải để hy vọng
tiếp tục đời sống với mơ ước
chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm
nay, 1972, tất cả hy vọng và mơ ước
nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng
kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá
nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê
thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người
dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa,
một năm, chiến tranh lắng dịu và
được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở
Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở
An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài
Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất
Đỏ... Toàn thể những địa danh nơi
hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối,
tận con đường, tất cả đều
bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...
Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba
miền đồng bốc cháy một thứ lửa
nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc
gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa
mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt.
Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn
đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt
da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm.
Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa
gào chêm tiếng khóc của người. Lửa
hốt hoảng khi cái chết chạm mặt.
Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng
giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng.
Kinh khiếp hơn Ất
Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão
tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm
1972, Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan
vỡ toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu
linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày!
Ba sư đoàn bộ binh 304,
308, 324B, cùng sáu trung đoàn địa phương
của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn
đặc công và một sư đoàn pháo nặng
130 ly, cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn
5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai
Trung Ðoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm
trợ bởi một sư đoàn pháo nặng
tại mặt trận An Lộc. Hai Sư Ðoàn 320 (Thép)
và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công
vào Tân Cảnh, Kontum. Hướng tiến được
dọn đường bởi một trung đoàn pháo
đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng tam biên-giới
Việt-Miên-Lào. Cộng quân chơi trò chơi máu,
mở đầu những "ngày hè đỏ
lửa," trận cuối cùng để tìm
kiếm kết thúc cho mười năm chiến
tranh "giải phóng" cạn lực, sau
"tổng-công-kích thất bại Mậu Thân
1968." Quân ta phải chống lại.
Chống giữ để tự vệ. Chống
trả nơi biên giới cuối cùng: Tự Do hay Nô
Lệ. Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết
tử và trận chiến cực điểm. Ba tháng
hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục
chiến trường thay đổi từng nấc,
từng bậc lớn, từ 2,000 quả đạn
cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000
quả cho An Lộc. Bắc quân đi bước tàn
nhẫn không nương tay và quân dân Miền Nam
đồng đương cự với nỗ
lực cao nhất tại "Điểm đứt
hơi - Điểm vỡ của chiến
trận." Chúng ta đã chiến đấu
giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Hôm nay, ngày đầu tháng 8,
cuộc đại chiến đã bước qua tháng
thứ tư, và có cơ kéo dài thêm một thời
gian nữa, nhưng quân dân ta cắn răng, ngậm
chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy
khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế,
đánh thêm nữa cũng được. Trong nguy
nan, Dân tộc biến thành "thánh chịu
nạn." Dân tộc kiêu dũng, quật cường,
vượt qua, bất chấp tất cả để
tồn tại. Ngọn lửa Mùa Hè 1972 nung độ
nóng cao nhất trui rèn chúng ta, Người Việt
Nam muốn sống đời đáng sống của
Người. Người Tự Do. [xem tiếp]
|
|