Tuổi Học Tṛ

[1]

LGT: Chúng tôi xin giới thiệu đến quư bạn hồi kư "Tuổi Học Tṛ " của thi sĩ Tôn Thất Phú Sĩ. Anh Sĩ là một cựu Sĩ Quan Hải Quân, xuất thân từ trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang khoá 15. 


Tác giả: Tôn Thất Phú Sĩ
Thể loại: Hồi kư


1. Đệ Thất

Tặng bạn bè Đà Nẵng thuở xưa

Lớp Đệ thất 2 niên khoá 1954-1955 trường Trung Hoc đệ nhất cấp Phan chau Trinh Đà nẵng có khoảng 40 học tṛ, trong số đó 12 tṛ con gái ngồi ba bàn đầu phía phải ngay cửa vào lớp đối diện với bàn thầy giáo , tôi ngồi đầu bàn thứ tư sau một học tṛ con gái , tôi làm quen ngay thằng bạn ngồi bên cạnh , Nguyễn Trân , thằng bạn thuỏ ban đầu , hơi nhỏ người , thấp hơn tôi một chút nói tiếng Huế , lanh le. và có vẽ thạo đời hơn tôi , giờ học đầu tiên là giờ âm nhạc của thầy Hoàng Bích Sơn , thầy cũng là giáo sư chính của lớp chúng tôi , với giọng Huế trầm trầm nhè nhe. thầy giói thiệu tên thầy và môn học do thầy phụ trách , thầy mở sổ điểm danh gọi tên từng đứa một , đứa nào được gọi tên phải đứ ng dậy ṿng tay hô to : Có mặt ;sau đó ngồi xuống , cả lớp lặng yên theo dỏi buổi học đầu . Thầy Sơn không cao bao nhieu , ốm người , thầy ôm một cái cắp h́nh như nặng gần bằng trọng lượng của thầy , thầy viết trên bảng đen Thời khoá biểu hằng tuần cho chúng tôi chép , tất cả đều là những môn học mới lạ . Sau đó Thầy bảo tôi lau bảng , cầm miếng giẽ mà trong ḷng thấy hănh diện , không có ǵ hănh diện cho bằng , được thầy cô sai làm cái này làm cái nọ .Lủ học tṛ chưa quen biết , nhưng sự làm quen đến rất mau lẹ , cả lớp ŕ rào nói chuyện , Thầy Sơn viết bài hát HIỆU ĐOÀN CA trên bảng , chúng tôi cặm cụi chép vào tập vở :Phan châu Trinh người chiến sĩ Quốc Gia bất diệt , đă từng hy sinh tranh đấu cho nhân quyền , ngàn đời c̣n ghi công ơn người chiến sĩ , buồn thấy Đế Quốc chiếm giang sơn , công lao bao đấng anh hùng điêu linh dưới ách gông cùm . Ra tay ... Quyết ḷng v́ nước quên ḿnh . Hồ Tây phương Nam c̣n in bóng ....Lời ai dư âm vẵng qua rừng ....
Tiếng hát của thầy , tiếng hát của học tṛ vang lên trong lớp , hùng hồn như khúc nhạc hành quân , một hồi kiểng do bác Thôi ( Cai Trường ) đánh vang lên , chấm dứt một giờ học đầu tiên , để nhớ măi trong cuộc đời , Giờ ÂM NHẠC của Thầy Hoàng Bích Sơn .
Lớp Đê. thất 2 có tất cả 48 tṛ , 12 gái 36 trai , người ta nói con gái nhút nhát hay e lê. thẹn thùng , mới bắt đầu niên học nên chưa biết có đúng như vậy không , có một điều đặt biệt là lần nào điểm danh th́ lại có 11 gái 37 trai , t́nh trạng gái thiếu trai thừa này là trong nhóm con gái có một người con gái tên là NGUYỄN VĂN NHƯ Ư , điều quái gỏ nữa là chử S va chử Y lại gần nhau trong danh sách của lớp , nên mỗi lần điểm danh khi thầy gọi đến TTPS , tiếp theo là NVNY , tôi lại ngồi bàn sau và sau lưng NY , từ đó NY và tôi bắt đầu là hai điểm sáng để bạn bè chọc phá sau này , theo nhận xét của tôi bấy giờ NY là một cô gái xinh , hiền và học giỏi , có mái tóc đen nhánh xoả ngang vai mà sau nay lớn lên tôi mới biết gọi là " tóc thề đă chấm ngang vai " .
Không khí vui nhộn lớp Đê. thất 2 của chúng tôi bắt đầu từ ngày cô Tôn Nữ Từ Diệm làm giáo sư chính , lúc đầu niên học cô dạy Anh văn , sau đó thầy Bữu Thiết thay thế , cô Diệm dạy Công Dân và Sử Địa , cô có giọng nói nhẹ nhàng , từ tốn , một lần vào tháng sắp Tết các lớp thi nhau làm Bích báo tường ,cô cho tiền chúng tôi mua giấy , viết mực , màu vẽ , trong 4 lớp Đệ Thất cô bảo Đệ Thất 2 phải nhất , thế là lủ nhóc chúng tôi cặm cụi làm báo , tôi được bầu làm trưởng ban báo chí , vội vàng về nhà nhờ Me vẽ cho cái đề : BÁO XUÂN * Đệ Thất 2 , màu đỏ cho thật nổi , năm đó tờ báo của chúng tôi được chấm nhất toàn trường , nội dung và tŕnh bày thật đẹp và phong phú , nhờ một phần lớn Me tôi giúp đở mà cô Diệm không biết
tôi c̣n nhớ mang máng bài thơ
của bạn vô danh nào đó viết trên tờ báo tường ngày xưa :


CÔ GIÁO CỦA TÔI
Lớp tôi , Đệ Thất Hai
Có cô giáo dể thương
Tên chi ... đố ai biết ?
Hiền như một bà mẹ
Nghiêm như một người cha
Vui như một người chị
Đẹp như một vầng trăng
Tên cô a a a........... biết rồi
Tôn nữ Từ Diệm ... Cô tôi
Ha.. ha... hạ.......


Rồi một ngày Cô dẩn cả lớp đi du ngoạn Sơn Trà , Cô cùng chúng tôi leo núi , băng qua mot con suối nhỏ , gịng suối trong mát , gió từ biển đưa lên , gió từ xa đưa về , chúng tôi nắm tay nhau đi trên những phiến đá trơn nhẫn , nước chảy róc rách dưới chân , cùng hát vang lời hát do cô dạy một ngày nào đó:
Vui ca lên nào anh em ơi , hát cho ḷng thắm tươi , đừng thấy khó mà quay đi lui , ta cố tiến lên đường ...dù , bao chông gai ...nào anh em ta ...vẫn không sờn chí trai ...cùng cất tiếng mà ca lên đi , cả bao người đều vui .
Trong cái vô t́nh của một dây chuyền nắm tay nhau , tôi nắm phải tay Như Ư , những thằng bạn rắn mắt chợt thấy cùng la lên Phú Sĩ nắm tay Như Ư , thế là chúng chế riễu kết đôi , cươi ầm vang lên như bầy ong vở tổ , Cô Diệm ngạc nhiên hỏi - Các em cười gi thế . Bọn chúng bạn nín khe im thin thít .Cô cười nhắn nhủ - Coi chừng té nghe các em . tiếng vi vu của núi rừng , tiếng cười đùa của những tâm hồn trong trắng hoà với tiếng cô diệu hiền tạo thành bản nhạc nhớ hoài không quên .
Hiệp định Genève 20-07-54 , chấm dứt chiến tranh Pháp- Việt Cọng , đất nước chia đôi , chuyện người lớn , chúng tôi con nít chưa biết gi , nhớ lại có một cuộc biểu t́nh khắp đường phố , dân chúng và học sinh tập họp từ sáng tính sương , đoàn Học sinh Phan châu Trinh theo thứ tư. từng lớp do các Giáo sư chính hướng dẫn , người biểu t́nh đông nghẹt khởi hành tư Chợ Hàn đi khắp các con đường của thành phố , những tiếng Hoan Hô , Đả đảo hai Ông BẢO ĐẠI và NGÔ Đ̀NH DIỆM vang trời , chúng tôi được một ngày nghĩ vui chơi , tuổi con nít vô tư , được nghỉ học là vui rồi , sau đó Cô Diệm giăi thích ư nghĩa cuộc Biểu t́nh chúng tôi mới hiễu , tôi muốn nhắc lại v́ lớp Đệ thất của chúng tôi rơi vào một điễm quan trọng của lịch sử đất nước thời bấy giờ .
Những cơn gió mùa đông đem cái se lạnh đến , ngoài những hoc sinh là dân DANANG , một số không ít hoc sinh các miền quê được gia đ́nh cho ra DaNang học , đời sống chật vật khó khăn từ nơi ăn chốn ở , có đứa phải đi bộ mỗi ngày hơn 10 cây số mới đến trường ,nhà trường sau buổi học là khoá cổng , cho nên buổi trưa các bạn này phải ra gốc cây , vĩa h ăn nắm cơm mang theo , đợi đến buổi học chiều , mùa nắng th́ không có điều chi , nhưng mùa mưa đến , những cơn mưa dài lê thê của miền Trung cằn cổi , từng cơn rét xé ḷng người hoc tṛ đơn côi , thế hê. chúng tôi lúc bấy giờ là thế hệ giao mùa giữa chiến tranh và hoà b́nh , 100 năm Pháp thuộc chấm dứt , bây giờ đất nước lại bị chia đôi ,Chiến tranh tạm ngưng , Hoà b́nh tạm thời đă đến nhưng đời sống dân chúng c̣n nghèo nàn lạc hậu , nhất là miền quê , cả Tĩnh Quảng Nam không có một trường Trung Hoc . Hoc sinh Hội An , Tam Kỳ và nhất là những vùng quê hẻo lánh phải ra Đà Nẵng trọ học , nh́n bạn bè , nh́n lại ḿnh , căm thấy ḿnh c̣n may mắn rất nhiều .
Rồi một ngày , cuộc sống êm a? của lớp Đệ Thất chúng tôi có một chuyện buồn ; Thầy Hồ Vinh dạy Việt văn , một buổi sáng đang giăng bài cho chúng tôi , th́nh ĺnh một toán Cănh Sát xông vào lớp c̣ng tay Thầy và bắt lên xe đưa đi đâu , chúng tôi không hiểu , Thầy Vinh người ốm và cao , giong Huế dịu dàng , nhỏ nhẹ , chúng tôi thích nghe Thầy giăng chuyện Trê Cóc và Lục súc tranh công , Thầy xưng với học tṛ là anh em chứ khong phải là tṛ và tôi hay anh và tôi như các Thầy Cô khác . Sau đó chúng tôi được biết Thầy là cán bô. Cọng Sản nằm vùng , dù sao di nũa, trong đầu óc non dại của chúng tôi , Thầy vẫn là người Thầy kính yêu , ngày Thầy bị bắt chúng tôi buồn vô cùng , có đứa khóc trong đó có tôi .
Trường tôi lúc bấy giờ chỉ có một dăy dài trệt nằm dọc theo đường Lê Lợi , đối diện với Bệnh Xá DN , sau này là trường Nam Tiểu Học gồm 8 lớp học và văn pḥng nằm chính giữa , xung quanh trường là một khoảng đất rộng không một bóng cây , măi sau này 55-56 nhà trường mới bắt đầu được trồng cây có bóng mát , phần lớn là Phượng , trong thời gian này khu trường Trung Hoc Lyceé Pascal của Pháp đă chuyễn giao va sát nhập vào Trường PCT , dùng làm pḥng dạy nghề cho hoc sinh , nói là dạy nghề chứ thật ra chỉ dạy đánh máy chử và về sau xây thêm pḥng thí nghiệm , nơi đây cũng là tư gia của Thầy Hiệu Trưởng ,trước trường có một sân bóng rổ ,về sau một vài lớp .đươc chuyển qua , trong đó có lớp Đệ Thất của chúng tôi được chuyển qua vào cuối niên học . Bức tường ngăn chia giữa PCT và Trường Lycée được sửa lại thành dăy nhà dài để xe đạp . Quang cảnh trường tôi buổi ban đầu đơn sơ trống vắng ,không có chổ cho học sinh chơi đùa , cho nên vào những giờ nghĩ học , chúng tôi lang thang khắp đường phố DANANG , băi biển Thanh B́nh cát trắng phẵng ĺ với hàng thông già vi vu , sân vận Động Chi Lăng những chiều chạy nhảy đá banh , con đường Quang Trung mát rượi bởi hàng xoài cao vút chạy dài qua Thanh Bồ , qua Trẹm , bờ sông Hàn những tàn cây xanh , hàng ghế thơ mộng vào những chiều nắng đẹp , Cổ Viện Chàm huyền bí , tiệm kem Diệp Hải Dung , tiệm chè Ngă Năm quyến rũ , cầu vồng nao nức trong ngày đua xe đạp , khu vườn Diên Hồng , một khu đất rộng lớn ngay trung tâm thành phố vài trăm mét cách Chợ Hàn , khu đất c̣n bỏ trống trồng vô số me chua và nơi để các gánh hàng rong tu họp ăn uống ,những đám hát xiệc với vài con khỉ , vài con trăn làm tṛ xiếc hay quảng cáo bán thuốc Cao Đơn Hoàn Tán . Các rạp ciné Lido , Chợ Cồn , Kinh Đô ....c̣n chiếu phim đen trắng ...đêm cuối tuần , trước Ty Thông Tin Thành Phố tổ chức Văn Nghệ cô.ng Đồng ... tất cả là Da Nang thân yêu của tuổi thơ , của tuổi Đệ Thất Phan Châu Trinh ngày xưa .
Lớp tuổi của chúng tôi hồi đó vẫn c̣n dư âm của nền giáo dục cũ , trong lớp học vẫn c̣n treo các câu châm ngôn : TIÊN HỌC LỄ HẬU HỌC VĂN , ĂN VÓC HỌC HAY ĂN NGAY NÓI THẬT , KHÔNG THẦY ĐỐ MÀY LÀM NÊN ... Học sinh vẫn c̣n sợ Thầy Cô như Cha Me , vẫn c̣n bị bắt quỳ hay phạt đ̣n khi bị phạm lổi nặng , gặp Thầy Cô ngă nón hay ṿng tay chào , cho nên đối với Thầy Cô chúng tôi kính yêu không dám hổn hào vô phép , năm đầu Thầy Cô phần lớn là người Huế , Thầy Trần Tấn dạy Pháp Văn , Thầy Bùi Tấn dạy toán , Cô Đặng thị Liệu dạy Anh Văn , Thầy Trần Ngọc Quế dạy Việt Văn , Thầy Phạm hữu Khánh dạy vẽ , Thầy Nguyễn văn Đáo dạy Sử Địa .. Thầy Cô mỗi người có một cá tánh , một phương pháp dạy và sư. chăm sóc thương yêu học tṛ khác nhau , tôi vẫn nhớ từng nét đặc biệt của mỗi Thầy mỗi Cô , tôi sẽ hồi tưỡng lại vào những bài viết cho năm Đệ Lục đến Đệ Nhị , riêng năm Đệ Thất , nhớ nhiều đến thầy Trần Ngọc Quế ,Thầy có cái miệng móm duyên v́ thầy nói chuyện rất hấp dẫn và lôi cuốn người nghe , Thầy dạy môn Việt Văn , thời đó chương tŕnh Việt Văn chia làm hai loại Cổ Văn và Tân Văn , Cổ văn là những câu chuyện bằng thơ Lục bát hay Song thất lục bát như Trê Cóc , Nhi thập tứ hiếu , Lục súc tranh công ... Tân văn phải làm Luận để mô tả một cái ǵ đó , tả cảnh , người hay đồ vật ... Thầy dạy , làm một bài văn phải có nhập đề thân bài và kết luận , một thằng bạn tên là Kim mỗi lần làm luận là không bao giờ có đoạn kết , văn nó rất hay thường thường được đọc cho cả lớp nghe mỗi khi b́nh phẩm , nhưng đoạn kết Thầy phải làm dùm , cho nên khi cho điểm lúc nào cũng bị trừ một phần ba rồi từ đó chúng tôi đặt cho nó một cái tên là KIM MỘT PHẦN BA ; Giờ Việt văn là một giờ rất hấp dẩn với chúng tôi , không phải hấp dẩn v́ môn học mà hấp dẫn v́ đoạn kết , ngược lại Kim Một Phần Ba không có đoạn kết v́ không đủ th́ giờ làm , Thầy Quế là người Thầy của đoạn kết của hai giờ Việt Văn . , hai giờ Việt Văn lúc nào Thầy cũng để ra 15 phút cuối , kể chuyện Tàu như Hán Sở Tranh Hùng , Tam Quốc Chí ... , cả lớp im lặng lang tai nghe Thầy kể đến đoạn hấp dẩn hồi họp gay cấn , Tiếng kẻng của Bác Cai trường vang lên , Thầy ôm cặp bước ra khỏi lớp , chúng tôi ngẩn ngơ tiếc rẽ , thế là mong cho chóng đến giờ Việt Văn để c̣n được nghe tiếp , giờ Việt Văn không bao giờ thiếu vắng một tṛ nào , trên bảng điểm danh lúc nào SĨ SỐ : 40 . VẮNG MẶT : 0 HIỆN DIỆN : 40 . bởi v́ chúng tôi mê say Lưu Bang , Hạng Vỏ ,Hàn Tín , Trương Phi , Quan Công , Lưu Bị , Khổng Minh ...
Năm Đệ Thất , chúng tôi là những học sinh ngoan , chăm học và không bao giờ làm phiền Thầy Cô , chưa xuất hiện những CON NGỰA CHƯỚNG SÂN TRƯỜNG , cuộc sống êm a? vô tư trong tiếng giăng bài , những ngày vui chơi đây đó của những dịp đi du ngoạn , cắm trại NON NUOC , SƠN TRÀ , MỸ THỊ , MỸ KHÊ ... trong năm học chỉ lo lắng hai kỳ thi trong lớp là Đệ Nhất va Đệ nhị Lục cá nguyệt , thời gian lững lờ qua , mùa hè thấp thoáng ngoài cửa lớp , trong sân trường , tiếng ve sầu bắt đầu ră rích , những cây Phượng dọc đường Lê Lợi trước cổng trường bắt đầu đỏ rực , Cô Diệm dạy cho bài hát HÈ VỀ của HÙNG LÂN : Trời hồng hồng , nắng trong trong , ngàn phượng rung nắng ngoài sân .Cành mềm mềm gió ru êm bầu trời như bích ngọc qua màu duyên , đàn nhịp nhàng hát vang vang , nhạc hoà thơ đón hè sang . Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ , hè về trong tiếng sáo diều dật dờ , hè về gieo ánh tơ . Bâng khuâng nghe mái chèo khuya sóng thuyền ai biếng trôi ....
Những tập Lưu Bút ngày xanh được thầm th́ trao cho nhau , ghi những t́nh cảm , những kỷ niệm của nhau trong một niên học , có tṛ bạo dạn đưa cho Thầy Cô để xin nhũng ḍng lưu niệm , h́nh như những trang Lưu Bút lúc nào cũng bắt đầu : Hè về , tiếng ve sầu rên rỉ , màu phượng đỏ như máu trong tim, chúng ta sắp sửa chia tay , tạm biệt ban , tạm biệt anh ,tạm biệt chị , tạm biệt mày , tạm biệt em và tạm biệt mái trường thân yêu , tạm biệt thầy cô , có tṛ tạm biệt cả áng mây bay qua cửa lớp ... ôi ! lưu luyến làm sao trước khi chia tay ... đôi khi có vài cánh phượng khô được ép vào trong tập lưu bút để tăng thêm phần nhung nhớ và chắc chắn là lúc bấy giờ chưa có TẠM BIỆT những mối T̀NH HỌC TR̉ bâng quơ , chưa có nước mắt hoà với màu phượng vĩ theo tiếng ve sầu phiêu du vào HẠ .
Đệ thất Phan Châu Trinh của tôi , của những bạn bè năm ấy , vô t́nh ngang qua , vô t́nh đọc bài này có ai c̣n nhớ những ngày thơ ấu xưa .

( Xem tiếp phần [2] ) 

trở lại