Nam Hải: Biển của Nước Nam Nguyễn Thanh Đức |
1. Hai phương Nam, Bắc. Theo Địa
lư, Nam Bắc chỉ 2 vị trí : Phương Nam, Phương
Bắc. Ở Á Đông, Phương Nam c̣n hàm ư vùng
có Mặt Trời nắng ấm, phương của
ánh sáng ph́ nhiêu sung túc. Ngược lại, Phương
Bắc âm u lạnh lẽo khô cằn. Thời xa xưa,
Sông Hoài Tần Lĩnh là đường ranh thiên nhiên
chia 2 vùng, 2 giống dân, với Phương Nam canh nông
lúa nước, và Phương Bắc du mục. Sông Hoài Tần Lĩnh luôn là ranh
giới thiên nhiên giữa Phương Nam người
Tộc Việt, Phương Bắc người
Tộc Hoa. Tuy nhiên, từ thời Hán, sông Dương
Tử bị cưỡng định là ranh giới
giữa Trung Hoa và Bách Việt. Sách vở Trung Hoa
hiện vẫn c̣n dùng chữ Nam Nhân để
chỉ Người Việt trên phần đất nay
thuộc Trung Hoa, và Bắc Nhân để chỉ Người
Hoa. Chữ Bắc Thuộc nêu rơ ư thức thời
phụ thuộc Phương Bắc. Phương
Bắc nầy lại là những nhóm người
hoặc quốc gia thuộc Tộc Việt, chứ không
nhất thiết là người tộc Hoa. Số quân
xâm lấn và chiếm đóng nước ta hầu
hết là dân Việt vùng Hồ Nam, Quảng Tây,
Quảng Đông. Việc phụ thuộc lại c̣n có
nhiều giai đoạn, với nhiều h́nh thái khác
nhau, chứ không nhất thiết là ‘nô lệ
giặc Tàu’. [Đọc
thêm Lược Sử Tộc Việt, do Nguyễn Thanh
Đức, nxb Tinh Hoa Tộc Việt, 2013, tr 25, mục
5.2b; bản đồ tr 24; và Việt Sử Toàn Thư,
do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sàig̣n 1960, tr 109.
- Giặc Nam Hán là quốc gia ở vùng Quảng Đông,
trước năm 917 dl c̣n có quốc hiệu là Đại
Việt. Đọc Việt Nam Sử Lược, do
Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàig̣n
1971, q1, tr 67]. 2.
Nam - Bắc : Việt, Hoa. Khi
nói về quốc gia: Nam quốc, Bắc quốc; Năm 1076 dl, Đức
Lư Thường Kiệt có bài ca chiến thắng,
với câu đầu là : ‘Nam Quốc sơn hà Nam
Đế cư’. 3. Nước Đại
Nam. Ấn ngọc ‘Đại
Nam Thiên Tử Chi Tỷ’, khắc năm 1839 dl,
thời vua Minh Mạng. Ấn ngọc ‘Đại Nam
Hoàng Đế Chi Tỷ’, khắc năm 1844, thời
vua Thiệu Trị. Hai ấn ngọc nầy
dùng đóng trên các văn kiện ban sắc thư cho
người nước ngoài, và khi vua đi xem xét các
địa phương. Ấn ngọc ‘Đại
Nam Thụ Thiên Vĩnh Mệnh Truyền Quốc
Tỷ’, khắc năm 1847. Ấn ngọc nầy dùng
để tế cáo Đại lễ Tế Trời
ở Đàn Nam Giao, hoặc đóng trên những
bản sắc mệnh ban bố cho thiên hạ,
hoặc cho các nước chư hầu, (Thái Lan, Ai
Lao, Chân Lạp/Campuchia). Vua Khải Định có
ấn vàng : ‘Khải Định Đại Nam Hoàng
Đế’ (1916-1925). [Đọc thêm Kim Ngọc
Bảo Tỷ, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà
Nội 2009]. 4.
Nam Hải : Biển của Nước Nam, Nam Quan :
Cửa của Nước Nam. Từ khi dân Việt từ Hồ Đồng
Đ́nh tiến vào vịnh Bắc Phần, tên
Biển Nam, Biển phương Nam, đă trở thành
thông dụng, từ 6000 năm trước. Tộc Hoa
mới thành h́nh 3000 năm nay, và họ đọc thành
Nam Hải. Khi dân Lạc Hồng
tự xưng là Dân Nam, Nước Nam, Đại Nam,
Việt Nam, th́ Biển Nam, Nam Hải, trở thành
tên riêng : Biển của Nước Nam, chứ
không như người Hoa đă đánh lận là
Biển Hoa Nam, và người Âu Mỹ đă hiểu
lầm thành South China Sea, Mer de Chine Méridionale. Cũng vậy, Nam Quan,
ở Lạng Sơn, có nghĩa là Cửa của Nước
Nam, chứ không có nghĩa là cửa ở phía nam
của Trung Quốc. Nguyễn
Thanh Đức 2013.
|