Về tài liệu “Dân tộc Kinh ở Quảng Tây” Trương Nhân Tuấn |
Bài viết này, với những dữ kiện lịch sử[2] lấy từ Trung Tâm Văn Khố Hải Ngoại của Pháp, (Centre des Archives d’Outre-Mer), tại tỉnh Aix-En-Provence, sẽ bàn lại về lịch sử chủ quyền ở các vùng đất (hiện nay thuộc lănh thổ TQ) có người Việt sinh sống từ lâu đời, điển h́nh là khu vực ba đảo Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu Đầu.
Ảnh (Internet): Người Kinh ở "Trung quốc" “Các vùng đất phía bắc Móng Cái” là huyện Giang B́nh, bao gồm mũi Bạch Long Vĩ (trên đó có nhiều xă) cùng các đảo Tham Cát, Sơn Tâm, Mao Sơn và Vạn Vĩ nơi nhiều người Việt sinh sống từ bao nhiêu đời. Hậu quả cuộc phân định biên giới 1887, ngoài huyện Giang B́nh (bao gồm mũi Bạch Long và các đảo trong vịnh Vạn Xuân), Việt Nam c̣n bị mất thêm các vùng đất Tụ Long [6] (phía bắc Hà Giang hiện nay), tổng Đèo Lương (Cao Bằng), một số xă thuộc tổng Kiến Duyên và Bát Trang (Hải Ninh)[7]. Tổng số diện tích có thể lên tới trên 3.000 km². Trương
Nhân Tuấn – Về tài liệu “Dân tộc Kinh
ở Quảng Tây” H́nh
minh họa người gốc Việt ở Trung
Quốc. Nguôn: chụp từ màn h́nh YouTube. Một
đoạn trong bài dịch có tựa đề “Dân
tộc Kinh ở Quảng Tây” của ông Phạm Hoàng
Quân, dẫn lại nguyên văn: “Người
Kinh từ Đồ Sơn, Việt Nam sang Trung Quốc
vào khoảng đời Minh. Khoảng những năm
triều Thanh, người Kinh ở thôn Hà Vĩ [34] có
lập hương ước để làm phép
tắc cho dân trong thôn, trong hương ước
từng minh xác rằng họ đến đây từ
thời Hậu Lê (Đại Việt) niên hiệu
Hồng Thuận năm thứ 3 tức triều Minh
đời vua Vơ Tông niên hiệu Chính Đức năm
thứ 6 (1511), tức cách nay hơn 400 năm [35] .
Người
Kinh ở đây đa số mang họ Lưu, họ
Nguyễn, tổ tiên họ nguyên cư trú vùng Cát Bà,
sau dời đến dùng duyên hải Đồ Sơn,
sống bằng nghề đánh cá.
Có một dịp,
họ đuổi theo đàn cá ở vùng vịnh
Bắc Bộ mà lạc đến đảo Vu Đầu,
nay thuộc thành phố Pḥng Thành, khu tự trị dân
tộc Choang [36] Quảng Tây, thấy làng xóm vắng
vẻ không người ở, lại thấy nơi này
thuận tiện trong việc đánh bắt cá, họ
bèn định cư hẳn mà không về nữa,
đến nay đă qua 16, 17 đời, nếu tính
mỗi đời là 25 năm th́ đến nay đă
hơn 400 năm, đối chiếu với bản hương
ước nói trên th́ thấy rất hợp lư. http://nghiencuulichsu.com/2013/05/30/dan-toc-kinh-o-quang-tay/ Bản
dịch của ông Phạm Hoàng Quân là một phần
(nói về Dân Tộc Kinh) trong “công tŕnh nghiên
cứu” mang tên “Trung Quốc Nam phương dân
tộc sử” của Tiến sĩ Sử học Vương
Văn Quang, Giáo sư chuyên ngành Lịch sử dân
tộc Đại học Vân Nam, Trung Quốc[1]. Đoạn
trích dẫn trên có một số dữ kiện
lịch sử cần phải kiểm chứng lại,
(hay ít ra chúng cần được nh́n lại, so sánh,
đối chiếu lại từ nhiều nguồn
sử liệu khác nhau). Đó
là:
Bài
viết này, với những dữ kiện lịch
sử[2] lấy từ Trung Tâm Văn Khố Hải
Ngoại của Pháp, (Centre des Archives d’Outre-Mer),
tại tỉnh Aix-En-Provence, sẽ bàn lại về
lịch sử chủ quyền ở các vùng đất
(hiện nay thuộc lănh thổ TQ) có người
Việt sinh sống từ lâu đời, điển h́nh
là khu vực ba đảo Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu
Đầu. 1.
Mũi đất Bạch Long Vĩ (cap Paklung) Như
mọi người đều biết, đường
biên giới hiện nay giữa tỉnh Quảng Ninh
của Việt Nam với tỉnh Quảng Tây thuộc
Trung Quốc là sông Bắc Luân (c̣n gọi là sông Ka
Long hay Gia Long). Đó là kết quả của việc
phân định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh
trong thời kỳ 1885-1897, được hai bên VN và
TQ khẳng định lại qua Hiệp ước phân
định Biên giới trên đất liền kư vào
tháng 12 năm 1999. Bên
bờ hữu ngạn sông Ka Long là thị xă Móng Cái
(thuộc tỉnh Quảng Ninh), bờ tả ngạn là
thành phố Đông Hưng của Trung Quốc. Ngày xưa,
người Hoa gọi Đông Hưng là Đông Hưng
Nhai và Móng Cái là Mang Nhai. Nhai có nghĩa là “bờ sông”.
Móng Cái, nguyên thủy tên do người Pháp đặt
(gọi trại đi từ Mang Nhai), thực ra có tên
Việt là Ḥa Lạc[3]. Xét
bản đồ phân định biên giới Pháp-Thanh
1887, từ nay gọi là
bản đồ
1. Bản
đồ này ghi chú bằng tiếng Pháp và tiếng Hán,
là bản đồ gốc được hai bên Pháp-Thanh
sử dụng để phân định biên giới. Bản
đồ 1 Trên
bản đồ 1 có một mũi đất mang tên
(bằng chữ Hán) Bạch Long Vĩ. Người Pháp
thời đó gọi là “Cap Paklung”. Đây là
một doi đất ở về phía bắc Móng Cái,
nhô ra biển theo hướng nam, sau đó cong lại
về phía tây nam, tương tự mũi két. Theo các
nhà địa lư th́ đây là phần chót của
rặng núi Thập Vạn Đại Sơn. Doi đất
bao quanh lấy biển, tạo thành vịnh, tên
Vạn Xuân. Trên doi đất này có một số làng
mạc trước kia chỉ toàn người VN sinh
sống. Bản
đồ 2 Trong
vịnh Vạn Xuân, (bản đồ 1), hay các
bản đồ do Sở Địa Dư Đông dương
(SGI) ấn hành trước năm 1948 (bản đồ
2), từ bờ ra đến giữa vịnh có
bốn đảo, kế cận nhau, có ghi các tên
(chữ Hán): Tham Cát Thôn, Sơn Tâm, Mao Sơn và
Vạn Vĩ. Đó là các đảo mà trong tài
liệu (của Vương Văn Quang) ghi qua các tên
(khác) là Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu Đầu. Theo các tài
liệu đă dẫn (ghi chú 2), vịnh Vạn Xuân là
một vịnh cạn, có nhiều băi cát, có cây tràm,
đước mọc. Bản
đồ Google Xét
bản đồ Google, trong khung màu đỏ, bốn
đảo này hiện nay hầu như đă dính
liền lại với nhau. Phù sa, cát bồi đắp
nên các đảo nối với đất liền
trở thành bán đảo. Bán đảo này TQ đặt
tên là An Nam Thôn, c̣n gọi là Kinh Đảo, ở
tọa độ (kinh độ 108°08’ Đông, vĩ
độ 21°32’5 Bắc). Thôn thuộc huyện Giang B́nh,
thành phố Đông Hưng, khu tự trị Choang
tỉnh Quảng Tây.
Dân số ở đây đều
có gốc Việt khoảng trên 20.000 người,
được Trung Quốc gọi là tộc Kinh
(v́
thế gọi nơi này là Kinh Đảo), một
trong số 55 chủng tộc của Trung Quốc. Toàn
khu vực, xưa cũng như hiện nay, thuộc
huyện mang tên Giang B́nh, ngày trước trực
thuộc tỉnh Quảng Đông chứ không phải
tỉnh Quảng Tây.
Tỉnh Quảng Tây ngày trước
không giáp biển. 2.
Biên giới khu vực Móng Cái theo công ước Pháp-Thanh
1887 Theo
tài liệu của đô đốc Rieunier, chỉ huy
hải quân Pháp gởi Toàn quyền Pháp năm 1886
(hồ sơ đính kèm bản đồ 3) về t́nh
h́nh quân Trung hoa chiếm đóng các địa điểm
trong khu vực huyện Giang B́nh. Sau khi chiếm đóng
các địa điểm thuộc khu vực này (các
ô vuông màu đỏ trên bản đồ 3) tháng 7 năm
1886,
quân Trung Hoa khủng bố dân VN sinh sống
tại đây và đuổi những người dân
này đi nơi khác. Bản
đồ 3 Hồ
sơ cũng ghi chú ư kiến của linh mục Grand
Pièrre,
nhà truyền giáo ở Trúc Sơn. (Trúc Sơn ở phía
bắc Móng Cái, bên kia sông Bắc Luân, nay thuộc TQ).
Ông này kể rằng những người dân Việt
này do bị quân Hoa truy bức nên phải trốn ra
sống ở các đảo trong vịnh. Cũng
theo ư kiến của nhà truyền giáo Grand Pièrre, năm
1885,
khu vực huyện Giang B́nh gồm có nhiều xă
toàn người Việt, không có một người
Hoa nào sinh sống.
Khu vực ở phía ngoài huyện
giang B́nh, dân Nùng (tức Choang) sống đa số.
Khi quân Hoa đến đây chiếm đóng họ
đuổi những người dân Choang này đi (lên
núi), lấy đất cho người Hoa đến
ở, tương tự như số phận người
Việt. Thành phố Đông Hưng trước 1885 chưa
hiện hữu. Chỉ sau chiến tranh với Pháp
1885, người Hoa dựng ở địa điểm
Đông Hưng (hiện nay) một đồn lính.
Dầu vậy, tại Móng Cái (Mang Nhai), chợ búa
ở đây đông đảo các đảng cướp
biển người Hoa. Tài
liệu khác trong hồ sơ phân định biên
giới cho biết, trong thời kỳ 1886-1887,
những người dân VN nào ra làm chứng, trả
lời các cuộc điều tra của các ủy viên
Pháp phụ trách phân định biên giới, đều
bị quân Trung Hoa trừng phạt nặng nề,
hoặc chém đầu. Các câu hỏi của các
ủy viên phân định biên giới Pháp tựu
trung ở việc: những người sống trên
đất này đóng thuế cho ai? Theo
quan điểm quốc tế công pháp thời đó
(và bây giờ cũng vậy), để chứng minh
một vùng đất thuộc quốc gia nào th́
vấn đề đóng thuế của người dân
là yếu tố quyết định.
Dân đóng
thuế cho bên nào th́ đất đó thuộc
(chủ quyền) bên đó. Tài
liệu sau đây của ông Dillon, chủ tịch
Ủy Ban Phân Định Biên Giới, tŕnh bày trong
hồ sơ gởi ông Constans, Đặc Sứ Toàn
Quyền Pháp tại Bắc Kinh ngày 23 Mars 1887, (Constans là
người phụ trách thuơng lượng với
Trung Hoa về Công ước phân định biên
giới 1887). Tài
liệu có các điểm quan trọng sau đây: a)
Theo kết quả nghiên cứu địa chí của
Trung Hoa, lănh thổ An Nam mở rộng đến Long
Môn Ta
thấy ngay trên bản đồ Google rằng Long Môn
ở phía bắc Pḥng Thành. Vấn đề này
sẽ đề cập ở phần dưới: biên
giới VN-TQ theo sử liệu của TQ. Điều này
chứng minh huyện Giang B́nh, doi đất Bạch
Long Vĩ, các đảo Tham Cát Thôn, Sơn Tâm, Mao Sơn
và Vạn Vĩ trong vịnh Vạn Xuân đều
thuộc An Nam. Tài
liệu của ông Dillon viết rằng khoảng
từ 20 năm nay, bọn cướp biển người
Tàu đă chiếm mũi Bạch Long cũng như Long
Môn để làm sào huyệt. Theo ông, đó là lư do
duy nhất mà vùng đất này đă ra ngoài tầm
kiểm soát của triều đ́nh An Nam. Tài liệu
cũng cho biết, trên thực địa, đường
biên giới thực sự được cụ
thể hoá qua những đồn canh (cửa ải)
của Trung Hoa. Đường nối các công sự,
cửa ải đă chừa ra vùng Giang B́nh (bao gồm
Packlung – Bạch Long). Bằng
chứng khác cũng rất quan trọng: huyện Giang
B́nh đă được triều đ́nh Huế
bổ một vị quan cùng gia đ́nh về quản
trị, thâu thuế dân chúng từ mấy chục năm
trước. Tức
là, trên quan điểm luật quốc tế, vùng lănh
thổ này thuộc về VN. Tài
liệu viết, người hậu duệ cuối cùng
của viên quan VN đă bị quân cướp Tàu
giết, thân xác bị chặt làm nhiều khúc qua
biến cố tháng 11 năm 1886. Biến cố nầy
làm thiệt mạng một số quân đội Pháp
và ông Haitce, nhân viên của Ủy Ban Phân Định Biên
Giới. Lư do bị giết v́ ông đă “thực thà”
khai với các ủy viên Pháp rằng đất đó
(Giang B́nh) là của VN. b)
Là những nhân chứng sống, những người
dân địa phương, người Hoa cũng như
người Việt Những
người dân này đă hướng dẫn ông Bohin,
vào tháng 11 năm 1886, và đội quân của Ông
Dugenne vào tháng 1 năm 1887, giúp các ông này làm công tác
trắc địa, phân định biên giới.
Kết quả đo đạc phù hợp với
những các cuộc điều tra trong dân chúng
thuộc vùng Móng Cái. V́ cuộc điều tra này, như
tài liệu của các nhà truyền giáo đă viết
trên, nhiều người dân VN bị quân Hoa chém
đầu. c)
Những chi tiết từ sổ bạ điền
địa từ các huyện, phủ trong vùng d)
Bản đồ chính thức của An Nam e)
Giấy chứng nhận của nha Kinh Lược
từ triều đ́nh Huế[4] Tức
là, theo các tài liệu đă dẫn, khu vực
huyện Giang B́nh, bao gồm mũi đất mang tên
Bạch Long Vĩ, các đảo trong vịnh Vạn Xuân…
thuộc chủ quyền của VN. Hai
chi tiết khác cần làm sáng tỏ thêm: theo “công tŕnh
nghiên cứu” của TS Vương Văn Quang th́ dân
chúng ở các đảo “Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu
Đầu đến từ Đồ Sơn, VN”. Đồ
Sơn là một địa điểm tắm biển
do người Pháp thành lập cuối thế kỷ
19, tức là chỉ mới đây, tên là Doson. Như
vậy những người Việt này không thể
xuất thân từ “Đồ Sơn” rồi ! Mặt
khác, lư do mà nhóm dân này ra các đảo sinh sống,
như các tài liệu đă dẫn, là để
trốn sự khủng bố của quân Hoa, chứ không
phải là “đuổi theo đàn cá ở vùng
vịnh Bắc Bộ mà lạc đến đảo
Vu Đầu” (sic !) Câu
hỏi đặt ra, v́ sao người Pháp đă
chứng minh được đất (Giang B́nh)
thuộc chủ quyền của Việt Nam, bằng
sử liệu của chính người Hoa, cũng như
những điều tra trên thực địa, là
những bằng chứng không thể phản biện,
tại sao bây giờ nó lại thuộc về TQ? Câu
hỏi khác, lúc đó quân Pháp mạnh mẽ, đối
diện với một nước Trung Hoa đang
rệu ră. Ở thế mạnh, Pháp muốn ép TQ
thế nào lại không được? Câu
trả lời là do sự trao đổi quyền
lợi giữa Pháp và Thanh triều. Pháp nhượng
các vùng lănh thổ của VN để đổi
lấy quyền lợi kinh tế[5]. Phần tóm
tắt “hiệp ước Thiên Tân 1885” dưới
đây trả lời câu hỏi này. Số
phận vùng đất Giang B́nh được
giải quyết ở Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm
1887, cũng là nội dung Công Ước 1887. Nguyên văn
tiếng Pháp, như sau: “Au
Kouang-tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés à
l’est et au nord-est de Monkaï, au delà de la frontière telle
qu’elle a été fixée par la Commission de la délimitation, sont
attribués à la Chine.” Tạm
dịch sang tiếng Việt: Tại Quảng Đông,
các bên đồng thuận rằng các điểm
tranh chấp ở phía đông bắc của Móng Cái,
ở phía bên kia đường biên giới đă
được Ủy Ban Phân Định xác định,
th́ chúng được giao cho Trung Hoa. Cực
kỳ đơn giản, “các vùng đất tranh
chấp ở phía bắc Móng Cái được giao
cho Trung Hoa”. “Các
vùng đất phía bắc Móng Cái” là huyện Giang B́nh,
bao gồm mũi Bạch Long Vĩ (trên đó có
nhiều xă) cùng các đảo Tham Cát, Sơn Tâm, Mao Sơn
và Vạn Vĩ nơi nhiều người Việt
sinh sống từ bao nhiêu đời. Hậu
quả cuộc phân định biên giới 1887, ngoài
huyện Giang B́nh (bao gồm mũi Bạch Long và các
đảo trong vịnh Vạn Xuân), Việt Nam c̣n
bị mất thêm các vùng đất Tụ Long[6] (phía
bắc Hà Giang hiện nay), tổng Đèo Lương
(Cao Bằng), một số xă thuộc tổng Kiến
Duyên và Bát Trang (Hải Ninh)[7]. Tổng số diện
tích có thể lên tới trên 3.000 km². Một
số dữ kiện về phân định biên
giới 1887, mọi người có thể tham khảo
thêm từ tập “Le Tour du Monde” năm 1886-1887, Sur
les Frontière du Tonkin của Dr Paul Néis. Ông Néis là một
ủy viên thuộc Ủy ban Pháp phân định Biên
giới 1887. 3.
Hậu quả Hiệp Ước Thiên Tân 1885 lên biên
giới Việt Nam Hiệp
ước ḥa b́nh, hữu nghị và thương
mại “traité de paix, d’amitié et de commerce”, được
kư kết tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885
giữa Lư Hồng Chương và ông Patenôtre,
được quốc hội Pháp thông qua ngày 20 tháng
11 năm 1885. Hiệp ước gồm có 3 phần, như
tên gọi hiệp ước: ḥa b́nh, hữu nghị
và thuơng mại nhưng trọng tâm là thuơng
mại. Điều 3 của Hiệp Ước dự trù
việc xác định lại đường biên
giới Việt Trung. Các điều 5 và 6 dự trù
một công ước về thương măi giữa
Pháp và Trung Hoa. Công
Ước về thương măi được kư ngày
25 tháng 4 năm 1886 do ông Cogordan thương lượng
nhưng kết quả không đúng như mong đợi
của Pháp. Để sửa chữa, một công ước
bổ túc cho công ước thương măi “Convention
additionnelle de Commerce” được ông Constans thương
lượng cùng lúc với công ước về biên
giới và cùng kư ngày 26 tháng 6 năm 1887. Công
ước về thuơng măi được kư ngày 25
tháng 4 năm 1886 nhưng bị đánh giá bất
lợi cho Pháp. Bởi v́, nguyên văn công ước
là tất cả những ǵ mà Trung Hoa đ̣i hỏi
trước đó đă được ghi lại
trong bản tường tŕnh của Cogordan. Trong khi
đó những ǵ mà Pháp đ̣i hỏi đều không
được. Việc
chinh phục Bắc Kỳ, từ thời Françis Garnier
(1874) đến Henri Rivière (1883) cho đến chiến
tranh Pháp-Trung 1884-1885 chỉ có mục tiêu là xây
dựng địa bàn và mở đường thông
thương với các tỉnh phía Nam Trung Hoa để
buôn bán. Hiệp ước thương mại của
Cogordan thực tế mở cửa cho Trung Hoa vào
Việt Nam nhưng đóng mọi cửa để Pháp
không thể vào Hoa Nam. Đây là một thất bại
lớn v́ tất cả máu xương của lính
viễn chinh cũng như tiền bạc của dân Pháp
đều xem như bỏ. Để
sửa chữa, ông Constans được cử làm
bộ trưởng sang Thiên Tân để kư kết công
ước phân định biên giới nhưng kèm theo
một phụ ước về thương măi. Bản
tường tŕnh của dân biểu Dureau de Vaulcomte, liên
quan đến việc nghiên cứu công ước thương
măi 25 tháng 4 năm 1886 và phụ ước 26 tháng 6 năm
1887, có đề cập đến: “Et
ainsi la question de frontière se trouva liée à la question commerciale
– Và v́ thế vấn đề biên giới
được gắn liền với vần đề
thương măi”. “Le gouvernement a pensé que les concessions
faites à la Chine, en ce qui concerne les territoires, peuvent être
compensées par les avantages qui résultent de la Convention commerciale
additionnelle au Traité du 25 Avril 1886 – Chính phủ đă
nghĩ rằng những nhượng bộ đất
đai cho Trung Hoa có thể được đền
bồi bằng những ưu đăi (về kinh
tế) do Công Ước thương măi bổ sung
Hiệp Ước 25 tháng 4 năm 1886.” Như
thế, rơ ràng, chính nhà nước Pháp đă chủ
trương nhượng đất của Việt Nam
để có được những ưu đăi
về thương măi với Trung Hoa ! Trên
quan điểm công pháp quốc tế, chiếu theo
phần “dol”, tức sự lường gạt trong
các hiệp ước, công ước phân định
biên giới 1887 có thể không có hiệu lực. 4.
Đường biên giới lịch sử theo sử
liệu của Việt Nam và Trung Quốc Theo
Đại Thanh Nhứt Thống Chí[8] (DTNTC) 大清一統志,
dẫn từ địa chí thời Minh, biên giới
khu vực này được xác định bằng
ngọn núi Phân Mao, như sau: Phục
Ba tướng quân Mă Viện đă dựng dưới
chân ngọn Phân Mao một trụ đồng vào năm
43 trước TC để đánh dấu biên giới
hai nước Việt-Trung. Từ chân ngọn núi này,
vào năm 74, quân Hán vượt biên giới, qua châu
Tiên Yên, vào chiếm Việt Nam[9]. Sử
sách của VN, tập Đại Nam Nhứt Thống Chí
và Lịch triều Hiến Chương Loại Chí
(phần Dư Địa Chí) của Phan Huy Chú,
dẫn từ sách Dư Địa Kỳ Thắng
của Trung Hoa cũng viết tương tự: Ranh
giới Nam và Bắc thuộc vùng biên giới trấn
An Quảng xưa có núi Phân Mao[10]. Như
thế biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
đă được xác định bằng ngọn núi
Phân Mao. Núi này chính xác ở đâu? Theo
Đại Thanh Nhứt Thống Chí: Phân
Mao Lĩnh 分茅嶺
ở
động Cổ Sâm, về phía Tây huyện
đường Khâm Châu, cách 300 lư và ở trên
đường biên giới với Việt Nam… Bộ
địa chí thời Minh, Gia Khánh Trùng Tu Nhứt
Thống Chí, cũng mô tả biên giới hai bên trong
khu vực với nội dung tương tự. Theo Dư
Địa Chí của Nguyễn Trăi: núi Phân Mao ở
về phía tây lộ Hải Đông, cách khoảng 300
dặm. Nơi đây có kim tiêu, quen gọi là cột
đồng Mă Viện. Tương
truyền trên đỉnh núi Phân Mao có thứ cỏ
tranh, do ảnh hưởng của khí hậu và địa
thế, ngọn cỏ tranh ngả theo hai hướng
Bắc và Nam cho nên mới có tên gọi là núi Phân
Mao, nghĩa là núi có thứ cỏ chia ra làm hai hướng. Đại
Việt Sử Kư Toàn thư cũng ghi: Cột đồng
Đông Hán do Mă Viện dựng ở động
Cổ Lâu thuộc Châu Khâm.[11] Như
thế, sử liệu Trung Quốc và Việt Nam cùng
thống nhứt ở hai điểm: 1/ biên giới
hai nước là núi Phân Mao, nơi có trụ đồng
Mă Viện. 2/ vị trí của núi Phân Mao: núi Phân Mao
thuộc động Cổ Sâm, huyện Khâm Châu. Khâm
Châu hiện nay trên bản đồ ghi là Quizhou, cách
Móng Cái khoảng 120km về hướng đông
bắc. Đại
Thanh Nhứt Thống Chí mô tả địa lư Khâm Châu
như sau: Huyện
Khâm Châu 嶔州,
thuộc phủ Liêm Châu 廉州俯.
Biên giới Việt Nam cách huyện đường
300 dặm theo hướng Tây và cách 240 dặm theo hướng
Tây Nam. Dân chúng sống ở Liêm Châu gồm có dân
tộc Dao 搖
và dân
tộc Choang (Tchoang)[12]. Theo
bản đồ các nhà truyền giáo Jésuites, tọa
độ Khâm Châu: vĩ độ 21° 54’ và kinh
độ 106° 07’ 45’’, cách phủ Liêm Châu 180
dặm về phía Tây thiên Bắc.[13] Huyện
Khâm Châu có các rặng núi ở kế cận (hay
ở trên vùng) biên giới Việt-Trung: Rặng
La Phù Sơn 羅桴山,
cách huyện Khâm Châu 65 đến 95 dặm theo hướng
tây bắc. Rặng núi Thập Vạn Sơn 十萬山,
cách huyện Khâm Châu 200 dặm về phía tây bắc.
Rặng núi này là ranh giới giữa huyện Khâm Châu
với châu Thiên Tư. Châu Thiên Tư cách dải núi
nầy 80 dặm. Có đến cả trăm con
suối bắt nguồn từ Thập Vạn Sơn (là
phần nối dài của rặng Ba Dương Lĩnh
筢羊嶺).
Dải núi Ba Dương Lĩnh giáp châu Tư Lăng 陵州
ở phía
Tây, dải núi này có tới hơn 400 đỉnh, cao
thấp chập chùng. Sông Ná Lăng (Ná Lăng Giang 那浪江),
cũng như sông Minh Giang 明江
th́ cùng
bắt nguồn tại đây[14]. Dải
núi Vương Quang Sơn 王光山,
cách huyện đường Khâm Châu 170 dặm về
hướng tây bắc, chắn ngang rặng Thập
Vạn Sơn[15] Ngọn
Mặc Mạt Sơn 墨抹山
cách Khâm
Châu 100 dặm về hướng Tây Nam. Sông Phụng
Hoàng bắt nguồn tại đây[16]. Để
xác định “vùng biên giới” giữa hai nước,
điều cần thiết là xác định lại
vị trí các dảy, hay các ngọn núi đă dẫn
từ các tài liệu trên. Ngoài
ra, xưa nay, biên giới hai bên Việt-Trung luôn
được xác định bằng các cửa
ải và những con sông. Theo Đại Thanh Nhứt
Thống chí, Huyện Khâm Châu có các của ải: Ải
Ná Tô 那蘇隘
(hay Na Tô
Ải), ở phía Tây Nam huyện Khâm Châu. Ải
Nhẫm Quân 稔均隘
, cách
ải Ná Tô 70 dặm về hướng Đông Nam. Ải
Ná Long 那隆隘
(hay Na Long
Ải), cách ải Ná Tô trên 10 dặm về phía Đông. Cả
ba ải này đều thông thương sang Việt
Nam[17]. Huyện
Khâm Châu có các con sông, suối ở kế cận hay
ở trên đường biên giới: Sông
Thiếp Lăng (Thiếp Lăng Giang 貼朗江),
cách Khâm Châu 240 dặm, chảy theo đường biên
giới Việt Nam[18]. Theo Đại Thanh Hội Điển
Đồ (DTHHD), quyển 122, tờ thứ 26, sông nầy
bắt nguồn từ những ngọn núi về phía
Tây Bắc huyện Khâm Châu. Kết
luận lại, hồ sơ của ông Dillon đă
viết đúng: biên giới VN và TQ, theo địa chí
Trung Hoa, th́ ở Long Môn. 5.
Biên giới khu vực theo công ước 1887 Biên
bản phân định biên giới ngày 29 tháng 3 năm
1887 nguyên văn tiếng Pháp, tạm dịch sang
tiếng Việt như sau: “Ủy
ban phân định biên giới công nhận rằng
từ Trúc Sơn 竹山,
thuộc Trung Hoa, đường biên giới theo ḍng sông,
hướng Đông sang Tây, cho đến Móng Cái – Đông
Hưng 東興.
Đường trung tuyến của ḍng sông được
dùng làm ranh giới và chia các khu vực La Phù Động
羅浮峒,
Đông Hưng 東興
v.v..
thuộc Trung-Hoa với các khu vực Ngũ Sĩ 伍仕,
Móng Cái v.v… thuộc An Nam. Từ
Móng Cái – Đông Hưng đến Bắc Thị 北市
– Gia Long 加隆:
đường biên giới khá quanh co, có hướng
chung Bắc đến Bắc Tây Bắc và theo trung
tuyến của ḍng sông, phân chia những vùng Na Chi 那芝,
Ka Long v.v… thuộc về Trung Hoa những vùng Thác Lănh
托嶺,
Nam Lư 南里,
Bắc Thị v.v… thuộc An Nam. Từ
Bắc Thị – Gia Long đường biên giới
theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây
ngạn của sông Bắc Thị 北市江,
có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là
561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí
đường biên giới rời sông, theo đường
thẳng trực tiếp để đến điểm
cách Động Trung 峝中村
3 lí
về hướng Bắc, tức điểm
được đánh dấu A (甲)
trên bản đồ số 1. Đường biên
giới chia cho Trung Hoa các vùng Lănh Ḥa 嶺懷,
Phi Lao 披勞,
Bản Hưng 板興
v.v… và
một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺,
núi này ở phía Đông Nam của Bản Hưng 板興
và dựa
lên đường biên giới. Các vùng Ná Dương
那陽,
Động Trung 峝中
và
những nơi khác th́ thuộc về An Nam. Từ
điểm A, đường biên giới đi về
hướng ải Bắc Cương 北崗隘
(Bắc Cương
Ải), núi Phái Thiên 派遷山
(Phái Thiên
Sơn), cách làng B́nh Liêu 平寮村
của An
Nam khoảng 30 lí theo đường thẳng. Đường
biên giới chia các cửa biên giới Ná Quang 那光卡
(Ná Quang
Ca), Bản Thôn 板吞卡
(Bản Thôn
Ca) v.v… cho Trung Hoa và các vùng Na Dương 那陽,
xă Tŕnh Tường 呈祥社
v.v… cho
An-Nam.” Trong công ước 1887 phía người Hoa chấp nhận đường biên giới đi qua núi Phân Mao. Nhưng đến khi ra phân giới trên thực địa, phía người Hoa lập mưu, chỉ vào một trái núi ở Động Trung, tạo dựng đền thờ Mă Viện giả, cho rằng đó là núi Phân Mao. Đường biên giới bị dời xuống phía nam đến 40km. Ông Chiniac De Labastide, chủ tịch ủy ban phân giới 1890-1892 đề nghị Toàn Quyền Pháp kư lại công ước nhưng không thành công. Việt Nam bị mất đất rất nhiều ở vùng này (khoảng 4.000km²). Nguồn:
Về
tài liệu “Dân tộc Kinh ở Quảng Tây”. Trương
Nhân Tuấn, Facebook, January 4, 2015. [1]
Xem giới thiệu của dịch giả. [4] Điều đáng tiếc là bộ địa chí Đồng Khánh vừa xuất bản lại không ghi các chi tiết này. Thậm chí Ḥa Lạc (tức Móng Cái) bị tập sử này ghi là “xiêu tán”, tương tự nhiều địa danh khác ! Có thể các năm đó phố Ḥa Lạc chỉ có dân Hoa sinh sống (tương tự Kỳ Lừa, Lạng Sơn) nhưng không thể ghi sơ suất như thế được. Xiêu tán là không c̣n nữa. Xem ra tài liệu do người Pháp sưu tập về biên giới c̣n đầy đủ hơn bất kỳ bộ địa chí nào của Việt Nam. [5] Xem thêm bài viết của cùng tác giả: http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/11/viet-nam-co-mat-at-mat-bien-qua-hai.html [6] Xem thêm bài viết của cùng tác giả https://www.facebook.com/ [7]
Xem thêm bài viết của cùng tác giả http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/02/bien-gioi-viet-trung-vung-quang-ong-hai.html
|