GỐC
MIÊU VÀ DẤU TÍCH Chương I |
Chương I GỐC MIÊU VÀ DẤU TÍCH I/1.- VĂN HÓA
MỒ CÔI Giải
thích hai chữ văn hóa, tự điển Lê Văn
Đức và nhóm Lê Ngọc Trụ viết: “Văn hóa là
mọi sự cần dùng về đời sống có
tổ chức của một dân tộc như : kinh
tế, pháp lư, mỹ thuật, văn chương
v.v…” Theo
Bs. Nguyễn Thị Thanh trong “Văn hóa Tiền
sử và Sơ sử Việt Nam” th́ “văn hóa là
sản phẩm tinh thần và vật chất tốt
đẹp, phát xuất từ những suy tư
của trí tuệ, của lương tri, lương tâm,
sự thông minh, nghị lực cùng sự khéo léo tay,
chân, cơ thể của con người. Một nước
giàu thịnh, có văn hóa vật chất, khoa học
kỹ thuật tiến bộ, chưa hẳn là
một nước có văn hóa cao toàn hảo, nếu
họ không có phần văn hóa tinh thần theo đúng
với lương tâm con người. V́ thế
một nước nghèo yếu, kém kỹ thuật, nhưng
có một nền văn hóa tinh thần theo đúng lương
tâm con người muôn thuở, th́ họ vẫn là
một nước có văn hóa cao. V́ phần tinh
thần bao giờ cũng cao quí hơn phần vật
chất. Cũng thế, người khoa bảng cao,
khả năng tài chánh dồi dào, chưa phải là
người có văn hóa hơn người ít
học, nghèo nhưng có tư cách và nhân phẩm. Văn
hóa tuy bao la phức tạp, nhưng thật ra nó
rất rơ ràng đơn giản. V́ thế, tùy suy tư
của trí tuệ, tùy hành động của cá nhân,
tập thể hay dân tộc mà người ta đánh
giá văn hóa của họ cao hay không”. Do
ở điều kiện kinh tế, luân lư, đạo
đức, truyền thống và tổ chức xă
hội của mỗi dân tộc mà xă hội loài người
thời cổ phát sinh hai mô thức văn hóa chính. Một
là văn hóa du mục, phát sinh từ
những dân tộc chuyên về chăn nuôi, họ không
ở một chỗ mà thường xuyên di chuyển
theo đàn thú.
Cai trị xă hội bằng cường lực…
Điển h́nh là các dân tộc ở Trung Đông, Âu
châu cổ, Tây Bắc Á… Hai
là văn hóa nông nghiệp, phát sinh từ
những dân tộc định cư một chỗ,
sống bám vào ruộng đất. Chỉ đạo
xă hội là minh triết hoặc tôn giáo. Điển
h́nh là các dân tộc ở vùng Lưỡng Hà, vùng châu
thổ sông Nil, sông Hằng và nhất là vùng Đông
Nam Á lục địa với 3
ḍng sông lớn: Hoàng
Hà, Trường
Giang (Dương Tử) và Hồng Hà.
Một điều rất lư thú là những nền văn
hóa nông nghiệp này hầu như cùng
xuất hiện trong khoảng thời gian từ 8 đến
10 ngàn năm về trước, cùng nằm trên
những vĩ độ
20 đến 30 Bắc vĩ tuyến và lập cư
lâu đời trên các châu thổ của những con sông
lớn. Theo
thời gian, có những nền văn hóa cổ đă
đi vào dĩ văng như văn hóa Lưỡng Hà (Mésopotamie),
văn hóa Babilon, văn hóa Ai Cập, Hi Lạp, La mă,
Maya, Incas (Trung Mỹ), Angkorwat (Cambodia cổ), Chiêm Thành
và Phù Nam (vùng Hậu Giang cổ).v.v… Có
những nền văn hóa đang chập chờn như
văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Việt
Nam…
Cũng có nhiều nền văn hóa đang được
cố gắng hồi sinh trở lại như văn hóa
Do Thái, văn hóa Hồi giáo của các nước
ở Trung Đông và một số ở Đông Á, hay
cố t́nh hủy diệt cả một nền văn
hóa như Trung cộng đang làm ở Tây Tạng,
Khờ Me đỏ đă làm ở Cambodia… Ngày
nay, chúng ta đang sống trong quỷ đạo văn
hoá Tây phương. Nền văn hóa này được
kiến tạo từ triết lư nhân bản suy lư
của các triết gia Hi Lạp cổ Socrate, Platon,
Antisthène, Aristote, Diogènes… khoảng 500 tr. CN. Ở Âu
châu, vào thế kỷ 17, 18 sau CN, triết lư nhân
bản này được các triết gia châu Âu làm
sống lại, người ta gọi là
thời kỳ Phục hưng. Nhờ áp dụng
triết lư nhân bản suy lư, Tây phương đă dùng
lư luận và toán học thúc đẩy khoa học
kỹ thuật vươn lên mỗi ngày một
tiến bộ. Từ lư luận, Tây phương
dần dần xóa bỏ chế độ quân chủ
chuyên chế, đưa nhân loại đi vào thể
chế cộng ḥa, dân chủ, tự do, pháp trị
dựa trên nền tảng nhân quyền… đời
sống loài người trở nên sung túc và kiến
thức con người được mở rộng hơn
xưa rất nhiều. Cuối
cùng, có một nền văn hóa mà chúng tôi muốn
đề cập trong tài liệu này, đó là nền
văn hóa mà triết gia Lương Kim Định
đă xót xa đặt cho cái tên: văn hóa mồ côi! Gọi
là mồ côi bởi v́ cho đến nay, nền văn
hóa kỳ diệu này vẫn tồn tại, nhưng
hầu như chỉ có những ngưỡi hằng
quan tâm đến cổ sử và văn hóa Việt
cổ mới trăn trở, bỏ công tham gia nghiên
cứu mà thôi. Về phía độc giả, đa
số lắng nghe do tin vào giá trị rộng lớn
của những tài liệu nghiên cứu có tầm vóc
quốc tế rất cao của nhiều khoa học gia
các ngành như: khảo cổ, khảo tiền sử
và thượng cổ sử, nhân chủng học, ngôn
ngữ học, văn hóa truyền thống, nhân
thoại, chỉ số sọ… Tuy
nhiên cũng không thiếu những người c̣n nghi
ngờ hoặc vài cây bút vốn mang nhiều mặc
cảm thân phận nhược tiểu vẫn
tiếp tục đưa ra những ư kiến xuất
phát từ môt số học giả Pháp trong thời
kỳ thực dân. Những học giả người
Pháp này, không phải là tất cả, đă làm
việc theo một nguyên tắc có hậu ư tiêu
diệt niềm tự hào dân tộc Việt bằng cách
đưa ra những lập luận: “Người
Việt Nam ngày nay vốn là con cháu của những di
dân chạy loạn diệt chủng phương
Bắc. Nếu họ không lệ thuộc dân tộc này
th́ cũng làm tôi dân tộc khác. Dân tộc Việt
vay mượn ngôn ngữ của Trung Hoa, của
Khờ Me, của Miến Điện, Mă Lai, Nam Dương…
Đời đời trong ḍng máu dân Việt mang
truyền thống chia rẽ của tổ tiên .v.v…” Quả
nhiên, việc làm đầy thiên kiến, lừa
dối này của họ đă để lại không
ít hậu quả tai hại dù dân Việt đă thoát
ra khỏi xiềng xích đế quốc Pháp đă hơn
nửa thế kỷ. Nền
văn hóa mồ côi này nằm xen kẽ, lẫn
lộn trong một nền văn minh khác ít nhất cũng
đă hai ngàn năm trăm năm rồi (giai đoạn
sau Khổng Tử). Nó mang tên họ khác và buồn
thay, tất cả mọi người trên thế
giới, kể cả con cháu của những tổ tiên
hiền triết đă khai sinh ra nó đều tin
rằng, nó là của Trung Hoa, của Khổng,
Mạnh, Lăo, Trang… Nhiều ngàn năm rồi, ai cũng
nói như vậy, cho nên ngày nay hễ ai nói khác đi
th́ lập tức kẻ ấy bị cười vào
mặt: Con nhái muốn đẻ ra con ḅ, yêu nước
mù quáng!… Nhưng biết mà nói không được
th́ thao thức, đau ḷng v́ thấy ḿnh vừa có
lỗi với tổ tiên vừa làm cho dân tộc
mất đi một kho tàng tư tưởng cực
kỳ quư giá có giá trị trùm lấp. Tôi
viết cụm từ có giá trị trùm lấp,
bởi v́ đây là một minh triết có một không
hai của nhân loại mà tôi xin mượn những công
tŕnh nghiên cứu của các người đi trước
như Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, B́nh Nguyên
Lộc, Lương Kim Định, Phạm Văn Sơn,
Hoàng Văn Chí, Phạm Cao Dương, Đinh Khang
Hoạt, Nguyễn Xuân Quang, Heidegger, Keightley, Wilhelm G.
Solheim II, David N, Max Scheller và rất nhiều người
nữa… để làm nền tảng cho những
lập luận và gợi ư một sự phối
hợp giữa văn minh Việt cổ và văn minh Tây
phương trong việc xây dựng lại quê hương
thân yêu của chúng ta. Đă
đến lúc người Việt cần mở
rộng gia phả tổ tiên, cẩn trọng và đem
hết tâm t́nh t́m lại tông tích nguồn cội, văn
hóa cha ông để biết ḿnh con cháu nhà ai? Tại
sao thiên hạ quan tâm đặc biệt đến dân
tộc ḿnh, sử nước ḿnh, nhất là thời
tiền sử? Những thập niên hậu bán thế
kỷ 20, sau khi Việt Nam thoát khỏi sự đô
hộ và phong tỏa văn hóa của thực dân Pháp
th́ các sử gia, triết gia, học giả, khoa
học khảo cổ… Việt Nam và thế giới
nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. Họ đi sâu
vào các lănh vực tiền sử và sơ sử
Việt Nam và Trung Hoa, họ say sưa đề
cập tới nền văn hóa Động Đ́nh* cách
đây khoảng 9.000 năm đến 3000 năm. *
Động Đ́nh : Một địa
danh cổ được nói đến trong Thượng
cổ sử Việt Nam: Năm 2.879/TCN, Kinh Dương
Vương Lộc Tục, vua nước Xích Quỷ
(tên nước ta thời tiền sử) cưới nàng
Long Nữ con gái của Động Đ́nh Quân,
một vị vua ở vùng Động Đ́nh… Động
Đ́nh thời cổ là vùng châu thổ sông Dương
Tử mà trung tâm là Động Đ́nh Hồ.
Vùng Động Đ́nh có rất nhiều hồ, và
hồ lớn nhất cũng gọi là hồ Động
Đ́nh. Chu vi hồ 450km. Hồ
nằm trong phạm vi tỉnh Hồ Nam ngày nay,
Hồ Động Đ́nh nối với sông Dương
Tử bằng một đoạn sông ngắn rộng
nhiều sóng gió, đó là sông
Tiền Đường được kể trong
truyện Đoạn Trường Tân Thanh (truyện
Kiều) của Nguyễn Du.
Hồ Động Đ́nh c̣n mang nhiều tên khác như:
Ngũ Hồ, Cửu Giang Hồ, Tràng Hồ. Gần
hồ có núi Cửu Nghi (Trung Nhạc Thái Sơn) là
ngọn núi cao nhất trong Ngũ Nhạc. Phía Nam hồ
Động Đ́nh là Cánh Đồng Tương có
kinh đô của vua Lạc Long Quân gọi là Cữu Linh
nằm trên ngă ba hai sông
Tiêu và sông Tương. Hai con sông này phát nguồn từ Ngũ
Lĩnh chảy về phía Bắc, chúng gặp nhau
ở Cánh Đồng Tương rồi đổ vào
hồ Động Đ́nh. Trên
Cánh Đồng Tương có núi
Thiên Đài, nơi
vua Đế Minh làm lễ lên ngôi cho Lộc Tục.
Hiện vẫn c̣n ngôi miếu cổ và một
tấm bia đá ghi rơ sự kiện này. Sách Việt
Nam Đệ ngũ Thiên niên kỷ, bài của bác sĩ
Trần Đại Sĩ hiện là Trưởng ban
Nghiên cứu Phối hợp Đông Tây y tại Pháp.
Tục truyền ngày xưa có giống rồng Á châu
sống trong phạm vi Động Đ́nh Hồ (?). Theo
các nhà khảo cổ học và sử học th́ khu
vực Động Đ́nh cổ là trung tâm văn hóa
nông nghiệp cùng thời với văn hóa Bắc Sơn
miền bắc Việt Nam (7.000 – 1.000 năm tr.CN). Sau
này, khi thống thuộc Trung Hoa, vùng Hồ Nam,
Giang Nam, Lưỡng Quảng… vẫn là vùng đất
nổi danh về văn thơ, triết học,
nghệ thuật điêu khắc, hội họa, ca vũ,
đồ gốm, tơ lụa, y dược, cao lương
mỹ vị, người đẹp…
hạng nhất của Trung Hoa xưa và nay. Vậy
ai là chủ nhân của nền văn hóa tiền
sử đó? Thiết tưởng hơn ai hết, người
Việt chúng ta không thể thờ ơ đối
với gia tài văn hóa của tổ tiên ḿnh. Điều
này lại càng thiết thực hơn khi nền văn
hóa Tây phương đă và đang lộ ra nhiều
khuyết điểm tai hại cho nhân loại trong
suốt thế kỷ 19, 20. (Chúng tôi sẽ tŕnh bày
ở Chương IV – Văn
minh thế giới) . Nền
văn hóa mồ côi đặc thù này xuất phát
từ một ḍng dân gọi là Miêu
tộc* cũng gọi là
Viêm* (người xứ nóng) về sau gọi là
Bách Việt*.
Miêu
tộc ra đi từ dăy Thiên Sơn, cao nguyên Himalaya cách
đây nhiều chục ngàn năm họ theo các ḍng sông
lớn chảy về hướng Đông và Đông
Nam mà xuống định cư ở lục địa
Đông và Đông Nam Á châu. *
Theo
những trưng dẫn trong sách “Khai
Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt” của Bác sĩ
Nguyễn Xuân Quang các danh
xưng Miêu, Viêm, Bách Việt được ông tŕnh
bày như sau: “Trong
số các Học giả cho rằng Thần Nông là người
Việt, người tiêu biểu là Giáo sư Kim Định.
Giáo sư theo Mộng Văn Thông (Sử gia Trung Hoa), cho rằng Thần Nông là vua của Viêm tộc
tức là Việt v́ người Trung Hoa thời nhà
Chu gọi chúng ta là Viêm Bang và gọi phương Nam
(vùng châu thổ sông Dương Tử trở về
Nam) là Viêm phương. Theo Mộng Văn Thông trong
Cổ Sử Nhân Văn th́ Viêm là Việt + Miêu. Giáo
sư Kim Định gọi là Vimê”. Sau
nhiều giai đoạn văn hóa mà sự tiến
bộ gối đầu lên nhau một cách mật
thiết; cho đến cách đây khoảng 9.000
năm (khởi đầu văn hóa Bắc Sơn)
, ḍng Miêu tức
Viêm này đă đạt được những bước
tiến bộ đặc thù mà trung tâm văn hóa là
những vùng đất lớn nằm quanh hồ Động
Đ́nh và châu thổ sông Dương Tử (Trường
Giang)
.
Nền văn hoá này được đánh giá cao
ở mức kỳ diệu và đă chứng tỏ
khả năng đáp ứng nhu cầu thiết
thực của con người * mặc dù nó
chỉ mới là một nền văn hóa biểu tượng
v́ thời gian này chữ
viết rất sơ khai chưa hoàn hảo. *
Nhu cầu thiết thực của con người
theo triết gia Lương Kim Định là Nhân
bản toàn diện, có nghĩa là hạnh phúc con người
phải đạt tới toàn diện gồm hai lănh
vực vật chất và tinh thần. Dựa vào
nền tảng đó, ông đề xướng
lối sống An Vi tức là triết lư Nhất
nguyên Lưỡng cực. Khác với văn minh I/2 .- NHỮNG BƯỚC
ĐẦU T̀M VỀ NGUỒN CỘI Tại
đại học Văn khoa Sài G̣n, năm 1958 khi giáo
sư, triết gia, linh mục Lương Kim Định
đề nghị thành lập môn Việt triết th́
gặp ngay sự phản đối của một
số giáo sư triết học đồng nghiệp
và những viên chức có thẩm quyền. Họ mĩa
mai: “Việt Nam làm ǵ có triết học mà
giảng với dạy!” , “Văn hiến Việt
Nam là cóp nhặt của Trung Hoa”… Cuối cùng,
lời đề nghị cũng được
miễn cưởng chấp thuận, nhưng đổi
tên thành: triết
Đông, theo chương tŕnh giáo khoa, nhưng kèm
theo đó cho xen kẽ triết Việt mà triết gia
Kim Định soạn thảo (triết Đông
vốn là của Trung Hoa, được giảng
dạy tại các trường đại học
ở Đài Loan và Hồng Kông nhưng không được
các trường đại học này coi trọng) . Mấy
năm đầu, số giờ giảng dạy bị
hạn chế tối đa và liền lương giáo
sư phụ trách rẽ mạt đến độ
một giáo sư đại học đă không đủ
tiền để đi xích lô đến trường
và mướn nhà… mà phải đến ở
nhờ nhà riêng của một học tṛ cũ, Lm. Vũ
Khánh Tường. Vài năm sau, từ chỗ lạ
tai đến chỗ hấp dẫn, thuyết
phục… Giáo sư Kim Định tạo một sinh
khí mới trong giới sinh viên đại học Văn
Khoa Sài G̣n. Họ ngóng giờ thầy Kim Định và
đến nghe chật giảng đường. Những
vị có thẩm quyền thấy rơ Việt triết
là một thực tế có tầm vóc, đă nâng lên
dần dần ngang hàng với triết tây và gọi
chung là triết học Đông Á. Riêng triết gia Kim
Định th́ ông chính thức khai mở một
hệ thống triết học mới mà ông gọi là
Việt Nho,
Việt triết
và cuối cùng ông chính thức đặt tên cho
triết thuyết này là triết lư An Vi.
Từ Sài G̣n, giáo sư Kim Định được
mời dạy thêm ở các đại học khác trên
toàn quốc như Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh
Đức, Thành Nhân, An Giang, Huế… (Theo học
giả Nguyễn Duy Quang) Sau
năm 1975, triết lư An Vi theo bước chân chạy
loạn cộng sản của đồng bào miền
nam, giáo sư Lương Kim Định và học tṛ
của ông lan ra khắp thế giới với một
ư thức mới: tổ chức tộc An Việt ra
đời qui tụ nhiều nhóm môn sinh cũ và
mới. Khởi đầu, dưới sự dẫn
dắt của triết gia, các nhóm này tập họp
thành những gia đ́nh An Việt chuyên nghiên cứu
Việt Nho (triết lư An Vi) và phổ biến sâu
rộng ở ngoại quốc lẫn trong nước.
Khi
triết gia tạ thế (25-3-1997) hưởng
thọ 82 tuổi, ông để lại cho đời
bộ triết Việt Nho và An Vi gồm 42 cuốn. Có
thể nói đây là một gia tài văn hóa đồ
sộ nhất trong nền văn hóa sử Việt Nam.
Tính
đến tháng 1/2004 các gia đ́nh An Việt tiếp
nối đường đi của vị thầy
khả kính gồm có: Âu
châu: Gia đ́nh Anh Quốc, Gđ. Bỉ, Gđ.
Pháp, Gđ. Thụy Sĩ, Gđ. Ḥa Lan, Gđ. Đức…
Úc
châu: Gđ. NSW 2195, Gđ. NSW 2204, Mulgrave Vic.
3170, Vic. 3133. Mỹ
Châu: Liên giaGđ Toronto, Gđ Montrel, Gd.
Mississauga ở Canada. Liên gia Gđ. Florida, Gđ. Ohio, Gđ.
Illinois, Kemtucky, Arizona, Lousiana, nam California, Bắc
California, Texas Houston… ở Hoa Kỳ) Mỗi gia đ́nh
quy tụ khoảng 10 đến 40 thành viên. Tại
Việt Nam v́ t́nh h́nh chính trị chưa cho phép nhưng
cũng có mấy nhóm hoạt động trong âm
thầm. I/3 .- HƯỚNG
LAN TỎA CÁC DÂN TỘC ĐÔNG Á Để
quư độc giả có khái niệm về những bước
đầu của xă hội Miêu tộc c̣n gọi là
Viêm, tổ tiên tiền sử của đa số dân
tộc Đông Á (trong đó có Việt Nam), chúng tôi
xin mời quư độc giả theo dơi vài nét thực
cô đọng: Theo
The Nation Academy Of Science-USA, ngày 29.07.1990, Tiến sĩ
J.Y. CHU dựa vào Khoa học Di truyền DNA, chứng
minh rằng người Hiện đại đầu
tiên xuất hiện ở đông Phi Châu. Cũng trong
năm này, giới khoa học gia nghiên cứu về
nguồn gốc loài người trên thế giới
đều thừa nhận thuyết người
Hiện đại xuất hiện ở đông Phi châu
là đáng tin cậy nhất. Đồng thời, trong
khoảng 10 năm tiếp đó, các khoa học gia
khảo cổ này cũng đă tính được
thời gian những hậu duệ của người
Hiện đại tản mát dần ra khắp mặt
đất theo những lộ tŕnh khá hợp lư. Họ đă tính
được người Hiện đại có
mặt trên trái đất cách đây khoảng 150.000
năm.
Trải qua nhiều giai đoạn sinh sôi nẩy
nở con cháu họ đợt này qua đợt khác
lan tràn qua miền Tiểu Á rồi chia làm hai nhánh
lớn một lan dần về phía đông và
một lan dần về phía tây . A
.- Nhánh đi về phía đông, cách đây
khoảng 100.000
năm, nhiều nhóm lan dần về phía đông
rồi tách làm hai hướng : –
Hướng đông bắc nhóm A lan lên phía
bắc Trung Á sống rải rác thành các bộ
tộc du mục. Nhóm này trở thành thủy tổ
của ḍng Aryian (Ấn Âu) cách đây 50.000 đến
25.000 năm. –
Hướng đông bắc nhóm B lan về
phía đông, băng qua Ấn Độ, rồi
tới phía bắc các nước Đông Dương.
Họ lan dần lên Đông Á và có mặt ở
khắp vùng đất lục địa Trung Hoa ngày
nay. Nhóm này trở thành
thủy tổ của giống Miêu tức Viêm về
sau gọi là Bách Việt cách đây 60.000 năm. Cũng
nhánh đông bắc B này lên rất xa
về phía bắc, họ băng qua eo biển Bering vào
đất Bắc Mỹ rồi lan tràn khắp Mỹ Châu. Cách
đây 35.000 đến 25.000 năm (vào
thời điểm này, các eo biển và hải đảo
trên thế giới thường là đất liền
v́ mực nước rất thấp). Cũng
nhánh đi về phía đông C băng qua nam
Việt Nam rồi ra các quần đảo cực đông
Châu Á và Úc Châu cách
đây 60.000 đến 30.000 năm. B.-
Nhánh đi về phía tây D, cách đây 90.000 năm,
lan dần vào Châu Âu trở thành thủy tổ
của các ḍng du mục da trắng. Địa
cầu từ khi được thành h́nh cho đến
cách đây nhiều trăm ngàn năm luôn luôn thay h́nh
đổi dạng. Từ khoảng 150.000 năm
trở lại th́ Địa cầu đă khá ổn
định ngoại trừ thời tiết th́ theo chu
kỳ mà thay đổi: Khi lạnh quá th́ băng,
tuyết tràn ngập khắp nơi. Khi nóng quá th́ băng
tuyết tan, gây lũ lụt, nước dâng lên
rất cao… khiến đời sống mọi sinh,
thực vật trên Địa cầu không thể tránh
khỏi những giai đoạn cực kỳ tàn
khốc đến độ có nhiều giống
bị tuyệt chủng. Ở
Đông Á, các thủy tổ của ḍng Miêu, Viêm cũng
không tránh khỏi các đại thiên tai đó. Theo
cố giáo sư, triết gia Lương Kim Định,
lần lũ
lụt cuối cùng, người Đông Á di cư lên
vùng núi phía tây để tránh nạn.
Khi nước rút về mức b́nh thường th́
hậu duệ của họ từ các hang động
trên các dăy núi phía tây lần xuống đồng
bằng. Trên những vùng đất mới đó,
dần dần h́nh thành các thị tộc, bộ
tộc chuyên về nông nghiệp. Người nông
nghiệp hiền lành nhưng tư tưởng thâm
trầm do phải sống thích nghi với thiên nhiên.
Họ thường xuyên quan sát vũ trụ, khí
hậu, sông nước, cỏ cây… rồi theo
thời gian họ rút ra những kinh nghiệm sống:
Hợp với thiên nhiên th́ tốt mà nghịch
lại th́ xấu. Trời, đất, vạn vật
cùng một thể và những thứ đối
chọi nhau như âm dương, sáng tối, nắng
mưa, đực cái… phải nương nhau sinh
tồn và tiến hóa tạo thành nhân sinh quan và vũ
trụ quan của người nông nghiệp Đông
Nam Á. Đó là văn hóa
nông nghiệp Ở
các vùng Bắc Á, Trung Á, Tây Bắc Á… th́ h́nh thành
những tộc, bộ tộc Du mục.
Họ thiên về cường lực, chuộng
thực tiễn, mạnh được yếu thua.
Truyền thống văn hóa người du mục do
đó hoàn toàn khác hẳn người nông nghiệp. Dó là văn hóa du
mục. Trong
phạm vi sử liệu, căn cứ theo sách “Trung
Quốc Dân Tộc Sử” của sử gia Vương
Đông Linh và “Cổ Sử Nhân Văn” của
học giả Mộng Văn Thông th́ con người
cổ đại sau khi bị tiêu diệt trong các
đợt băng tuyết, lũ lụt, những người
c̣n sống sót kéo nhau lên miền cao nguyên sống
trong các hang động để tránh lụt trong giai
đoạn tuyết tan. Trong khoảng giữa thời
đại Trung thạch và sơ kỳ Tân thạch khoảng
từ 40.000 năm đến 25.000 năm trước
đây, khí hậu tương đối ấm áp, loài
người rời bỏ hang động trong các dăy núi
Thiên Sơn ở bắc Tây Tạng và Tân Cương
đi xuống các vùng b́nh nguyên. I/3A
.-Một nhóm xuống các đồng
bằng phía Tây trở thành thủy tổ giống du
mục Aryan (Ấn Âu) vùng Trung Á (Trung Đông)* *
Người Tây phương thường gọi Á châu
là Đông phương. Họ chia Á châu ra làm ba vùng: Cận
Đông, Trung Đông và Viễn Đông. Cận
Đông là vùng bán đảo Á-Rập, Viễn Đông
tức là các nước thuộc Đông Á lục
địa và Đông Nam Á quần đảo . I/3B
.- Một nhóm xuống các đồng
bằng phía Đông trở thành thủy tổ của
các giống da vàng. Giống da vàng có 2 chi: Bắc
tam hệ và Nam tam hệ
có ba ḍng*: I/3B1
– Bắc tam hệ
–
Ḍng Măn tộc chiếm cực Đông Bắc Trung Hoa
ngày nay. *
Cả ba ḍng dân này đều sống theo truyền
thống du mục, chế độ phụ hệ,
tổ chức xă hội hướng về thực
tiễn cường lực, hiếu chiến, sống
thành từng bộ lạc riêng rẽ, man rợ và chưa
khai hóa. I/3B2
– Nam tam hệ
cũng có 3 ḍng: –
Ḍng Hoa* theo
Thiên Sơn Nam lộ như Miêu
tộc nhưng c̣n sống đời săn hái
du mục ở vùng Tân Cương, Thanh Hải v́ nơi
này thời đó vẫn c̣n là vùng đất
thuận lợi cho việc săn bắt dă thú và chăn
nuôi của dân du mục. Cho tới khi nơi này
biến thành sa mạc (cách đây khoảng 5.000 năm)
th́ Hoa tộc mới men theo sông Hoàng Hà tiến vào
Bắc Trung Hoa thuộc vùng cư trú của Miêu
tộc. *
Hoa và Tạng tổ chức xă hội theo truyền
thống du mục và phụ hệ giống như các
ḍng Măn và Mông Cổ thuộc Bắc tam hệ 1/1A1 và
I/1A2. Miêu
tộc định cư ở vùng khí hậu nắng
ấm nên cũng gọi là Viêm, người xứ nóng.
Ḍng Miêu sau khi định
cư, họ sống theo truyền thống nông
nghiệp, chế độ mẫu hệ. Hệ tư
tưởng dần dần được nẩy sinh
do suy ra từ nhận thức thời tiết và thiên
nhiên, vạn vật và con người. Họ tổ
chức xă hội theo truyền thống thị
tộc, bộ tộc, liên bộ tộc về sau
tiến lên thành xóm, làng, huyện và nước. Người
lănh đạo cao nhất nước gọi là “thiên
tử” và toàn dân Miêu gọi là “ thiên hạ”. Xin
mở một ngoặc đơn ở đây để
nh́n về phía Việt Nam trong thời gian này ra sao.
Đó là những giai đoạn mà các nhà khảo
cổ Việt Nam và thế giới gọi là những
nền văn hóa nông nghiệp Việt cổ: Đấy
là vài nét sơ lược thời tiền sử
của một số các dân tộc sống ở vùng
Đông Á lục địa do chính các nhà khảo
tiền sử, cổ sử Trung Hoa nghiên cứu và biên
soạn Học
giả Đinh Khang Hoạt trong cuốn Tinh hoa sử
Việt có trích dẫn tài liệu mang tên “Puzzle Begins
To Fit Together” của tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, giáo
sư nhân chủng học tại đại học
Hawaii viết năm 1971, đă nói về xă hội
Việt cổ đại như sau: “Dựa
vào những khám phá mới và những xác định
vào thời gian… Tôi đồng ư với Sauer
rằng, thực vật đầu tiên được
thuần hóa là do nền văn hóa Ḥa B́nh của
miền Đông Nam Á. Tôi cũng không ngạc nhiên
về việc làm cho thực vật được thích
hợp với thủy thổ này đă thực
hiện trước đây nhiều chục ngàn năm
trước Tây lịch”. Ông
cũng lập luận rằng : “Những
dụng cụ bằng đá t́m được ở
Australia, đồ gốm ở Nhật đă
được định tuổi từ 20.000 đến
10.000 năm TCN đều bắt nguồn từ văn
hóa Ḥa B́nh. Văn minh Yangshao và văn minh Lungson và
nhiều di chỉ khảo cổ khác ờ Indonesia,
Philipine… ở nhiều thời kỳ khác nhau trong
khoảng 8.700 năm đến 3.000 năm tr.CN đều
chịu ảnh hưởng của văn hóa Ḥa B́nh”. Hoa
tộc: Cố học giả B́nh Nguyên Lộc
gọi Hoa tộc là du mục
Mể Tây, một số học giả lại
gọi họ là Trung Hoa cổ. Nói chung, họ tự
nhận là cách đây 5000 năm, tổ tiên Hoa tộc
c̣n sống đời du mục ở Tân Cương,
Thanh Hải (Các sử gia thế giới gọi các
giống du mục là savage, barbarian, Rợ… có nghĩa
là dân tộc dă man, mọi rợ, chưa khai hóa).
Các sử gia Trung Hoa đặt tên cho tổ tiên
họ là Hoa tộc. Trong
tài liệu này, chúng tôi cũng sẽ gọi họ là
Hoa tộc như họ tự xưng. Tuy nhiên,
người Hoa tộc chính cống chỉ ở
từ Bắc Kinh trở lên phía bắc.
Họ vẫn c̣n mang đậm nét họ là con cháu
trực tiếp của ḍng du mục Hoa tộc này (Thân
h́nh to cao, da trắng tương đối, ăn lúa
ḿ (bánh bao), tính t́nh thực tiễn… Ngày nay nhờ
các phương pháp: Đo chỉ số sọ, ngôn
ngữ tỷ giảo, so sánh DNA… người ta
thấy rất rơ Hoa tộc miền Bắc thuộc
giống Aryian (Ấn Âu) lai với Mông Cổ. Trong khi đó Hoa tộc miền Trung và
miền Nam Trung Hoa th́ lai với Miêu, Viêm. Càng xuống sâu
về phía nam th́ đặc tính Ấn Âu – Mômg
Cổ càng mờ nhạt và đặc tính Miêu
tộc đậm lên. Vậy
các dân tộc nông nghiệp bản thổ được
gọi là Miêu hay Viêm là ai? Khởi
đầu cổ sử Trung Hoa gọi họ là Miêu
tộc, có khi gọi là Viêm tộc có nghĩa là người
xứ nóng. Sử ta cũng đề cập đến
vua Đế Viêm (vua xứ nóng). Trong
cuộc chiến tranh với dân bản địa Miêu
tộc tại
Trác Lộc* năm 2.704 tr.CN
th́ họ gọi chúa của người Miêu là
cổ thiên tử Xi Vưu, lănh đạo Liên Minh Xích
Quỷ**. Sau chiến tranh
Trác Lộc, th́ họ gọi dân ở phía Nam Hoàng Hà
là Cửu Lê***.
Đầu
thời Chu họ gộp tất cả các dân tộc
sống trong vùng châu thổ sông Dương Tử và
gọi chung là Bách Việt. Cho đến
thời Tần Thủy Hoàng
thống nhất toàn cơi lục địa và cuộc tranh
hùng Hán Sở tiếp đó, danh xưng Bách
Việt****
vẫn c̣n thấy nhắc đến nhiều lần.
*
Trong
bài này chúng tôi chưa nói tới cuộc chiến
tranh tại Trác Lộc, một bước ngoặc
cực kỳ quan trọng đă làm
tiêu tan hai nước Xích Thần, Xích Quỷ và
xuất hiện nước Văn Lang. Xin quư vị
vui ḷng xem chương II.-
Hai nước Xích Thần và Xích Quỷ. **
Xích Quỷ vốn
là tên nước ta thời Kinh Dương Vương
và Lạc Long Quân 2879-2704 TCN.
Liên minh Xích Quỷ là sự liên minh của hàng trăm
đội dân quân của các bộ tộc Miêu, Viêm nước
Xích Quỷ. Liên minh này được chia làm hai đạo.
Một đạo do Lạc Long Quân chỉ huy, một
đạo do Âu Cơ
chỉ huy. Có nhiều độc giả thắc
mắc tại sao người xưa lại chọn
chữ quỷ để đặt tên nước? Chúng
tôi nghĩ, chữ quỷ là một trong hai vế
thần, quỷ của triết lư Nhất nguyên Lưỡng
cực mà biểu tượng là cái h́nh tṛn lưỡng
nghi. Người là kết hợp bởi thần và
quỷ. Như thế thần quỷ có ư nghĩa
đồng dạng như trời đất, âm dương,
tinh thần với vật chất, nhu cương,
lạnh nóng, t́nh lư, mưa với nắng, đực
cái… Ta không nên hiểu quỷ là ma quỷ là xấu
xa… mà nên hiểu là sự khôn ngoan, hùng mạnh,
thịnh vượng mang tính dương, tính vật
chất, tính đực, mà biểu tượng là
Rồng. Tên hai nước Xích Thần và Xích Quỷ
xác định biệt sắc tư tưởng
của nông nghiệp Đông Á. (Xin đọc chương
II Xích Thần,Xích Quỷ) ***
Cửu Lê: (tức là chín nhóm Lê) Theo Việt
sử Toàn thư của sử gia Phạm Văn Sơn,
vào thế kỷ thứ 9 tr.CN, một
quư tộc Việt thuộc họ Mỵ kiêm tính các vùng
đất cư trú của các bộ tộc Lê
(Cửu Lê) ở vùng
đất phía Bắc sông Dương Tử để
lập nước Sở và xưng là Hùng Mỵ . Xin lưu ư chữ Hùng
trong Hùng Mỵ, chúng tôi có phần b́nh luận danh
hiệu Hùng của người Miêu ở chương
II trong sách này. ****
Bách Việt : Sách Trung quốc Sử cương chép
về chiến công của Tần Thủy Hoàng
có đoạn như sau:”Vua sai Đồ Thư đi đánh lấy đất
Bách Việt, nay là tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông,
Quảng Tây, Phúc Kiến…Vua nước Nam phải
thần phục” (Xin lưu ư, chúng tôi chỉ
dẫn chứng chữ Bách Việt, c̣n đúng hay sai
của đoạn sử Tầu th́ xin đừng quan
tâm). Khi
Hạng Vơ chiếm được kinh đô nhà
Tần, Sử kư Tư Mă
Thiên chép:”Bà quân tên là Ngô Nhuế đem quân Bách
Việt giúp và theo vào đất Tần được
phong Hành sơn vương, đóng đô ở đất
Chu”. Khi
Lưu Bang diệt được Hạng vương và
lên ngôi đế, sách Sử kư chép tiếp: “Tướng
của bà quân Ngô Nhuế là Mai Quyên có công chiếm
được đất Tính, đất Lịch,
được phong làm Thập vạn Hộ
hầu.” Vào
cuối thời Vương Măng, tước vương,
tước quân của các vua man di Bách Việt
bị Vương Măng hạ xuống tước
hầu. Họ tức giận, bèn hợp cùng bọn Lưu
Tú, Lưu Điền… nổi lên chống lại,
diệt Vương Măng, lập Lưu Huyền làm Hán
đế. (Trung quốc Sử cương) Như
thế, dù gọi là Miêu, Viêm, Xích thần, Xích
Quỷ, hay Cửu Lê, hay Bách Việt, man di, Nam man… các
dân tộc nông nghiệp này trước sau vẫn là
con cháu của ḍng Miêu, Viêm. Dân tộc Miêu quả nhiên đă có
một nền văn hóa cao trước khi có sự
hiện diện của cường lực du mục
Hoa tộc. Rơ ràng chỉ mới xuất hiện hai tên
nước Xích Thần và Xích Quỷ, chúng ta đă
thấy ló dạng một minh triết cực kỳ uyên
thâm chứ không phải sau này mới có. I/4 . – NHỮNG
NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ Những
biểu tượng của nhiều giai đoạn văn
minh Viêm Việt cổ kéo dài trong khoảng mười
ngàn năm, được coi là biệt sắc đặc
thù của chủng Bách Việt, vốn có một
nền văn minh cổ xưa chẳng những không
thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế
giới mà c̣n vượt trội hơn là khác. Chúng
tôi xin đơn cử một số biệt sắc
đó: 1.
– Tiên Rồng 2.
– Tả nhậm 3.
– Vầng nhật 4.
– Tập quán làng xă 5.
– Ca, vũ, ḥ, vè, hát ru em … 6.-
Thương em từ thủa Tiên Rồng 7.
– Kiến trúc Việt cổ 8.
– Bí mật pḥng trung 9.
– Chuyện ông Bàn Cổ Các
biểu tượng này chứa đầy quan niệm
nhân sinh và vũ trụ cũng như mang tính ẩn
dụ vô cùng sâu sắc vốn là minh triết chỉ
đạo đời sống con người của nền
văn hóa nông nghiệp Miêu Viêm và về sau gọi là
Bách Việt.
Người Việt xưa nay dù hiểu rất
“lờ mờ”, vẫn ra sức bảo tồn.
Chẳng những thế những di vật cổ hay
truyền thống mang biệt sắc Việt tộc này
có niên đại cách đây từ 9.000 năm đến
3.000 năm tức là niên
đại văn hóa Bắc Sơn là một sự
thật không c̣n nghi ngờ.
Nền văn hóa này
hiện diện trong xă hội Miêu tộc trước
khi Rợ Hoa xâm lược vùng châu thổ sông Hoàng Hà
. Những
biểu tượng này, từ phía Động Đ́nh
càng tiến về phương Nam càng đa dạng,
phong phú; khi xuống đến đồng bằng
Bắc Việt Nam th́ dày đặc. Có
thể nói, Động Đ́nh là nơi
phát sinh nền văn minh nông nghiệp Viêm
Việt c̣n miền Bắc và Trung Việt Nam là nơi
bảo tồn
và phát triển nền văn
minh này do những biến cố lịch sử
giữa hai dân tộc Việt–Hoa. Khi
Hoa tộc xâm lăng trung tâm văn hóa Bách Việt
Động Đ́nh và pha trộn với truyền
thống du mục của họ th́ văn hóa nông
nghiệp vùng ŕa ở các châu thổ Hồng Hà, sông
Cả, sông Mă… (Bắc và Bắc-Trung Việt ngày
nay) chẳng những vẫn giữ được
trinh nguyên mà c̣n được thường xuyên
bổ sung do những cư dân đồng chủng
chạy loạn từ phương bắc về
tiếp sức. Cao
điểm của nền văn hóa đặc thù
Việt tộc xuất hiện vào thời đại
nhà Thục với phát minh ngành sơn gỗ, sơn
da, sơn cột, nhà có mái cong, mỹ thuật ván ngũ
cong hai đầu ngành chôn cất có ḥm h́nh
thuyền, thủ tục cưới hỏi, nghệ
thuật ca vũ… Phát triển tối đa mỹ
thuật đồ đồng, kỹ nghệ trống
đồng, mũi tên đồng, xây dựng thành quách
và phát minh kỹ nghệ đồ sắt… Tuy
nhiên, sau 1.000 năm bị du mục Hoa
tộc đô hộ, với chính sách cướp đoạt
văn hóa và đồng hóa, Hoa tộc đă làm dân
ta quên đi rất nhiều truyền thống và tư
tưởng Việt cổ đến độ sau khi
đă dành được độc lập (năm
939), vua quan, triều đ́nh Đại Việt
được tổ chức rập theo khuôn mẫu
Tầu. Giới
sĩ phu Việt coi sử Tầu là chính, sử
Việt là phụ. Họ học và phổ biến
trong đại chúng luân lư, đạo đức Khổng, Mạnh và tư tưởng
Lăo, Trang… mà không ngờ rằng hai ḍng tư tưởng
này bắt nguồn từ tổ tiên hiền triết
Việt tộc đă bị Tầu làm biến
dạng theo truyền thống du mục của họ. Hai
nền học thuật Khổng, Lăo dù không đi cùng
một hướng nhưng đắp đổi cho
nhau tạo thành một xă hội mà kẻ cường
lực, hung bạo th́ làm vua, có toàn quyền trên thiên
hạ, giới sĩ phu th́ luồn cúi bợ đỡ
để được vinh thân ph́ gia… Nếu v́
lẽ ǵ mà thất bại trong cái xă hội đó th́
đành vào rừng mà ở, làm bạn với cỏ
cây. Lấy hai chữ ẩn sĩ, vô vi mà tự an trí,
tự phát văn!… C̣n đâu nhân chủ, nhân trị, c̣n
đâu vương hóa, c̣n đâu người vị
người, c̣n đâu đầu đội trời,
chân đạp đất? Trong
hoàn cảnh như thế, làng xă Việt Nam với
nếp sống b́nh dị của người dân sau lũy
tre làng, đă là nơi giữ lại phần nào
truyền thống tư tưởng và những
biệt sắc văn hóa của tiền nhân. Mỗi làng
xă Việt Nam có giá trị như một viện
bảo tàng văn hóa trong suốt nhiều ngàn năm,
chăm chút, ǵn giữ trước bao nhiêu nghịch
cảnh! Tài
liệu văn hóa tiền và sơ sử Việt Nam
của bs. Nguyễn Thị Thanh có ghi lại những
nền văn hóa Việt cổ,
tôi xin tóm lược dưới đây: –
Văn hóa Sơn Vi hay Tiền Ḥa B́nh: Cách đây 30.000
đến 12.000 năm. Thời đại
cựu thạch và trung thạch (giai đoạn
vật dụng bằng đá có đầu nhọn
tự nhiên cho đến đá ghè đẽo thành lưỡi
hoặc đầu nhọn). –
Văn hóa Ḥa B́nh: Cách đây15.000
đến 7.000 năm. Thời đại
trung thạch đến sơ kỳ tân thạch (giai
đoạn vật dụng đá đẻo ở
phần lưỡi đến đá đẽo
được mài bén ở phần lưỡi). Đây
là thời kỳ phát minh văn hóa nông nghiệp. –
Văn hóa Bắc Sơn: Cách đây 9.000
đến 3.000 năm. Thời đại
tân thạch (dao hoặc búa đá được mài
toàn phần). Phát triển nghi lễ mai táng, phát
triển văn hóa nông nghiệp và nuôi gia súc;
thuần hóa trâu, ḅ để làm ruộng… Phát
triển kỹ thuật đan tre, mây, lát. Phát minh
đồ gốm văn hoa chải, tiền đá Ḥa
b́nh và nghề dệt. Xă hội thành h́nh những
cộng đồng và tổ chức làng xă, chợ búa,
văn nghệ hát nói và ca múa. Thời kỳ
Thần Nông Đế Viêm. Thời kỳ vua Kinh Dương
vương (Lộc Tục, con thứ của vua
Đế Minh) lập nước Xích Quỷ năm
2.879 tr.CN ở phía Nam sông Dương Tử. –
Văn hóa Quỳnh Văn hay Hậu Sơn Vi: Cách đây 10.000-4.000
năm song song với Văn hoá Bắc Sơn. Đồng
thời là khởi đầu văn hóa Bàu Tró, văn
hóa tiền Phùng Nguyên. Đây là thời kỳ văn
hóa Lạc Việt sơ khởi của những chi phía
Nam trong nền văn hóa Bách Việt toàn vùng mà chúng
tôi tŕnh bày ở trên. Thời kỳ các vua Hùng
dựng nước Văn Lang, thời gian này đất
nước đă có 10 điều luật hoàn toàn khác
với Hoa tộc (Hạ, Thương); phát triển
đồ gốm có bàn xoay, hoa văn gốm h́nh dây
thừng, h́nh kỷ hà, nghề đánh cá, nghề
dệt; phát minh nghề làm rượu; sơ kỳ
đồng thau; truyền thống nhà sàn có mái cong,
truyền thống cưới hỏi theo mẫu
hệ; tục uống nước bằng mũi. –
Văn hóa Phùng Nguyên hay Hậu Bắc Sơn và
Quỳnh Văn: Cách
đây 6.000 đến 2.400 năm. Thời kỳ các
vua Hùng và nước Văn Lang. –
Văn hóa G̣ Mun: Cách đây 4.800 đến
2.300 năm. Phát triển kỹ nghệ đồng
thau, binh khí bằng đồng, mũi tên đồng,
đồ gốm hoa văn chải. –
Văn hóa Đồng Dậu: Cách đây 3.700 đến
2.200 năm. Phát triển cực ky rực rỡ kỹ
nghệ đồng thau, mỹ thuật tinh xảo trong
nghề gốm, nghề chài lưới, câu cá… Phát
minh ngành họa và âm nhạc, đàn bầu (?). Phát
minh chữ lăng quăng, chữ chân chim và chữ tượng
h́nh (chữ Nho cổ?), chế tạo một
loại giấy làm bằng cây Mật Hương
rất nổi danh, phát giác trà, thuốc lá… Chiến
tranh giữa vua Hùng cuối cùng của họ thứ
18 với Thục Phán. Nước Văn Lang chấm
dứt năm 208 tr.CN. –
Văn hóa Đông Sơn: Năm 800 đến năm
111 tr.CN. Phát minh ngành sơn gỗ, sơn da, sơn nhà
có mái cong, mỹ thuật ván ngủ cong hai đầu,
ngành chôn cất có ḥm h́nh thuyền, thủ tục cưới
hỏi… Phát triển tối đa mỹ thuật
đồ đồng, kỹ nghệ trống đồng.
Phát minh kỹ nghệ đồ sắt. Đây là
thời Xuân thu và Chiến quốc và cuối cùng, chư
hầu Tần thống nhất toàn cơi Trung Hoa, xưng
là Tần Thủy Hoàng. Ở Lĩnh Nam, Thục phán
lập nước Âu Lạc 257-207 tr.CN. Kế đó là
các triều đại nhà Triệu nước Nam
Việt và cuối cùng năm 111 tr.CN bị Hoa tộc
thôn tính và đô hộ. Kể
từ giai đoạn này, bằng chủ trương
đàn áp văn hóa cực kỳ khốc liệt
của Hoa tộc, các truyền thống văn hóa và tư
tưởng nông nghiệp Bách Việt cổ bị
khựng lại và đi dần vào quên lăng!! Trong khi
đó, Hoa tộc, với hành trang văn hóa mới,
được đắp bồi liên tục bởi văn
hóa Bách Việt và được Khổng, Mạnh cùng
Lăo, Trang chấn chỉnh đă thực sự vươn
lên giai đoạn “tột đỉnh văn minh Trung
Hoa” của các thời đại Hán, Đường,
Tống, Minh sau này. Những
nền Văn hóa Sơn Vi, Tiền Ḥa B́nh, Hoà B́nh,
Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Hậu Sơn Vi
vừa nêu là văn hóa Bách Việt cổ được
t́m thấy ở “vùng ŕa” Bắc Việt Nam. Trung tâm
của nó là vùng Động Đ́nh đă được
người Trung Hoa khảo cứu khá tường
tận, tuy nhiên, họ công bố rất nhỏ
giọt v́ “tự ái dân tộc” và không muốn
đánh mất những ǵ họ tự hào về văn
minh Trung Hoa. Kể
từ văn hóa Phùng Nguyên, Hậu Bắc Sơn,
Hậu Quỳnh Văn, G̣ Mun, Đồng Dậu, Đông
Sơnth́ miền Bắc Việt Nam dần dần thay
thế vùng Hồ Nam, Giang Nam và Lưỡng Quảng và
phát triển mạnh để trở thành trung tâm
mới của Việt tộc. I/5 .- KẾT
LUẬN I Trong
suốt hai thời kỳ đô hộ Việt tộc,
càng về sau người Trung Hoa càng tỏ ra
quyết liệt trong việc xóa bỏ văn hóa
Việt như tịch thu mọi trống đồng
Lạc Việt (người Việt gọi là
thần cổ), vật dụng tế lễ
bằng đồng, nấu chảy rồi đúc
trụ đồng, sao chép các chuyện cổ, thơ
nói, vè, ca dao… và nhận làm của riêng. Hàng đoàn
xe chở đầy tài liệu công thư khố, văn,
thơ, sổ sách, biểu, tấu của các triều
đại Đại Việt như Ngô, Đinh,
Tiền Lê, Lư, Trần, Hồ (xâm lược Minh
đầu TK.15). Thay vào đó, họ bắt dân ta
học theo cái văn hóa mà họ đă phóng tác,
chế biến từ những điều học
được của tổ tiên ta và gọi là giáo hóa
Nam man, man di… Trường hợp hai ông Thái thú Nhâm
Diên và Sĩ Nhiếp là những thí dụ điển
h́nh. Quả thực Hoa tộc thiếu cái thật thà
của người La Mă khi các sử gia La Mă luôn luôn
xác nhận rằng họ học được văn
minh từ người Hi Lạp khi họ xâm lăng nước
này!! Ảnh
hưởng của đồng hóa may sao chỉ tràn vào
các cơ chế chính trị, học thuật, cung
đ́nh và những hoạt động nhân gian có liên
hệ đến vua quan và triều đ́nh… C̣n làng,
xă Lạc Việt th́ vẫn giữ được cái
“dáng” an nhiên tự tại nhờ một loại
luật bất thành văn: “Luật vua thua lệ làng”
bảo vệ. Để
những ai c̣n ngờ vực những vấn đề
chúng tôi vừa nêu trên, xin cống hiến quư vị
vài mẫu tài liệu lư thú sau đây: Triết
gia Lương Kim Định viết trong sách Nguồn
Gốc Văn Hóa Việt Nam: “Trước
hết là việc Khổng Tử tuyên bố:
Thuật nhi bất tác, tức là chỉ thuật
lại đạo cổ xưa chứ ông không sáng tác.
Và, nếu cần xác định là đạo cổ
ấy ở đâu, th́ ông bảo là ở phương
Nam trong câu: Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo
Nam phương chi cường dă quân tử cư chi (sách
Trung Dung/10). V́ những lư do trên, chúng ta nên từ
bỏ thói quen coi Khổng Tử như một người
sáng lập Nho giáo. Công lao của Khổng Tử, chúng
ta không bao giờ quên, như người học tṛ luôn
luôn kính trọng và biết ơn vị thầy
của vạn thế!” Bác
sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh, cựu Gs.
Đại học Moncton Canada, trong bài “Phát hiện
thơ cổ thời kỳ văn hóa Bắc Sơn” viết
năm 1994, có kể môt câu chuyện… cười ra nước
mắt của cố Tổng thống Tưởng
Giới Thạch như sau: “Năm
1958, khi Tổng thống Đài Loan, Tưởng
Giới Thạch, chủ tọa lễ khai mạc đại
hội văn hóa Trung Hoa gồm các nhà làm văn hóa
Trung Hoa như sử gia, triết gia, học giả, nhà
văn, nhà thơ, giáo sư các bộ môn khoa học xă
hội….”
Sau
khi nghe các học giả thuyết tŕnh về văn
minh Trung Hoa, ông hỏi: “Vậy nền học
thuật và tư tưởng Khổng, Lăo xuất phát
từ đâu?” Họ trả lời: “Từ phương
Nam” Nghe thế Tổng thống liền đứng lên
ra về… bỏ cả bữa cơm truyền
thống mà theo chương tŕnh th́ Tổng thống
sẽ chủ tọa Tại
sao vị Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc nổi
giận đến độ phải bỏ về?
Chắc chắn ông biết rơ, nói tới phương
Nam là nói tới địa bàn cư trú của các dân
tộc Bách Việt mà Hoa tộc đă cưỡng
chiếm mấy ngàn năm về trước, mà…
đụng tới Bách Việt th́ Trung Hoa không c̣n ǵ
để nói cả! Chẳng
riêng ǵ Sử kư Tư Mă Thiên thời Hán, hầu như
mọi sử gia Trung Hoa các triều đại Trung Hoa
về sau như Đường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh cũng chép về các dân tộc Bách Việt và
những vùng đất cư trú cổ xưa của
họ và gọi họ một cách trịch thượng,
đầy miệt thị là man di Bách Việt, Nam man. 1
.- Văn hóa Sơn Vi cũng gọi là Tiền Ḥa B́nh
cách đây khoảng 30.000 năm đến 12.000 năm. 2
.- Văn hóa Ḥa B́nh cách đây khoảng 15.000 năm
đến 7.000 năm. 3
.- Văn hóa Bắc Sơn cách đây khoảng 9.000 năm
đến 3.000 năm Những
tài liệu nghiên cứu về thời kỳ hoang dă
của người Đông Á lục địa này,
đă mặc nhiên xác nhận rằng, chủ nhân
của đất nước này từ 5.000 năm
trở về trước không phải Hoa tộc mà chính
là người Miêu tức Viêm. **Tây
phương ngày nay chỉ mới đạt tới lănh
vực vật chất (suy lư), c̣n tinh thần th́
thả lỏng. Triết gia gọi triết lư Nhân
bản Tây phương là triết lư Nhị nguyên. Theo
chúng tôi th́ du mục Hoa tộc cổ là một
giống Rợ (người man dă) đă tràn vào Đông
Á rất sớm, cùng thời gian với vua Ménès
tấn công chiếm vùng châu thổ sông Nil, Ai Cập
của những “Tiểu bang” Nông dân đang
sống thảnh thơi ở đó. Cũng y hệt
như thế, các giống du mục khác ở Trung
Bắc Á, Bắc Á và Đông Âu mà sử sách Tây phương
gọi là Rợ cũng tràn vào vùng Trung Đông,
Ấn Độ và châu Âu nhưng trể hơn du
mục Hoa tộc và Ménès rất nhiều. Đó là các
giống Rợ Vandale, Ostrogoth, Franc, Germain, Wisigoth Slave,
Scythes… ở châu Âu; Rợ Turkes, Hébreux (Do Thái),
Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Tạng, Mông Cổ, Hung Nô
ở châu Á… Sử
gia Nguyễn Hiến Lê trong Lịch sử Thế
Giới viết “Bên cạnh các dân tộc văn minh
c̣n có nhiều giống người dă man chiếm
trọn Trung Âu, Đông Âu, Bắc Á, Cao nguyên Tây
Tạng và gần hết đại lục châu Phi… Các
giống người man rộ này sống bằng
nghề chăn nuôi và giặc cướp”. Vậy
Rợ Hoa sống ở Thanh Hải và Tân Cương vùng
Tây Bắc lục địa Đông Á cũng không khác
ǵ các giống Rợ chúng tôi vừa dẫn trên. Cho
đến khoảng năm 2720 tr.CN th́ Rợ Hoa thiên
di theo thượng nguồn sông Hoàng Hà mà vào Đông
Á. Tại đây họ đụng đầu với
đông đảo cư dân nông nghiệp Bắc Miêu.
Họ liền họp nhau lại đánh cướp,
chiếm đoạt (phần chi tiết chúng tôi
sẽ tŕnh bày ở Chương II). Lâu
đời trước đó, tại vùng Đông Á này,
cháu ba đời của vua Đế Viêm thường
được tôn xưng là Thần Nông là Đế
Minh đă làm vua Miêu tộc năm 3118 Tr.CN. Nếu tính
3 đời là 100 năm th́ vua Đế Viêm làm vua
khoảng năm 3218 tr.CN. Cuộc chiến tranh giữa
Liên minh Xích Quỷ và Rợ Hoa tại Trác Lộc vào
năm 2704 tr.CN. Như vậy, vua Đế Viêm
Thần Nông làm vua trước khi Rợ Hoa xâm
nhập đất Bắc Miêu khoảng 514 năm .
Nếu nói rằng, vua Đế Viêm Thần Nông là
vua của Hoa tộc cổ th́ ông ấy làm vua Hoa
tộc vào lúc nào? Thần
Nông có nghĩa là “thần nghề nông” của
xứ nông nghiệp, xứ nông nghiệp khí hậu nóng
nên Thần Nông c̣n gọi là Đế Viêm. Vua
Thần Nông sáng tạo ra cày, bừa để
trồng lúa, trồng khoai ; nếm vỏ cây, rể cũ,
lá, hạt… để làm thuốc ; lâp chợ cho dân
trao đổi thực phẩm, vật dụng… sao
lại làm vua một giống Rợ du mục ở
xứ lạnh vốn chỉ có đồng cỏ
để chăn nuôi gia súc? Chẳng những thế,
du mục không bao giờ định cư một
chỗ mà di chuyển thường xuyên th́ làm sao mà
định canh? Do đó, bảo rằng Thần Nông
Đế Viêm là vua của du mục Hoa tộc quả
thực là một chuyện gán ghép đến buồn
cười. Một
chi tiết quan trọng khác là theo truyền thông ngôn
ngữ Hoa tộc th́ phải gọi là Nông Thần, Viêm
Đế chứ không thể gọi Thần Nông Đế
Viêm là ngôn ngữ Việt tộc. |