Chúa Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến lịch sử năm 1644 Tôn Thất Thọ |
Bìa sách
“Lịch sử Việt Nam bằng tranh”, NXB Trẻ. Một hôm
Hy Tông (tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên) ngự giá
tới Quảng Nam, đi theo tháp tùng hộ giá có
Nguyễn Phúc Lan (bấy giờ đang là thế
tử, về sau lên ngôi nối nghiệp chúa, tức
chúa Thượng). Vào một đêm trăng sáng,
Nguyễn Phúc Lan đi chơi thuyền trên sông, ghé vào
bãi Điện Châu để câu cá, nghe tiếng hát
của một người con gái đang hái dâu trên bãi
sông. Động lòng, mới cho người tới
hỏi thì được biết người con gái
đó họ Đoàn. Phúc Lan bèn đem nàng về
hầu ở Tiềm để. Cô gái đó đức
hạnh ít ai bằng. Về sau, khi
Phúc Lan lên ngôi chúa, nàng sinh cho ông một con trai. Sau này,
chính là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần. Nối
nghiệp chúa từ năm Mậu Tý (1648), nhưng khi
còn thế tử mang tước là Dũng Lễ
Hầu, Nguyễn Phúc Tần đã có một chiến
công vô cùng hiển hách: Năm
1644, theo yêu cầu của chúa Trịnh, chiến
thuyền người Ô Lan (Hà Lan) đã vào xâm
phạm cảng cửa Eo (Thuận An) của nước
ta. Đoàn thuyền của họ được chia làm
hai cánh: ·
Một cánh gồm ba chiến thuyền có tên là
Wakendebode, Kievit và Meerman do Issac Davids chỉ huy, cánh này
tiến thẳng ra Đàng Ngoài để cùng đi
với chúa Trịnh. ·
Cánh thứ hai gồm ba chiếc Wojdenes, Waterhod và Vos do
Baek chỉ huy. Ngày
3/6/1644, cả hai đoàn chiến thuyền rời
Batavia, theo gió Nồm tiến đến bờ biển
nước ta. Trịnh Tráng đem đại đội
binh mã 100.000 người rước vua Lê đi cùng
với Issac Davids vào. Cả hai đoàn quân giao ước
hội quân ở sông Gianh. Khi đoàn
thuyền của Baek trên đường đến
điểm hẹn thì tại Phú Xuân, chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan được tin cấp báo. Sách
Đại Nam thực lục t.1, tr. 55, 56 chép: Bấy
giờ, giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài
biển, cướp bóc lái buôn. Quân
tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế
đánh dẹp. Thế tử (tức Nguyễn Phúc
Tần) tức thì mật báo với chưởng
cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông),
ước
đưa thủy quân ra đánh. Trung
lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại
chưa quyết. Thế tử tự đốc
suất chiến thuyền của mình tiến thẳng
ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc
suất binh thuyền theo đi, đến cửa
biển thì thuyền của thế tử đã ra ngoài
khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng
thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh
thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước
sau lướt nhanh như bay; giặc trông thấy
thất kinh hoảng sợ… Đó là
ngày 7/7/1644*, đoàn thủy binh ta do thế
tử Nguyễn Phúc Tần cầm đầu, tiến
thẳng ra biển Đông, vây đánh đoàn
thuyền Hà Lan do Baek chỉ huy. Khi đối đầu
với đoàn thủy binh của ta, quân Hà Lan quá
hoảng sợ, chống cự không nổi, phải
bỏ chạy ra khơi. Trong tình thế hoảng
loạn, quân địch tự phóng lửa đốt
cháy tàu Wijdenes, tướng Baek chết theo tàu. Binh lính
trên tàu sống sót chìm xuống biển, bị quân
Nguyễn vớt lên và tiêu diệt. Từ xa, các
chiến thuyền khác của Hà Lan thấy chiến
thuyền của Phúc Tần nổ súng vang trời, không
dám tiến đến sông Gianh nữa, chúng chạy ra
trốn ở đảo Tây Sa. Cũng
theo Đại Nam thực lục, khi hay tin Nguyễn Phúc
Tần ra biển một mình, chúa Thượng rất
lo lắng, liền tự mình đốc suất binh
thuyền đi tiếp ứng. Vừa tới cửa
biển, từ xa trông thấy khói đen bốc cao
mịt mù; chúa ra lệnh cho thủy binh ta tiến lên
tiếp ứng. Đến khi được tin quân ta
thắng trận, chúa mừng lắm, kéo quân về
hải đình để chờ đợi. Khi
Nguyễn Phúc Tần đến bái yết, chúa trách: “Làm
thế tử sao không thận trọng giữ mình?”. Chúa còn trách
Tôn Thất Trung về tội không bẩm mệnh.
Trung cúi đầu tạ tội, sau đó đã
hết lời khen ngợi thế tử. Chúa thượng
cười và nói: “Trước kia, tiên quân ta
đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng
lại như thế. Ta không lo gì nữa…” Nói xong, chúa
trọng thưởng thế tử và đoàn thủy
binh rất hậu… Trong
thời gian kế nghiệp chúa, Hiền
Vương Nguyễn Phúc Tần được coi là
người rất chăm chỉ chính sự, biết
trọng người tài, xa rời nữ sắc. Dưới
thời chúa, vào năm 1656, Nguyễn Hữu Dật và
Nguyễn Hữu Tiến đã kéo quân ra đánh
Trịnh, tạm chiếm được 7 huyện
ở Nghệ An. Sau đó mới rút quân về. Và
kể từ đó, chiến tranh Trịnh – Nguyễn
kéo dài từ lâu đã được chấm
dứt. Năm Quý
Tỵ (1653), vua nước Chiêm Thành mang quân sang
đánh phá Phú Yên, chúa sai quân đi đánh dẹp.
Đổi vùng đất từ Phan Rang trở ra làm
Thái Ninh phủ và đặt dinh Thái Khang để coi
việc cai trị. Năm Kỷ
Mùi (1659) Dương Ngạn Địch là một tướng
cũ của triều Minh, bất phục nhà Thanh, cùng
với Trần Nhượng Xuyên đem hơn 3.000 quân
vào đóng tại cửa bể Tư Dung xin thuần
phục. Chúa bèn phong cho họ quan chức, rồi cho vào
khai hoang vùng Đông Phố (Gia Định); Lộc Dã
(Đồng Nai) và Mỹ Tho. Cùng với số di dân
từ miền Trung vào miền Nam, họ đã lập
nên phố xá đông đúc ở các vùng đất
mới. Nhân dân trong vùng có sự giao lưu thương
mại với thuyền buôn của nhà Thanh, các nước
Tây phương và Nhật Bản. Cùng
trong thời gian Hiền Vương trị vì,
nhiều vùng đất mới được mở
mang. Các kênh
Trung Đan, Mai Xá được khơi đào. Bờ
cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa thực
hiện chính sách bớt lao dịch, giảm thuế khóa… Nguyễn
Phúc Tần là người có tình cảm sâu
nặng. Sách Nam Triều công nghiệp diễn chí tr.
613 chép: “Từ khi thái phu nhân Chu thị qua đời.
Hiền Vương buồn rầu thương
tiếc, mắt lệ ít khi khô, bữa ăn thường
bỏ dở, đêm nằm, vẫn đặt chung
đôi gối như khi thái phu nhân còn sống, các
mỹ nhân trong cung không mấy khi được
gần…” (sđd, tr. 613). Chúa
ở ngôi 39 năm, thọ 68 tuổi. Tôn
Thất Thọ Chú thích: * Về
thời gian trận đánh, Đại Nam thực
lục ghi là vào năm Giáp Thân (1644), còn Lê Quý Đôn
trong Phủ Biên tạp lục và GS Dương Kỵ
trong Việt Sử khảo luận thì ghi là năm Quý
Mùi (1643). Cũng theo GS Dương Kỵ; năm trước
đó (1642) quân Hà Lan đã một lần đem quân
vào Nam đánh chúa Nguyễn, nhưng lần đó chúng
thua to. Lần sau, mặc dù chuẩn bị kỹ hơn,
nhưng kết quả lại còn tệ hơn năm
trước! Tài
liệu tham khảo: – Đại
Nam thực lục, T1, QSQTN, Nxb Giáo Dục, 2007. |