Dũng tướng Đại Việt đánh bại quân Nguyên Mông 2 lần trên đất Triều Tiên, ông là ai? |
Có bài thơ rằng: “Sông Đằng một dải dài ghê (Bạch Đằng Giang Phú – Trương
Hán Siêu) Lịch sử như ḍng sông dài
cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự
tích, chiến công, thành bại của cả một dân
tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá
nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai c̣n lưu
tâm đến những huy hoàng của quá khứ,
những tinh hoa của cổ nhân hay những bài
học sâu sắc từ ngàn xưa? Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đă đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn c̣n rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quư độc giả một góc nh́n mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nh́n chuyện nay, tự đúc rút cho ḿnh những trải nghiệm riêng. ·
Chuyên
đề “Lịch sử Việt Nam” Lịch sử hay nhắc đến nhà
Trần với 3 lần thắng quân Mông Cổ như
một thần tích. Nhưng ít ai biết là trên
xứ Cao Ly xa xôi, một dũng tướng Đại
Việt cũng đường hoàng đánh bại quân
Nguyên Mông đến 2 lần. Đó chính là hoàng
tử Lư Long Tường. Hàn Quốc hay Cao Ly ngày xưa là một xứ sở
xinh đẹp và có nền văn hóa lịch sử
rất đáng ngưỡng mộ. Trong thời đại
ngày nay, họ đă thành công khi phần nào khôi
phục văn hóa cổ và định h́nh văn hóa
hiện đại, đồng thời c̣n xuất
khẩu văn hóa “Made in Korea” ra khắp thế giới. Những chàng trai cô gái Hàn Quốc xinh tươi trong các
series phim truyền h́nh trở nên vô cùng nổi
tiếng và hút khán giả, đặc biệt ở
Việt Nam. Hưởng ứng theo làn sóng hâm mộ các nam tài
tử Hàn Quốc, chúng tôi xin gửi đến quư
độc giả câu chuyện độc đáo
về “Bạch mă Hoàng
tử” thật sự ở Cao Ly nhưng lại đến
từ Việt Nam khoảng… 800 năm trước. Chúng tôi đang kể về Hoàng
tử Lư Long Tường (李龍祥, Hàn
ngữ: 이용상/ Yi Yong-sang). Ông là hoàng tử
triều Lư nước Đại Việt, sau trở
thành Hoa Sơn Tướng
quân (Hwasan Sanggun) nước
Cao Ly và là ông tổ của ḍng họ Lư Hoa Sơn
(Hoa Sơn Lư thị) ngày nay tại Hàn Quốc. Từ Đại Đô Đốc
Hải Quân đến người tỵ nạn
xứ Cao Ly Lư Long Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ bảy của vua Lư Anh Tông
(trị v́ 1138-1175) và Hiền phi Lê Mỹ Nga. Ông
được ban chức Thái sư Thượng trụ quốc,
Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng
thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô
đốc hải quân, tước Kiến B́nh vương. Ông là em trai vua Lư Cao Tông và là chú của Lư
Huệ Tông. Với tư cách là con vua
Anh Tông, em trai vua Cao Tông, chú Huệ Tông nên có
thể nói Lư Long Tường là một trong những
hoàng thất quan trọng có vai vế vào hàng cao
nhất của nhà Lư. Ông lại nắm trong tay
lực lượng trên biển hùng mạnh nhất
trong khu vực thời bấy giờ, đó là hạm đội hải quân
nhà Lư (trú đóng tại Đồ
Sơn). Nhưng cuộc đời vốn không như là mơ,
một vị hoàng thất tôn quư quyền uy như
vậy cũng không thoát khỏi số phận
trầm luân trong thời khắc biến động
của lịch sử. Năm
1225, Trần Thủ Độ
lật đổ nhà Lư bằng cách đưa cháu là
Trần Cảnh vào hầu Lư Chiêu Hoàng, dàn xếp
để Trần Cảnh lấy Lư Chiêu Hoàng và nhường
ngôi để lập ra nhà Trần. Sau đó Trần Thủ Độ
tiến hành tàn sát con cháu nhà Lư, buộc con cháu nhà Lư đổi
qua họ Nguyễn, đày con cháu nhà Lư đi lên
vùng núi non hiểm trở phía bắc. Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ
hai đời vua Thái Tông nhà Trần), để
bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng
tổ tiên, Lư Long Tường đă bí mật về
Kinh Bắc, vái lạy tạ biệt lăng miếu
Đ́nh Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài
vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ
Sơn cùng sáu ngàn gia
thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra
biển Đông trên ba hạm đội. Vậy là hoàng tử nhà Lư
đă trở thành một trong những thuyền nhân
tỵ nạn đầu tiên của nước ta.
Trần Thủ Độ lên ngôi,
Lư Long Tường bái tạ đất Việt
rồi lưu vong. (Ảnh: Youtube) Điềm lành đến từ phương
Nam Cuộc hành tŕnh rời bỏ quê hương không bao
giờ là dễ dàng. Đó không phải là những
chuyến ra khơi đánh cá, cũng không phải
những cuộc viễn chinh huyền thoại của
Lư Thường Kiệt, tuy vất vả nhưng sau
đó đều khải hoàn quay về. Đoàn thuyền chiến
gồm 3 hạm đội từng lừng lẫy
biển cả năm xưa giờ phải tháo
chạy vô định trên biển, không biết ngày
mai sẽ ra sao. 52 tuổi nhưng
vẫn phải đem cả gia quyến lưu lạc,
mỗi khi nghĩ về cố hương, ḷng của
vị hoàng tử đô đốc vẫn quặn lên
từng hồi, v́ nỗi nhớ quê và v́ không
biết ngày mai điều ǵ đang chờ đợi
ông và đoàn quân vong quốc này. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn
thuyền gặp băo lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lư
Long Tường quyết định lên đường
th́ một chuyện buồn khác lại đến, con
trai ông là Lư Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại đảo Đài
Loan cùng 200 gia thuộc. Sau nhiều tháng lênh đênh trên
biển, cuối cùng đoàn thuyền bị băo
dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh
Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly. Trời đúng là không tuyệt đường con người,
một điềm trùng hợp kỳ lạ báo trước
số phận của đoàn người nhà Lư đă
diễn ra ngay trước khi họ đến vương
quốc Cao Ly. Đất nước Cao Ly lúc này đang dưới
thời Cao Ly Cao Tông
(trị v́ 1213–1259) là
vị vua thứ 23 của Cao Ly trong lịch sử
Triều Tiên. Ông là con trai duy nhất của Cao
Ly Khang Tông và Nguyên Đức Vương hậu,
được Thôi Trung Hiến đưa lên làm vua,
nguyên danh là Vương Hạo, tự Thiên Hựu. Dù lên ngôi năm 1213, vua Cao Tông không có nhiều quyền
lực cho đến khi các quân sư đầy
quyền lực bị giết hết. Năm 1216, Đế quốc Khiết
Đan xâm lược nhưng đă bị đánh lui.
Nhưng
quốc gia lại đứng trước nguy cơ xâm
lăng của một kẻ thù c̣n mạnh hơn
gấp bội, đó là người Mông Cổ. Vị vua trẻ Cao Tông đầy hùng
tâm tráng chí đang rất đau đầu khi
quốc gia c̣n yếu, không thể có vị đại
tướng tài ba giúp ông chống ngoại xâm. Ông trời đă mỉm cười với Cao Tông, vào
đêm nọ ông nằm mơ thấy một con chim phượng
hoàng cực lớn bay đến từ phương
Nam và đậu xuống bờ biển Cao Ly.
Điềm lành từ phượng
hoàng báo mộng cho Lư Long Tường ở xứ Cao
Ly. (Ảnh: medium.com) Thấy giấc mơ quá lạ, ông kể lại cho
quan chiêm tinh của ḿnh nghe, các quan nghe xong rồi
đều đồng loạt tâu rằng: “Xin chúc mừng hoàng thượng.
Phượng Hoàng là vua của loài chim, c̣n có nghĩa
là ḍng dơi hoàng tộc cao quư và mang điềm lành.
Nay nó đậu xuống nước ta nghĩa là
bệ hạ là vị Thiên Tử được ḷng
Trời, nên ông Trời cho chim Phượng đến,
cũng có nghĩa là thời gian ngắn sắp
tới sẽ có người tài giỏi thuộc ḍng
dơi cao quư đến từ phương Nam, không
phải phía Nam của nước ta (Cao Ly) mà là đến
từ một quốc gia phía Nam. Người này
chắc là mănh tướng mà bệ hạ đang mong
chờ”. Cao Tông nghe vậy mừng rỡ vô cùng,
liền xuống chiếu cho người đi t́m
khắp nơi. Trùng hợp vào thời điểm
đó, hạm đội lưu vong của Lư Long Tường
cũng vừa cập bến Cao Ly. Thông qua bút đàm và đàm
thoại bằng Hán tự mà Lư Long Tường có
thể tŕnh bày thân thế và sự việc của ḿnh,
và cũng qua giấc mộng nói trên nên vua Cao Ly
lệnh cho chính quyền địa phương
tiếp đón ân cần, và đồng ư cho Lư Long Tường
ở lại dung thân. Tại đây Lư Long Tường cùng
tướng sĩ, gia thuộc trồng trọt, đánh
cá, chăn nuôi. Triều Lư là triều đại huy
hoàng của Đại Việt, phát triển vượt
bậc cả văn trị lẫn vơ công, nên Lư Long Tường
lại càng là vị vơ tướng tài kiêm văn vơ. Cảm cái ân tri ngộ của vua
Cao Tông, ông đem hết những sở học đắc
ư cả đời mở ra để dạy cho dân
xứ này, mong muốn biến họ thành một dân
tộc lễ nghi văn vơ như triều Lư vào
thời hoàng kim. Do đó ông mô phỏng theo cách
thức nhà Lư, cho mở độc thư đường
dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và
giảng vơ đường dạy vơ (binh pháp, vơ
thuật). Học tṛ theo học rất đông, lúc nào
cũng trên ngh́n người. Kể từ thời
đại này măi đến vài trăm năm sau,
hầu như những danh tướng danh thần
phần lớn đều xuất thân từ các ngôi
trường này. Đây quả là điềm lành và món quà từ Thiên
thượng dành cho vua và dân Cao Ly vậy.
Lư Long Tường cập
bến Cao Ly dùng những kiến thức và kinh
nghiệm có được, mở Độc Thư
Đường. (Ảnh: Pinterest) Hai lần
chiến thắng quân Nguyên Mông Lịch sử hay nhắc đến
nhà Trần với 3 lần thắng quân Mông Cổ như
một thần tích. Nhưng ít ai biết là
trên xứ Cao Ly xa xôi kia có một dũng tướng
Đại Việt cũng đường hoàng đánh
bại chính diện quân Nguyên Mông đến 2
lần. Đó chính là hoàng tử tỵ nạn Lư Long
Tường. Vào năm
1225, dưới triều vua Cao Tông (trị v́
từ 1213-1259), vị vua thứ 23 của nhà Cao Ly,
Đế quốc Mông Cổ gửi sứ giả
đến Cao Ly yêu cầu cống nộp nhưng Cao
Ly từ chối, đồng thời c̣n giết
chết sứ giả của Mông Cổ là Trứ
Cốc Dư (Chu-ku-yu). Năm 1232, Đại
hăn Oa Khoát Đài (Ogotai) đem quân tiến đánh
Cao Ly bằng hai đường thủy bộ. Về đường thủy, quân Nguyên Mông vượt
biển tiến đánh tỉnh Hoàng Hải nhưng
bị Lư Long Tường lănh đạo tướng sĩ,
gia thuộc và quân dân địa phương đẩy
lui. Khi ra trận, ông thường cưỡi ngựa
trắng mặc áo giáp trắng bào trắng đôn đốc quân sĩ,
nên nhân dân gọi ông là Bạch
Mă Tướng quân. Nói vui một chút, bản thân ông cũng
từng là hoàng tử, chẳng lẽ nào xưng
hiệu “Bạch Mă Hoàng Tử” xuất hiện
từ đây? Chỉ có điều là hơi trái
với mơ ước thực tế của chị
em về một anh chàng trẻ trung lịch lăm, tướng
quân Lư Long Tường vẫn oai hùng lịch lăm nhưng
năm đó đă 58
tuổi rồi. Nhà Nguyên nổi tiếng với các
chiến dịch trên bộ nhưng sau này đă phát
triển thêm thủy quân để tấn công các nước
như Đại Việt, Cao Ly, Nhật Bản. Lúc
ấy lực lượng gửi đến Cao Ly cũng
là lực lượng hùng mạnh ghê gớm. Xứ
Cao Ly thời đó hải quân không mạnh lắm,
vậy v́ sao trong thời gian ngắn lại có thể
đánh bại quân Nguyên Mông cường như
thế? Điều này có được hoàn toàn
nhờ công của Lư Long Tường. Cũng cần nhấn mạnh
một chút là, xét về khả năng chiến đấu
của Hải quân th́ Hải quân nhà Lư thời đó
là không có đối thủ ở châu Á (lục quân
cũng không kém khi có thể đánh bại nhà
Tống xâm lược). Nước mạnh nhất châu Á thời đó là nhà
Tống cũng chịu nhục khi Lư Thường
Kiệt ngang nhiên mang hải quân viễn chinh hoành hành
vô địch ngay trong lănh thổ Tống ở Khâm Liêm
2 châu. V́ thế Lư
Long Tường khi ấy là Đại Đô Đốc
Hải Quân, ông đă đem đi 3 hạm đội
mạnh nhất gồm 6000 thủy thủ và gia
thuộc, đó là những tinh anh trong Hải quân nhà
Lư. Cái cần thiết nhất để xây dựng
hải quân tinh nhuệ chính là lực lượng
thủy thủ ṇng cốt tinh thông hải chiến và
một vị đô đốc cùng bộ chỉ huy
chuyên tác chiến biển xa. Lư Long Tường đă
đem cả hai thứ này dâng lên cho vua Cao Ly, đồng
thời lại thành lập giảng vơ đường
chuyên đào tạo vơ công và binh pháp cho sĩ quan
cả thủy lẫn bộ.
Sự hung hăn của quân Mông. (Ảnh: khoahoc.tv) Quân Nguyên Mông cay cú không phục nên
lại đánh phục thù lần nữa vào 21 năm sau. Nhưng có lẽ người Việt Nam trời sinh là
khắc tinh của dân du mục Mông Cổ, quả
đúng là: “Địa chuyển
ngă Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu
cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lư. Tạm dịch: “Đất mà
chuyển dân Việt ta sống phương Bắc, vó
ngựa Mông Cổ không thể tung hoành châu Âu ngàn
vạn dặm. V́ đụng phải khắc tinh vĩ
đại nhất lịch sử của ḿnh nên Nguyên
Mông đành phải nuốt hận lần nữa dù
kẻ địch của chúng đă gần 80
tuổi. Năm 1253, Đại hăn Mông Ca
lại đem quân đánh Cao Ly lần thứ hai. Quân Nguyên Mông
do Đường Cơ chỉ huy tấn công Hoàng
Hải cả đường thủy lẫn đường
bộ. Lư Long Tường lănh
đạo quân dân trong vùng chống trả quân Nguyên
Mông suốt 5 tháng ṛng. Các đệ tử và tướng
lănh quân dân trong vùng bằng binh pháp của Đại
Việt do ông truyền dạy đă đánh cho quân
giặc nhiều trận thua đau. Quân Mông Cổ
hết cách bèn bày mưu ám sát ông, chúng giả
vờ giảng ḥa, tặng ông năm ḥm vàng bạc
châu báu lớn để làm lễ vật, nhưng chúng
cho thích khách núp ở bên trong để khi mở ḥm
ra là ám sát. Đoán biết âm mưu của
giặc, ông cho người khoét lỗ ḥm rồi
đổ nước sôi vào, cả năm tên thích khách
bị “luộc” chín, sau đó ông cho xe trả quân
giặc. Quân Mông Cổ không c̣n cách nào khác
và đă thua quá nhiều nên v́ thế phải xin
được rút về nước và lập đàn
thề không xâm lược Cao Ly. Nơi quân Mông
Cổ đầu hàng được gọi là Thụ hàng môn và vua Cao Ly cũng cho
lập bia tại đây để ghi công ông (di tích này
hiện nay vẫn c̣n). Sau chiến công này, vua Cao Ly đổi
tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, phong Lư Long Tường
làm Hoa Sơn Quân hay Hoa Sơn Tướng Quân (Hwasan Sang Gung)
ban cho vùng Hoa Sơn làm thực ấp để sinh
sống và thờ cúng tổ tiên. Kể từ đó
đă bắt đầu huyền thoại của
một trong những ḍng họ cổ xưa và danh giá
nhất Hàn Quốc – Hoa
Sơn Lư Thị. Vinh hoa phú quư
như mây nổi, quê nhà đau đáu mỗi
chiều về Bản thân lập đại công
được phong tước vị, gia tộc định
cư hưởng vinh hoa phú quư đời đời
ở Cao Ly, những tưởng Lư Long Tường
sẽ hài ḷng với những ǵ đă đạt
được những năm tháng cuối đời
nơi xứ người. Nhưng trong ḷng ông, dẫu
có xa xôi cách trở th́ nỗi nhớ quê nhà vẫn
thắt ruột mỗi chiều về. Sống ở Hoa Sơn, Lư Long Tường
đặt hiệu là Vi
Tử Động. Mục đích ra đi của Lư
Long Tường là để giữ việc thờ cúng
tổ tiên như trường hợp Vi Tử đời
Ân đă làm, nên ông đặt hiệu là Tiểu
Vi Tử và nơi ở là Vi
Tử Động. Tại đây ông cho xây một ngôi
đ́nh làng y như kiểu đ́nh làng ở quê hương.
Hàng năm vào dịp Tết và hội, người Lư
Hoa thôn dù đi làm ăn xa khắp lănh thổ Cao Ly cũng
trở về làng ăn Tết, cũng có “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Cây
nêu tràng pháo bánh chưng xanh” như phong tục Đại Việt. Khi dân làng cúng lễ dâng hương
tại đ́nh th́ vị tiên chỉ mở Quốc
phả ra đọc cho con cháu nghe về nguồn
gốc của người Lư Hoa thôn. Ba hồi chuông,
trống âm vang trong không khí thiêng liêng. Sau khi dâng hương,
người dân Lư Hoa thôn khấn vái, đầu
phủ phục trước đ́nh, hướng
về phương Nam cố quốc. Phong tục
ấy được nối tiếp đời đời
qua nhiều thế hệ. Tại Hoa Sơn có một ngọn núi cao nhất
gọi là Quảng Đại
Sơn. Tương truyền rằng ngày ngày lăo tướng
quân Lư Long Tường dẫu tuổi cao sức
yếu nhưng vẫn lên đó ngóng trông về phương
Nam mà khóc. V́ thế, ngọn núi mang tên “Vọng Quốc Đàn” hay “Vọng
Cố Hương”. Có lẽ kế thừa t́nh
cảm yêu quê hương da diết từ vị
tổ Lư Long Tường, mà các thế hệ con cháu
họ Lư Hoa Sơn luôn hướng về quê cha đất
tổ. Ngày nay trên đại lộ từ phi trường Gimpo về thủ đô
Seoul, du khách được chiêm ngưỡng pho tượng
Bạch Mă Tướng Công do chính phủ Hàn Quốc xây dựng từ thập niên
1960.
Dù là vương của xứ
người nhưng trong ông nỗi nhớ quê hương
lúc nào cũng trong ḷng. (Ảnh: ĐKN) Gia tộc
truyền thừa 800 năm, nhân tài lớp lớp Lư Long Tường có hai người
con trai trên đất Cao Ly, sau này đều làm quan
cho triều đ́nh. Hậu
duệ của Lư Long Tường là một danh gia
vọng tộc ở Hàn Quốc, từng nhiều
đời làm quan to trong triều, được ca
ngợi là những người trung nghĩa. Khi
triều đại ở Cao Ly thay đổi, trong
họ có hai vị hiền sĩ về quê quy ẩn,
không ra làm quan với triều đại mới,
giữ ḷng trung với vua cũ, được sử
sách Cao Ly ngợi khen là tiết liệt. Đặc biệt trong ḍng họ có
Tổng thống Lư Thừa Văn – vị Tổng
thống đầu tiên của Đại Hàn Dân
Quốc. Trong chuyến viếng thăm Sài G̣n ngày 6/11/1958
ông đă nói: “Tổ tiên tôi là người Việt
Nam đấy”. Câu nói này hồi đó được
báo chí Sài G̣n đăng tải rầm rộ trên
trang nhất. Ông chính là cháu đời thứ 25
của Lư Long Tường. Gia phả của họ Lư Hoa Sơn
lại chia làm hai nhánh rẽ. Trải qua cuộc chiến Triều Tiên
năm 1950 – 1953,
một nhánh đi từ Hoa Sơn xuống Hàn Quốc
ngày nay, định cư tại vùng Andong và BongHwa
(gần thành phố DaeGu) có khoảng 4.000 người.
Nhánh c̣n lại ở Bắc Triều Tiên c̣n
khoảng 1.500 hộ. “Bao giờ
rừng Báng hết cây, Tào khê hết nước, Lư
nay lại về” Lời sấm truyền hàng trăm
năm đă được ứng nghiệm sau 768
năm kể từ ngày Lư Long Tường đặt
chân lên Cao Ly. Rừng Báng giờ đă thành đồng
ruộng xanh ngắt, ng̣i Tào Khê giờ cạn trơ
không c̣n nữa, cũng đă đến lúc những
cánh chim xa quê được quay trở về với
quê cha đất Tổ. Ngày 18/5/1994, Lư Xương Căn – hậu duệ đời
thứ 31 chính là người họ Lư đầu tiên
làm được “sứ mệnh tổ tiên” –
đă làm lễ cúng bái tổ tiên ở nơi thờ cúng 8 vị vua nhà Lư – ở TX. Từ Sơn,
Bắc Ninh. Năm 2000, ông Lư Xương Căn đă đưa
cả gia đ́nh gồm cụ thân sinh (Lư Khánh Huân),
vợ và 3 con về Hà Nội sinh sống. Cậu con
trai út sinh ra vào năm ông về thăm quê nên đặt
tên là Lư Quốc Việt. Ngoài gia đ́nh ông Lư Xương Căn,
một hậu duệ khác nổi tiếng tại Seoul
là ông Lư Hy Luận
(Chủ tịch cộng đồng họ Lư xuất
thân từ Hoa Sơn), cựu Tổng giám đốc
Tập đoàn xây dựng lớn Booyoung
lẫn tham gia Tập đoàn công nghiệp chế
tạo Hyundai cũng có
nhiều đóng góp xây dựng kinh tế ở
Việt Nam. Năm 2003, Chủ tịch tập
đoàn tài chính Golden Bridge (tức
Cầu Vàng) Lư Tường
Tuấn, một hậu duệ của Lư Long Tường
sang Việt Nam, về đền Đô bái yết
tổ tiên. Năm 2006, ông thành lập văn pḥng đại
diện ở Hà Nội. Năm
2008 ông được vinh danh là một trong
những nhà tài trợ lớn nhất của châu Á.
Quang cảnh Đền Đô ngày
nay. (Ảnh: Wikipedia) Lời
kết: Dân gian có câu: “Phúc đức
tại mẫu”, họ Lư Hoa Sơn thịnh vượng
suốt 800 năm cũng là có lư do của nó.
Triều Lư lập quốc trong lúc nước nhà
rối ren nhưng Thái Tổ vẫn quyết dời
đô ra Thăng Long, xác lập nền đại
thống cho ngàn đời sau. Dẫu quốc gia c̣n
nhiều khó khăn, các đời vua Lư từ cha
đến con vẫn cai trị hết sức nhân
từ và tận tâm, ngoài ra c̣n ra sức hoằng dương
Chính Pháp, dùng đức hạnh của bản thân ḿnh
làm gương cho thiên hạ, chính
tín Thần Phật, sống đời đạo
đức, khiến cho ngàn vạn dân được
ấm no an lạc, nhà nhà sống cuộc đời yên
vui. Nền tảng mà họ Lư đă gây dựng ấy,
đến ngày nay dân ta vẫn c̣n phải nhớ
ơn. Đức hạnh của
họ đâu chỉ ban ân cho con dân Đại
Việt, chỉ một người cháu 7 đời
của Thái Tổ cũng khiến cho toàn dân Cao Ly
được phúc khỏi xâm lăng, lại c̣n
dạy dỗ cho binh lính và vua quan được khai sáng
tâm trí cả văn lẫn vơ. Ai đă dùng bản thân ḿnh làm gương, 80 tuổi
vẫn xông pha nơi tiền tuyến? Ai cả đời
thờ vua cúc cung tận tụy không màng phú quư vinh
hoa, đến chết vẫn không lúc nào quên h́nh
ảnh quê nhà? Chính lối sống, đạo đức và tâm
nguyện xuyên suốt từ Thái Tổ đến Long
Tường mà ghi dấu son cho Lư Triều cũng như
tạo nên phúc ấm suốt 800 năm đằng
đẵng cho Hoa Sơn Lư
Gia vậy. Hăy đọc câu lưu bút của
hậu duệ đời thứ 31 khi lần đầu
tiên về Việt Nam, chúng ta sẽ cảm nhận
được tinh thần này của họ Lư và
hiểu được nguyên do hưng thịnh lâu dài
của họ. “Cháu chắt xin thề nguyện không làm điều ǵ
tổn thương đến vong linh tổ tiên
bằng cả tinh thần và sứ mệnh đặc
biệt” – lưu bút của ông Lư Xương Căn (Chủ tịch Ủy ban Người
họ Lư gốc Việt ở Hàn Quốc) ghi trong sổ lưu niệm
tại đền Lư Bát Đế năm 1994. Tĩnh Thuỷ |