Lư Thường Kiệt Phá Tống B́nh Chiêm 1069-1076 |
|
Lư Thường Kiệt Phá Tống B́nh Chiêm 1069-1076 Lư Thường Kiệt Phá Tống B́nh
Chiêm 1069-1076 Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư
Tiệt Nhiên Định Phận Tạ Thien Thư Như
Hà Nghịch Lỗ Lai Xâm Phạm. Nhữ Đẳng Hành
Khan Thủ Bại Hư Một
nhà sử thần đă phải cảm thán về Lư
Thường Kiệt như thế này: “Đường
đường chính chính đem quân vào nước người,
khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân
về không ai dám đuổi theo, như trận đánh
Ung Liêm này thật là đệ nhất vơ công”. Lư
Thường Kiệt (1019 – 1105) là nhà quân sự, nhà
chính trị nổi tiếng, một thái giám đời
nhà Lư, làm quan qua 3 triều vua Lư Thái Tông, Lư Thánh Tông
và Lư Nhân Tông. Ông nổi bật với việc chinh
phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâu, Ung, Liêm
(1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược
Đại Việt của quân Tống (1077). Ông
đă làm tể tướng hai lần dưới
thời Lư Nhân Tông và là một trong 3 người
phụ chính khi vua này c̣n nhỏ tuổi. Theo nhận xét
của “Đại Việt sử kư toàn thư” nhà
của ông nối đời làm quan, trú ở phường
Thái Ḥa của thành Thăng Long.. Từ nhỏ Lư Thường
Kiệt đă tỏ ra người có chí hướng
và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện
cả văn lẫn vơ, từng nghiên cứu về
binh pháp. Pḥng
thủ bằng cách tấn công Thời
bấy giờ ở phương Bắc, nhà Tống
đang phải đối mặt với sự uy
hiếp của các bộ tộc hùng mạnh là Đại
Liêu, Tây Hạ, Khiết Đan… Cộng thêm chính sách
cải cách thiếu hiệu quả trong nước
của tể tướng Vương An Thạch, các
cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tiếp
dấy lên.. Đứng trước tính h́nh đó,
Tống Thần Tông và Vương An Thạch đă
vạch ra một kế hoạch xâm lăng Đại
Việt chi tiết ḥng giảm áp lực, lấy
lại uy tín, đồng thời khiến hai nước
Hạ, Liêu phải kiêng nể ḿnh. Năm
1075, lợi dụng việc vua Lê Thánh Tông mới băng
hà, vua Lư Nhân Tông c̣n bé mới vừa lên ngôi,Vương
An Thạch tâu với vua Tống là Đại Việt
vừa bị Chiêm Thành đánh phá, quân c̣n sót
lại không đầy vạn người, có thể
dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống
sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu
ngầm dấy binh người Man động, đóng
thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu
huyện không được mua bán với Đại
Việt. Biết
trước kế hoạch xâm lược của quân
Tống nhờ tin t́nh báo, Lư Thường Kiệt,
đă nghĩ ngay đến biện pháp pḥng
thủ rất đặc biệt. Ông tâu với vua
Lư Nhân Tông:“Ngồi im đợi giặc chi
bằng đem quân đi trước để
chặn thế mạnh của giặc”. So
với Tống, rơ ràng, nước ta là nước
nhỏ. Vậy v́ sao Lư Thường Kiệt có
thể nghĩ đến một giải pháp mạo
hiểm như vậy? Bởi v́ lúc đó Lư Thường
Kiệt cho rằng nội t́nh nước Tống
đang rối ren, cương giới bị một
số nước lân bang uy hiếp, triều đ́nh
th́ chia rẽ sau những cải cách mạnh tay
của vị tể tướng trẻ Vương An
Thạch. Đó là cơ sở để quân ta có
thể tiến hành một cuộc tấn công chớp
nhoáng dằn mặt quân địch. Sau
khi phân tích, Lư Thường Kiệt dự đoán quân
Tống có thể đi vào nước ta theo hai
đường, trong đó, nhánh đường
bộ có thể lấy châu Ung (Nam Ninh – Quảng Tây),
c̣n nhánh đường thuỷ có thể lấy châu
Khâm, châu Liêm (Quảng Đông) làm cứ điểm
tập kết binh, lương. V́ vậy, mục tiêu
tấn công mà ông chuẩn bị nhắm tới là ba
thành trên với nhiệm vụ đốt phá kho lương
và tiêu diệt sinh lực địch. Vào
tháng 10/1075
diễn ra cuộc tiến công “tiên phát chế nhân”
nổi tiếng lịch sử Việt Nam. Lư Thường
Kiệt và các tù trưởng Tông Đản, Thân
Cảnh Phúc chỉ huy 10 vạn quân, chia làm 2 đạo
thuỷ bộ bí mật tiến vào đất
Tống.Bí mật và bất ngờ,40.000 quân
thủy cùng voi chiến đi đường biển
từ châu Vĩnh An đổ bộ lên đánh các châu
Khâm, châu Liêm. Ngày
30/12/1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành
châu Khâm, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống mà không
phải giao chiến một trận nào.
Ba ngày sau, 2/1/1076,châu Liêmcũng thất thủ.Từ
châu Liêm, ông đưa quân sang châu Ung, hợp với cánh
quân bộ tiêu diệt thành châu Ung, mục tiêu
cuối cùng và quan trọng nhất của cuộc hành
quân. Thành châu Ung bị hạ sau 42 ngày vây hăm. Lư Thường
Kiệt cho quân huỷ hết các kho tàng và lương
thực của giặc rồi nhanh chóng thu quân
về nước. Quân
Tống từ kẻ chủ mưu tiến công xâm lược
bỗng nhiên bị đẩy vào t́nh thế thất
trận ngay từ khi chuẩn bị kéo quân.Khi
được tin hai châu Khâm, Liêm đă mất, nhà
Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng
ở địa phương bối rối. Ty kinh lược
Quảng Nam tây lộ vội vă xin viện binh: 20.000 quân,
3..000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và
một tháng lương, và xin được điều
động các dân khê động, tất cả
lấy dọc đường từ Kinh châu đến
Quảng Tây. Để điều khiển quân
được mau chóng, Ty ấy cũng xin dời
đến thành Tượng, gần phía bắc Ung châu. Chiến
thắng áp đảo trong cuộc hành quân chế
địch của Lư Thường Kiệt đă
tạo ra nhiều yếu tố tác động
mạnh mẽ đến cục diện cuộc xâm lược
của quân Tống. Chiến thắng làm người
dân Việt nức ḷng, buộc địch phải kéo
dài thời gian chuẩn bị và đặc biệt
đẩy quyền chủ động sang tay quân dân
nhà Lư. Không những bảo toàn được binh
lực, tiêu diệt sinh lực địch, đẩy
địch vào t́nh thế bị động, cuộc
tấn công phủ đầu của Lư Thường
Kiệt c̣n nâng cao sĩ khí. Cuộc
tấn công đă đạt được nhiều
mục đích hơn cả một cuộc pḥng
thủ thông thường. Cho quân lui về nước,
nắm thế chủ động trong tay, Lư Thường
Kiệt bắt tay vào triển khai một thế
trận mới. Ông cho chuẩn bị binh lực, pḥng
bị và thiết lập pḥng tuyến sẵn sàng nghênh
địch. Trận
chiến sông Như Nguyệt Sau
sự thất thủ chóng vánh của các thành Ung châu,
Khâm châu và Liêm châu, vua quan nhà Tống vạch lại
kế hoạch và chuẩn bị thật kỹ càng
cho một trận phục thù. Với mục đích
“sau khi b́nh được Giao Châu (tên Tống
gọi Đại Việt), sẽ đặt châu
huyện như ở nội địa”. Tháng
3 năm 1076,
nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách
Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó,
đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và
Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng
quân Chiêm Thành và Chân Lạp nào dám tiến vào Đại
Việt. Quân Tống viễn chinh lên đến 10
vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi
vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ,
nhất là kỵ binh Tống. Để
toàn tâm tập trung cho cuộc đối đầu
với quân Tống ở mặt Bắc, triệt tiêu
mưu đồ xúi giục Chiêm Thành và Chân Lạp
quấy rối nước ta của triều đ́nh
nhà Tống, Lư Thường Kiệt đưa quân vào
tuần tra, trấn áp khu vực biên giới phía nam
Đại Việt. Đoán
biết mục tiêu thứ nhất của quân Tống
là chiếm phá kinh thành Thăng Long, phá lâu đài,
cung điện. Lư Thường Kiệt cho xây
dựng một pḥng tuyến kiên cố bên bờ nam sông
Như Nguyệt – sông Cầu ngày nay. Không chỉ
là một hào nước lớn tự nhiên bảo
vệ kinh thành Thăng Long và lăng miếu nhà Lư,
con sông này án ngữ tất cả các tuyến
đường đi từ Quảng Tây tới Thăng
Long.. Ngoài ra, trước thành đất và cọc
tre dày đặc đó, Lư Thường Kiệt
lại cắt đặt thêm thuỷ quân, sẵn sàng
tiếp chiến với quân địch nếu chúng
vượt sông. V́ thế cho nên, chỉ việc vượt
qua sông cũng là cả một thử thách nhọc
nhằn đối với quân địch. Để
chặn bước tiến của thuỷ quân địch,
Lư Thường Kiệt giao cho Lư Kế Nguyên chỉ
huy một đội thuỷ quân đợi sẵn
ở Đông Kênh (dải nước ven biển
giữa đất liền và các hải đảo vùng
biển Đông Bắc nước ta), đường
tiến vào cửa Bạch Đằng. Có thể
thấy, thuỷ binh sẽ là lực lượng ṇng
cốt triển khai thế trận ấy. Ngoài
sự đắc địa của khúc sông Như
Nguyệt, chắc chắn thế trận thuỷ binh
của vị tướng 58 tuổi này xuất phát
từ một thực tế mà ông biết rơ ràng
rằng, không giỏi thuỷ chiến là một nhược
điểm trầm trọng của quân Tống. Vậy
là, với thế trận vững chắc ấy, quân
dân nhà Lư chỉ c̣n chờ giặc đến. Đẩy
quân giặc vào thế tiến thoái lưỡng nan Cuối
năm 1076, 10
vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa
chiến cùng 20 vạn dân phu do Quách Quỳ và
Triệu Tiết chỉ huy ồ ạt tiến vào nước
ta. Để tiến thêm và đánh những đ̣n
chí tử vào đại quân nhà Lư rồi chiếm
kinh thành Thăng Long, quân của tướng Quách
Quỳ phải vượt qua khúc sông và pḥng
tuyến Như Nguyệt vô cùng kiên cố. Quân
Tống lúng túng. Bản thân chúng không quen với
thuỷ trận. B́nh
thường, quân Tống không có sẵn thuỷ binh
hay các chiến thuyền. Và điều quan trọng lúc
này, đội thuỷ quân thiếu chuyên nghiệp
của quân Tống đang “mắc cạn” tại
Đông Kênh v́ bị quân của Lư Kế Nguyên
chặn đánh thua đến hơn 10 trận và không
thể tiến sâu thêm. Sự bất lực
của thuỷ quân Tống vô h́nh trung đă khiến
cuộc tiến công của Quách Quỳ lao đao.. Hạ
trại trên bờ bắc sông Như Nguyệt mà măi
thuỷ quân chưa đến, Quách Quỳ quyết
định cho quân vượt sông. Nhưng cả
hai lần vượt sông không những đều
thất bại mà c̣n bị tổn thất nặng
nề về người v́ gặp phải sự
chống trả ác liệt của quân nhà Lư. Sau
nhiều lần cố sức vượt sông nhưng
thất bại ấy, Quách Quỳ thất vọng ra
lệnh: “Ai bàn đánh sẽ chém” và từ thế
tiến công chuyển sang thế pḥng ngự. Quân sĩ
Tống v́ thế mà ngày càng nhụt nhuệ khí,
lại cộng thêm với khí hậu phương nam
vốn không hợp với người phương
Bắc nên chết dần chết ṃn. Cùng
lúc đó thuỷ binh Tống do Ḥa Mân và Dương
Tùng Tiểu chỉ huy đă bị thủy quân
Đại Việt do Lư Kế Nguyên điều động,
chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân
Tống có kỵ binh mở đường tiến công
quyết liệt, có lúc đă chọc thủng
chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như
Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời
phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lư Thường
Kiệt c̣n dùng chiến tranh tâm lư để khích
lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. Ông đang
đêm sai người tâm phúc đọc vang bài thơ
“Nam quốc sơn hà” trong đền thờ Trương
Hống, Trương Hát, khúc sông Như Nguyệt : Nam
quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư Đang
đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài
thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân
Tống sợ, không đánh đă tan. Cuối
mùa xuân năm 1077, Lư Thường Kiệt mở
cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của
địch. (Ảnh: wikipedia.org)
Quân
Tống tiến không được, thoái không xong, hao
ṃn v́ chiến sự và khí hậu, không được
thủy quân tiếp viện. Quân
Đại Việt lại tập kích, doanh trại
của phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù
quân Tống cũng giết được hai tướng
Đại Việt là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân
Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần. Nắm
thời cơ đó, cuối mùa xuân năm 1077, Lư
Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn
vào trận tuyến của địch. Đang
đêm quân Lư lặng lẽ vượt sông Như
Nguyệt, bất ngờ đánh thẳng vào các doanh
trại giặc. Chúng lâm vào t́nh thế hết sức
khó khăn tuyệt vọng, mà người Việt
bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn
thất, nên sai sứ sang xin “nghị hoà” để
quân Tống rút về. Quách
Quỳ vội chấp nhận giảng ḥa và rút quân. SáchViệt
Sử kỷ yếucủa Trần Xuân Sinh dẫn
cổ sử nói về nội t́nh của nhà Tống
về sự kiện này: Triều thần nhà Tống
cho rằng“Cũng may mà lúc đó địch lại
xin giảng hoà, không th́ chưa biết làm thế nào”. Sử
thần nhà Lê trung hưng Ngô Th́ Sĩ, trong sách
Việt sử tiêu án, đă ca ngợi Lư Thường
Kiệt như sau: “Nước
ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều
lần, từ vua Nam Đế trở về trước,
việc đă lâu rồi, sau này vua Ngô Tiên Chúa
đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành
đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tông
đánh đuổi được Toa Đô, Thoát
Hoan, những trận được vẻ vang đó là
câu chuyện hănh diện của nước ta, nhưng
đều là giặc đến đất nước,
bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. C̣n
đến đường đường chính chính
đem quân vào nước người, khi đánh không
ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám
đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này
thật là đệ nhất vơ công, từ đấy
người nước Tàu không dám coi thường chúng
ta, đến những đồ cống, h́nh
thức thơ từ, không dám hà trách, chỉ sợ
lại sinh ra hiềm khích. Đến
thơ từ của nước ta đưa cho Trung Hoa
chỉ dùng có hai tấm ván sơn đen, liệt tên
vài vị đại thần dùng ấn tín Trung thư
môn hạ mà đóng vào, thế th́ triều Lư
được trịch với Tống nhiều
lắm”. Chân Tâm |
|