VĂN HÓA VIỆT NAM LÀ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM |
(LTG.
Bài viết dưới đây vốn là một lá thư
điện tử (email) nhằm trao đổi hạn
chế trong một nhóm bạn hữu nhân những
bức xúc với sự kiện quân Tàu đỏ
chiếm các đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của ta. V́ là một lá thư viết tức
thời, không được chuẩn bị như
một bài nghiên cứu nghiêm túc, và v́ chỉ
được viết trong cảm hứng ngay lúc
đó, không có điều kiện đào sâu, không có
tư liệu tham khảo nên nội dung bức thư
rất sơ sài hời hợt, chỉ mong là một
gợi ư nho nhỏ để nhiều bạn suy nghĩ
và tự ḿnh nghiên cứu làm rơ tính độc đáo
của nền văn hóa Việt Nam. Đây là một
vấn đề rất lớn, nằm ngoài khả năng
của người viết – nếu muốn viết
một cách thấu đáo. Trong bài viết in lại
ở đây, người viết chỉ đặt
cho nó một tựa đề, ghi thêm vài chú thích, và
sửa một vài câu chữ chưa rơ ư nhưng
giữ nguyên tính chất một bức thư trong
đó người viết không tự dấu cái tôi
của ḿnh đi như cách thông thường khi
viết những đề tài nghiên cứu. TK) * H́nh minh hoạ lănh thổ Tàu hiện nay Vào
năm 1978, nhân đọc cuốn sách "Từ và
vốn từ tiếng Việt hiện đại"
của tác giả Nguyễn Văn Tu, dường như
bấy giờ là giáo sư ngôn ngữ học ở Hà
Nội, tôi thấy trong đó tác giả liệt kê
nhiều từ tiếng Việt hiện đại
được cho là từ gốc Hán hay từ Hán
cổ, trong số đó có hai từ "Vua" và
"Bố". Tôi ngạc nhiên quá, và bắt đầu
suy nghĩ về chuyện này. Sau đó ít lâu, tôi
đọc thấy trên báo Kiến Thức Ngày Nay, ông
An Chi c̣n đi xa hơn, khi trả lời một độc
giả, ông cho tất cả - đúng là tất cả
- những từ tiếng Việt cha mẹ chú bác cô d́
cậu mợ... vân vân, nghĩa là những từ
chỉ vị trí họ hàng trong gia tộc mỗi người
Việt Nam, đều là từ gốc Hán cả,
nếu không từ đời Đường th́ cũng
là từ đời.... mật! Tôi mở sách
"Việt Nam Văn Hóa Sử Cương"
của cụ Đào Duy Anh, thấy vị học
giả vĩ đại ấy nói rằng "... v́
khi ta tiếp xúc với Trung Hoa th́ văn hóa của
họ đă phát triển rực rỡ mà văn hóa
của ta rất chất phác thấp hèn (sic!)," tôi
thấy lạnh cả người. Tôi tưởng như
ḿnh bị đánh trúng một cú nốc ao vào
giữa mặt. Từ Stalin th́
đă đành là phải học, và có thể người
ta phải cúi đầu xuống [ ] để có
được “Tiếng đầu ḷng con gọi Xít-ta-lin”.
Nhưng lẽ nào ta phải học cả những
từ rất căn bản để biểu thị
ta là người, và được cha mẹ ta sinh ra,
là những từ “cha, mẹ…”?Không có từ cha
mẹ, tức là ta không có cha mẹ – tức là c̣n
sống kiếp thú vật. Không có vua, tức là c̣n
trong trạng thái mông muội ăn lông ở lỗ,
chưa có tổ chức xă hội. Thế th́ trong
những điều kiện đó làm sao ông cha ta có
thể có được một nền văn hiến
bốn ngàn năm rất đổi tự hào? Ta
bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa
để học những từ thân thiết và sang
trọng ấy từ bao giờ? Lần tiếp xúc
đầu tiên và sớm nhất là khoảng hai ngàn rưỡi
năm trước đây. Vậy
ra câu nói rất tự hào trên đầu môi mỗi
người Việt Nam về "Bốn Ngàn Năm Văn
Hiến" của dân tộc ḿnh là một câu nói
dối vĩ đại ư? Hoặc
là tiền nhân của chúng ta đă nói dối về
bốn ngàn năm văn hiến do một sự
tự hào dân tộc vô lối, hoặc các ông
Nguyễn Văn Tu và An Chi lập lại những
lời của bậc thầy của các ông là nhà
ngữ học Tàu Vương Lực, từ đó gián
tiếp thừa nhận nguồn gốc văn hóa
của ta là do người Tàu "dạy dỗ." Vào
thời gian đọc được những điều
không vui này tôi đang cùng gia đ́nh sống rất
chật vật cuộc sống nông dân trên núi
rừng, nhưng tôi thấy "ức" quá, nên lao
vào "nghiên cứu" thử xem Ta Là Ai. V́ cuộc
sống của tôi quá khó khăn, và không có điều
kiện tiếp cận một nguồn tư liệu
tham khảo nào quan trọng, cho nên "công tŕnh"
ảo tưởng của tôi đành phải bỏ
dở. Bây giờ sau gần ba mươi năm, tôi không
c̣n nhớ được nhiều những ǵ ḿnh
đă học được từ "công tŕnh"
đó, nhưng tôi vẫn c̣n nhớ một số nét
chính, xin tŕnh bày để các bạn cùng suy nghĩ
xem những người chủ trương như nói
trên đă đóng góp công lao như thế nào trong
việc quân Tàu đỏ cướp đất đai
của tổ quốc ta. Theo
tài liệu lịch sử, tổ tiên chúng ta tiếp
cận người Tàu lần đầu tiên là
thời kỳ sứ giả của nước
Việt Thường đến thăm triều đ́nh
nhà Chu thời vua Chu Thành Vương, cách đây
khoảng hai ngàn rưởi năm (do tôi chỉ "nói
mép" không có tư liệu nào trong tay nên không
biết rơ năm tháng chính xác). Đây là một
sự kiện có ư nghĩa rất lớn với tŕnh
độ văn minh của người Việt. Tôi không
nhớ người Tàu đă "vượt Hà"
nghĩa là vượt qua sông Hoàng Hà để
tiến xuống Hoa nam vào năm nào, nhưng theo
một số sử liệu mà tôi c̣n nhớ, cách
đây ba ngàn năm người Tàu chưa tiến
xuống đến Sơn Đông, họ c̣n ở
đâu trên vùng Thiểm Tây Cam Túc, tây bắc nước
Tàu, là vùng đất khởi nguyên của họ.
Giữa ta và nước Tàu thời nhà Chu c̣n có
nhiều quốc gia khác. Thế th́ việc sứ
giả của nước Việt Thường chủ
động vượt qua các quốc gia khác với
nhiều ngàn cây số đến giao hảo với
họ trong điều kiện địa lư và
hiểu biết về địa lư của người
Việt vào thiên niên kỷ thứ nhất trước
công nguyên, là cả một kỳ tích vĩ đại
trong lịch sử văn minh. Hai bên phải qua
nhiều lần phiên dịch mới hiểu được
nhau. Sách lịch sử nói thế. Nếu thời
đó ta cũng nói tiếng Tàu "gốc" như
họ, sao lại phải qua nhiều lần phiên
dịch? Một
số sử gia của ta nhắm mắt nhại
lại sách Tàu rằng nước Việt Thường
khiếp sợ oai danh của nhà Chu nên sai sứ đến
cống, và rằng sứ giả Việt Thường
không biết đường về nên được
triều đ́nh Chu Thành Vương tặng cho
chiếc xe có kim chỉ nam để t́m đường
về nước. (Thật buồn cười, các
sứ giả Việt Thường đă tự ḿnh
đi qua bao nhiêu quốc gia khác, đến được
triều đ́nh nhà Chu mà lại không biết
đường về!) Nếu
các nhà viết sử ấy đừng có tinh thần
nô lệ, chịu khó suy nghĩ một chút ắt
thấy rằng cái nước Tàu ấy ở quá xa ḿnh
như thế th́ liệu họ làm ǵ được
nhau mà phải sợ họ đến vậy? Cho
tới thế kỷ hai mươi họ vẫn chưa
có ... phi cơ như B52 của Mỹ kia mà! Và nếu
các sử gia ấy của ta tự đặt ḿnh vào
vị trí triều đ́nh nhà Chu, ắt họ
phải thấy tự thẹn với sứ thần
của nước Việt Thường về sự
thua kém của họ. Phương cách chữa thẹn
của họ là ǵ nếu không phải lôi của báu
trong nhà ra để khoe? Và họ đă khoe kim chỉ
nam. Chỉ đơn giản có vậy thôi. (Về sau
chính người Tàu sai sứ đi thám hiểm và
giao thiệp với nhiều quốc gia xa xôi khác, và
đến tận Châu Mỹ, th́ họ có sợ ǵ ai
mà phải đi… nộp cống đâu!) Và
sự việc nói trên XÁC NHẬN KHOẢNG HAI NGÀN RƯỞI
NĂM TRƯỚC ĐÂY TA VĂN MINH KHÔNG KÉM
CẠNH G̀ TÀU SAU NÀY. (Nhưng nền văn
minh cổ sơ đó không phát triển được
là do nhiều hoàn cảnh khốc liệt của
lịch sử mà ai cũng biết.) Sự
tiếp xúc văn hóa với Tàu chỉ thực sự
diễn ra vào đời Hán, nghĩa là khoảng đầu
Công Nguyên, nhất là sau khi ta bị Tàu đô hộ ([1]).
(Trước đó, quân Tần – nước Tần
- có sai quân đi đánh Giao Chỉ và bị người
Giao Chỉ đánh bại và giết cả tướng
Tư lệnh của họ là Đồ Thư. Không
lẽ giặc nó đánh ta và ta giết nó mà cũng
kể là... tiếp xúc văn hóa ư?) Tên
tướng Mă Viện báo cáo với triều đ́nh
nhà Hán rằng phong tục tập quán (tức văn
minh) của người Việt "khác người Tàu
mười điều". Theo ông B́nh Nguyên Lộc,
"khác mười điều" là hoàn toàn khác,
như đen khác trắng, nước khác lửa. C̣n
theo một số nhà viết sử nệ Tàu th́ khác
mười điều có nghĩa là... khác mười
điều. Chỉ khác mười điều thôi, c̣n
lại ta là... Tàu!([2]) Một
khi "khác mười điều” là khác tất
cả, hoàn toàn khác, th́ sao ta lại là Tàu về
mặt văn hóa được? Một số
những điều khác nhau có tính bản chất
về văn hóa giữa ta và Tàu thời cổ c̣n
được sách vở ghi nhận sờ sờ ra
đó, mà sao nhiều người cứ không
chịu nh́n thấy nhỉ? Đây
là một số nét chính nhớ đâu nói đó, không
theo tŕnh tự hay logic nào: 1.
-Trong khi người Tàu gọi con trai của vua là hoàng
tử, con gái của vua là công chúa, nếu tổ tiên
của ta học theo văn hóa Tàu th́ tại sao các Vua
Hùng lại nhất định không cùng gọi như
thế với "thiên triều" mà đặt ra
những từ Quan Lang và Mị Nương để
gọi con trai và con gái của vua? Đó chẳng qua
tổ tiên chúng ta có một nền văn minh và văn
hóa riêng, chẳng “dính” ǵ đến văn hóa Tàu
cả. 2.
-Từ đời nhà Chu của Tàu, chế độ
“tông pháp” đă phát triển rất mạnh mẽ
và áp dụng rất chặt chẽ trong toàn xă
hội, đề cao vị trí quan trọng một cách
tuyệt đối của đàn ông trong gia đ́nh và
trong xă hội. Đó là một nền văn hóa
phản ánh cuộc sống du mục, trong đó người
đàn bà Tàu không có vai tṛ nào trong cuộc sống, mà
chỉ là “vật phụ thuộc” của ba người
đàn ông. Khi c̣n ở gia đ́nh chịu quyền
chỉ huy của cha, khi lấy chồng chịu
quyền điều khiển của chồng, chồng
chết, chịu sự chỉ đạo của con
trai. Đến
thể kỷ đầu Công nguyên ở nước
ta, hai bà Trưng và về sau nữa là bà Triệu lănh
đạo các cuộc kháng chiến của nhân dân
đánh giặc ngoại xâm. Điều đó nói lên
cái ǵ? Nói rằng cho đến lúc đó văn hóa
của người Việt Nam vẫn là văn hóa nông
nghiệp, với tàn dư của chế độ
mẫu hệ trước đó, trong đó người
phụ nữ giữ vai tṛ rất quan trọng trong gia
đ́nh – nội tướng. Câu “Nhất vợ nh́
trời” tuy có vẻ đùa cợt một cách cường
điệu, nhưng nó phản ánh đúng vị trí
người “nội tướng” trong chế độ
mẫu hệ của người Việt. Từ
vị trí nội tướng lănh đạo trong gia
đ́nh, họ dễ dàng và nghiễm nhiên trở thành
“ngoại tướng”, lănh đạo toàn dân trong
những t́nh huống dầu sôi lửa bỏng
của quốc gia. (Vơ Tắc Thiên của Tàu tuy là
một người đàn bà tài hoa thao lược,
đến những nhân tài như Địch Nhân
Kiệt, Trần Tử Ngang… phải khấu đầu
phủ phục, nhưng không có được vị
trí tôn kính trong ḷng người dân Tàu, và măi bị
coi là “quân cướp ngôi, soán đoạt”, là “gà
mái gáy” thuộc giới người … không qua đầu
ngọn cỏ mà thôi.) 3.
Trong khi văn hóa tông pháp của người Tàu du
mục chủ trương vua là con trời, từ
đó “quân xử thần tử… phụ xử
tử vong…” (vua và cha là trời, đă bắt
chết th́ bề tôi và người con phải
chết mới đúng đạo lư của họ), và con
vua mới được làm vua, con săi ở chùa đi
quét lá đa, th́ văn hóa nông nghiệp Việt
Nam nhu ḥa nói rằng “Được làm vua thua làm
giặc” – chẳng qua chuyện tranh giành ngôi
vị quyền lực ấy mà, có “thiên mệnh” ǵ
đâu! Rồi con phải hơn cha th́ nhà
mới có phúc, đất nước mới từ
đó mở mang văn minh thịnh vượng theo
kịp thời đại. Người Tàu th́
chồng “phán” vợ phải tuân theo (phu xướng
phụ tùy), c̣n người Việt th́ nhất
thiết phải “thuận vợ thuận chồng”
th́ bể nào cũng tát cạn, không cứ chỉ
bể Đông. 4.
Trong các triều đại Tàu nhan nhản nhũng trường
hợp anh em chém giết nhau, con giết cha, và cha
mẹ giết con (tiêu biểu là Đường Minh
Hoàng hạ lệnh giết một lúc ba đứa con
trai của ông ta mà không hối tiếc! và bà Vơ
Hậu nói trên kia cũng giết những đứa
con ruột không nghe lệnh “thiên tử” của bà
mà chẳng chút chồn tay). Trong 24 chuyện hiếu
của Tàu có chuyện cực kỳ dă man vô nhân
đạo là vợ chồng Quách Cự (?) chôn
sống đứa con của ḿnh để dành
phần ăn của nó nuôi ông bà nó. Trong truyện (dă
sử) của Tàu mỗi khi mô tả những nạn
đói kém hay trong thành bị vây lâu ngày luôn luôn tác
giả viết rằng “nhà nhà đổi con cho nhau
để ăn thịt”. Và từ “hắc
điếm” mà người Việt chúng ta biết
đến là từ đâu mà ra nếu không phải
từ những truyện Tàu trong đó đầy
dẫy những pḥng trọ giết khách lữ hành
để lấy thịt làm nhân bánh bao? Ai có
thể t́m ra được những chuyện như
thế trong văn hóa văn học Việt Nam? Trong
lịch sử Việt Nam ngoài trường hợp cá
biệt của Lê Long Đĩnh, một kẻ bại
họai mất nhân tính([3])
nhưng không hề phản ảnh tính chất tàn
bạo chính trị như các vua Tàu, người ta
thấy Nguyễn Hàm Ninh đă “mắng” vua Tự
Đức v́ giết Hồng Bảo (chớ không
phải như các quan Tàu đều cho việc cốt
nhục tương tàn là … cần thiết để
“an thiên hạ” – kể cả việc Đường
Thái Tông Lư Thế Dân giết anh là Kiến Thành v́
tranh giành quyền lực và sau đó chiếm đọat
luôn người vợ của anh). Một trường
hợp khác trong lịch sử Việt Nam gần
giống hoàn cảnh Lư Thế Dân, nhưng Vua
Trần Thái Tông cùng An Sinh Vương Trần Liễu
đă ôm nhau mà khóc. Cái tước “An Sinh Vương”
nhà vua phong cho người anh ruột ḿnh há chẳng nói
rơ quyết tâm của nhà vua không thể nào làm người
đứng đầu thiên hạ mà coi thường t́nh
cốt nhục đó sao? Trong những sự
việc đó văn hóa Tàu đứng ở đâu?
Sao ta lại phải học từ họ để
biết ai là cha mẹ? Ta
chỉ chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu sau khi
đă tiếp xúc và sống chung lâu dài với sự
cưỡng bức tiếp nhận văn hóa của
họ. Nhiều sử gia nhất trí rằng ta
chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu nhiều
nhất bắt đầu từ đời Lê. Nhưng
đời Lê th́ gần đây, mới sáu bảy trăm
năm thôi. Cứ giả sử ta đă chịu
ảnh hưởng văn hóa Tàu ngay từ thời nhà
Tần cử tên tướng úy là Đồ Thư
sang xâm lược nước ta và y để cái
đầu của y lại làm tin và làm mốc cho các
thế hệ tướng Tàu về sau theo đó đến…
nộp đầu, th́ thời gian đó đến nay
cũng chỉ dưới hai ngàn rưỡi năm. Và
nếu vậy, từ đó trở về trước,
tổ tiên chúng ta chưa có tiếng Tàu để
gọi cha mẹ chú bác cô d́, th́ hẳn là … chưa
có tổ tiên người Việt! Hay họ c̣n là
những … con tinh tinh đi bốn chân chưa có
tiếng nói? Và nếu từ đó về trước
tổ tiên ta chưa được văn hóa Tàu
dạy cho từ “Vua” th́ có nghĩa là tổ tiên chúng
ta c̣n ăn lông ở lỗ, chưa có tổ chức
xă hội? Thử
hỏi, một dân tộc cho đến hai ngàn rưỡi
năm trước đây, chưa có từ để
gọi cha mẹ ông bà, chú bác, cô d́, anh chị em… và
chưa có tổ chức xă hội, th́ làm sao lại có
“Xưng nền văn hiến đă lâu… Phong
tục bắc nam cũng khác”? (Nguyễn Trăi – B́nh
Ngô Đại Cáo). Làm sao có được một
nền văn hiến đến bốn ngàn năm? Các
kết quả nghiên cứu khảo cổ học đă
xác nhận nền văn minh của người
Việt rất rực rỡ vào thời đại
đồ đồng cách đây hơn bốn ngàn năm.
Có thể nào tổ tiên ta đă có văn minh văn
hiến từ bốn ngàn năm trước mà
phải đợi một ngàn rưởi năm sau
để được người Tàu dạy cho các
khái niệm xă hội (Vua), và dạy cho tiếng để
gọi người đẻ ra ḿnh!? Thế mà có
những người “thông thái” của chúng ta đọc
thiên kinh vạn quyển đă cả quyết như
vậy đó. Ấy là thầy của họ, nhà ngôn
ngữ học Vương Lực nổi tiếng
của Tàu đă “phán” như thế theo đúng ư
đồ chính trị của Mao Trạch Đông, th́
họ phải tuân theo như thế. Rồi có người
c̣n đi xa hơn, cả quyết danh hiệu của mười
tám đời Hùng Vương đều là…
tiếng Tàu, như Hùng Định Vương, Hùng
Ninh Vương…vân vân! Như thế từ bốn ngàn
năm trước tổ tiên ta đă nói tiếng …
Tàu, ngay trước khi họ biết trên đời này
có người Tàu. Sự
giao tiếp văn hóa phải là hai chiều, chỉ
những kẻ đầu óc nô lệ tối tăm
mới tin chuyện văn hóa một chiều từ…
trên thiên triều rót xuống. Nếu ta nhất
nhất học của Tàu, học từ tiếng
gọi cha mẹ trở đi, nghĩa là ta là học
tṛ ruột ngoan ngoăn của chúng th́ hà cớ ǵ
mỗi lần xâm lược nước ta chúng đều
có chủ tâm và chính thức t́m mọi cách để
hủy diệt nền văn hóa của ta. Ta nhất
nhất học của chúng th́ ta có ǵ khác chúng đâu
để khiến chúng phải sợ hăi và tàn sát
cho kỳ hết mới thôi? Các
kết quả khảo cổ học cho thấy hơn
bốn ngh́n năm trước tổ tiên ta có nền
văn hóa riêng, cũng xán lạn không thua kém văn hóa
Tàu thời đó([4]).
(Bằng chứng là chúng có học của ta – it ra là
có trao đổi qua lại). Ta chỉ thua kém chúng v́
chúng là nước lớn quá (và là một dân
tộc … tiểu nhân quá – sẽ nhớ chi tiết
này để nói sau), luôn ŕnh rập tàn hại ta, và
không lúc nào để ta được yên, kể
cả khi giới lănh đạo hèn nhát của ta
đầu hàng và xưng thần với chúng rồi,
và nhất là v́ chúng ta có những kẻ có đầu
óc thờ Tàu, luôn luôn thủ vai “thấp hèn” trước
chúng. …. Khi
làm công việc “nghiên cứu” văn hóa Việt Nam
một cách cảm tính và… nghiệp dư kiểu “điếc
không sợ súng”, tôi đă “phát hiện” một
số điều có thể không làm cho các học
giả nhếch mép (v́ có thể là không mới
lạ ǵ) nhưng có thể có người … ôm
bụng cười, cho là tôi dốt nát, không chịu
đọc sách của Vương Lực. Đó là,
trong khi họ nói tiếng “Bố” của người
Việt là âm cổ của từ “phụ” (là cha)
trong tiếng Tàu, và từ “Vua” tiếng việt là
âm cổ của từ “Vương” (Chỗ này tôi
không nhớ chính xác – sau ba mươi năm rồi
mà – nhưng tinh thần đại khái như
thế), th́ tôi lại thấy ngược lại.
Chữ ‘Bố” (布) được
viết lối Tàu với nghĩa là cha (như trong
chữ Bố Cái Đại Vương 布 蓋 大 王 chẳng hạn) là một TỪ VIỆT
được phiên âm: người Tàu dùng mặt
chữ “bố” (布 nghĩa
là “vải”) đă có sẵn trong văn tự
của họ để gán cho một từ mới
họ mới học được của người
Việt. Người Tàu rất thích vẽ.
Họ “vẽ” chữ của họ. Nhưng với
những âm ngoại quốc mà họ đă có chữ
rồi, th́ họ mượn chữ có sẵn để
dùng cho tiện. Ví dụ chữ "Vạn" (萬) họ vẽ h́nh con... bọ
cạp được dùng cho từ "vạn"
với nghĩa là mười ngàn. Nếu không
vậy, sao “bố” là cha mà lại vẽ ra là…
vải (布)? (trong khi, nếu tôi nhớ không sai, sách Thuyết Văn
Giải Tự giải thích chữ “phụ” (父) là vẽ h́nh hai tay người cha cầm roi để
dạy con.) Một điều buồn cười là
những nhà thông thái “nệ Tàu’ của chúng ta dường
như … không thấy buồn cười khi, theo ư
họ, trong bốn chữ “Bố Cái Đại Vương”
người Việt xưa dùng tiếng Việt (Cái)
để chỉ Mẹ, và dùng “ngoại ngữ”
Bố (theo họ là tiếng Tàu cổ) để
gọi cha. Cho sang chăng? – Không phải vậy đâu.
Bố, cũng như Cái, là những từ tiếng
Việt – Cả bốn chữ “Bố Cái Đại
Vương” đều là tiếng Việt, tuy
bản thân tôi chưa giải thích được
nguồn gốc tiếng Việt của từ “Đại”
(大) trong Đại
Vương (大 王). Tôi
cho từ VƯƠNG (王) là
một từ “thuần Việt”, của người
Việt với nền văn minh nông nghiệp, cho nên
nghĩa nguyên thủy của nó không phải là Vua theo
khái niệm của chúng ta ngày nay. Do chữ Vương
được viết theo lối Tàu với ba
vạch ngang và một vạch dọc ở giữa,
nối liền ba gạch ngang, nhiều người
đồng ư với nhau rằng, chữ Vương
đó là tượng trưng cho người “nối
thông tam tài Thiên - Địa – Nhân.” Vậy, Vương
là một hiền giả, một nhà minh triết
của nền văn minh nông nghiệp. Vương có
thể được tôn làm người lănh đạo
một tổ chức hoặc một thể chế
của người Việt – tôi nhấn mạnh là
của người Việt – như vai tṛ tù trưởng
bộ lạc chẳng hạn, nhưng chủ yếu
đó là một hiền nhân, một thức giả,
một người lănh đạo tinh thần, chớ
không phải chỉ là một nhà lănh đạo chính
trị (tù trưởng hay Vua), và có vị trí tinh
thần cao hơn nhà lănh đạo chính trị. Ai
muốn căi chỗ này cứ tha hồ căi, nhưng rơ
ràng từ xưa người Tàu hiểu và biết chính
xác ư nghĩa và XUẤT XỨ của từ Vương
này, và họ cũng biết địa vị xă
hội của vị được gọi là Vương
đó. Họ biết rơ VƯƠNG không hề là khái
niệm của dân tộc họ. Vương là
một tôn hiệu mang một khái niệm ngoại lai
đối với họ. Nói rơ hơn họ nhận
lấy từ vương đó của người
Việt. Tôi có thể hàm hồ nói đại
rằng Vương là của dân tộc Việt Nam
trong Bách Việt, chớ không phải của chung Bách
Việt. Có bạn nào thấy “ức” như tôi trước
đây, cứ việc nghiên cứu để làm sáng
tỏ. Tại
sao tôi cả quyết người Tàu biết rơ Vương
không phải là của họ? Bởi v́ họ quá
biết đó là một khái niệm ngoại lai, không
phù hợp với tinh thần văn minh du mục đề
cao người lănh đạo đoàn thể xă
hội và chính trị, cho nên họ không dùng. Tất
cả các vua Tàu lớn bé trong lịch sử đều
xưng Đế, không ai xưng vương cả ([5]).
Con trai trưởng của vua được phong Đông
cung thái tử để nối ngôi đế. C̣n vương
chỉ là một tước hiệu để nhà vua
phong cho con trai thứ. Thử nghĩ mà xem, các ông con
trai thứ được phong tước Vương
ấy có đáng là người “nối thông tam tài
Thiên – Địa – Nhân” hay không? Có đứng trên
người lănh đạo thế tục không? (Người
ta cứ biết Khổng Tử là bậc Thánh vĩ
đại mà không được vua chư hầu nào
dùng – trong khi nhà Chu có tới tám trăm nước
chư hầu – mà không chịu nói v́ sao ông ấy không
được ai tin dùng: ông ấy thuyết giảng
Vương đạo, là thứ triết học
của văn hóa nông nghiệp, của người
Việt, xa lạ với họ, cho nên họ không dùng.
Ông ta chào hàng cái áo vương đạo rất
rực rỡ, nhưng nó… rộng quá, mặc không
vừa nên người ta không dùng chớ sao!). Nếu
Vương là tiếng Việt, thế th́ tại sao nó
được chính người Tàu viết ra,
bằng h́nh vẽ biểu ư đàng hoàng chớ không
phải chữ phiên âm “lơ mơ” như chữ
“Bố”? Ậy, tôi cho là thế này: họ vẽ
một cách “kiểu thức hóa” những thứ mà
vị Vương (hay nhà lănh đạo tinh thần
– và có thể là cả lănh đạo chính trị -
của xă hội người Việt) mang trên người
như một dấu hiệu để làm rơ chức
phận. Các bạn có để ư những tù trưởng
người da đỏ trong các phim Viễn Tây
của Mỹ có mang những răng nanh xương thú
trên ṿng cổ của họ không? Không phải là món
trang sức đâu. Nó cũng giống như phù
hiệu cấp bậc trong quân đội vậy. Các
tù trưởng bộ lạc của người
Việt cổ chắc cũng mang những thứ tương
tự như thế. Và người Tàu chỉ cần
vẽ cái “phù hiệu” ấy thôi là ai thấy cũng
hiểu ngay! Bạn thử “vẽ’ chữ Vương ra
một tờ giấy, gồm ba vạch ngang, vạch này
nằm trên vạch kia và cách rời nhau, rồi
vẽ một đường dọc ở giữa ba
vạch ngang đó để “xâu” chúng lại.
Bạn lật nghiêng cái h́nh vẽ cho h́nh ba vạch
ngang thành ba vạch thẳng dọc thử xem. Nếu
vẫn chưa tưởng tượng được
th́ bạn thử kéo dài cái vạch nối liền ba
vạch ngang và ṿng lại cho nó giáp mí với nhau xem.
Có phải nó giống cái ṿng cườm đeo
cổ đính nanh heo xương thú của người
da đỏ không? Bây giờ bạn xóa cái ṿng đi.
Và lật trở lại theo chiều hướng như
hồi mới vẽ: đó là chữ Vương,
vừa là một dấu hiệu nhận dạng,
vừa là một biếu tượng hàm ngụ
nội dung tinh thần. Vương tuy là chữ Tàu,
nhưng nó là một TỪ TIẾNG VIỆT. Do cái
vỏ chữ Tàu mà nó bị người Việt
từ chối, xô nó sang Tàu. Chớ bản thân người
Tàu không thích nó đâu. Một trong những bằng
chứng cụ thể nhất họ không chịu công
nhận nó là đây: Ai
học chữ Trung Quốc cũng biết người
Tàu có hai chữ Quốc để chỉ đất nước,
quốc gia. Một chữ quốc thông dụng mà người
học nào cũng biết là chữ Quốc “kép”
được viết với chữ “hoặc”
ở trong chữ “vi” mà có chỗ tường
giải lịch sử h́nh thành của nó như
vầy: Thoạt đầu người Tàu “vẽ”
khái niệm quốc gia của minh bằng hai vạch
ngang song song (二), ở giữa là một cái ô vuông. Hai
vạch tượng trưng trên là trời, dưới
là… băi chăn thả. Dưới trời và trên băi
chân thả là… người Tàu (cái ô vuông – chữ khẩu (口) – tượng trưng
cho người). Trong cuộc sống du mục họ
thường phải cạnh tranh giành băi chăn
thả của nhau, nên cần phải có vũ khí
để bảo vệ - và để xâm lăng. Cái
vạch ngang phía trên được vẽ thêm vài nét
thành một món vũ khí – cái qua. (戈) (Can qua (干戈) là cái qua và cái khiên,
hai món biểu tượng cho chiến tranh). Cụm h́nh
vẽ đó gọi là chữ “hoặc “
hay “hoắc,” (或) hàm nghĩa “có người”. Về sau, khi khái
niệm quốc gia phát triển lên một mức cao hơn,
họ vẽ thêm chữ “vi”, (囗) cái ô vuông to hơn,
bao bọc chung quanh chữ “hoặc” – như ṿng
thành bảo vệ chỗ “có người.” – Đó
là chữ Quốc “kép” (國) hàm nghĩa đất nước
của người du mục, có vũ khí để xâm
lăng và tự vệ. Trái
với chữ Quốc “kép” là chữ Quốc “đơn”
đơn giản hơn: một chữ vi (ṿng
thành) bao bọc lấy chữ Vương ta
nói ở trên, ngụ ư đó là đất nước
của dân tộc có khái niệm triết học
“nối thông tam tài,” không phải là đất nước
Trung Quốc của Tàu. Họ nói trớ rằng v́
đó là chữ Quốc “đơn” nên
họ không dùng. – Không dùng th́ sáng tạo ra để
làm chi? Họ sáng tạo ra chữ Quốc đó
chỉ với mục đích phân biệt cái quốc
gia văn minh nông nghiệp kia khác với quốc gia văn
minh du mục của họ. Và chỉ với mục
đích đó thôi. Theo
trí nhớ lơm bơm của tôi, trong cuốn sách Giai
Thoại Làng Nho của cụ Lăng Nhân th́ phải,
cụ kể một giai thoại trạng nguyên Mạc
Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu . Ông trạng của
ta họa lại một bài thơ của vua Tàu, trong
đó ông dùng chữ Quốc “đơn”, bị người
Tàu chê là phúc phận không nhiều. T́nh tiết giai
thoại không quan trọng lắm. Điều quan
trọng mà dường như ít người để
ư là vị trạng nguyên – nhất định là người
thông kim bác cổ - đă dùng chữ quốc “đơn”
không hề là chuyện ngẫu nhiên. Ông biết rơ và
tự hào về nền văn hóa của dân tộc ḿnh.
Khi hiểu như thế, đọc lại giai
thoại đó, ta sẽ thấy thú vị hơn. Năm
1949, trong khi cải tổ chữ viết họ nói
chữ Quốc “kép” nhiều nét
rắc rối, khó nhớ quá, phải đơn
giản thôi. Tuy vậy, họ vẫn không dùng chữ quốc
minh triết của người Việt. Họ
sửa nó bằng cách thêm một dấu chấm vào
cạnh nét sổ dọc của chữ Vương,
biến chữ Vương thành chữ ngọc (玉), ngụ ư, Trung Quốc (中国) là đất nước của
ngọc ngà (chớ không phải của Vương
đạo - Vương đạo là thứ của dân
tộc Việt thuộc văn minh nông nghiệp). Nhân
đây nói thêm một chữ nữa, được
người Tàu vẽ thành… chữ Hán nhưng theo tôi,
nó là một từ tiếng Việt thuần túy. Đó
là chữ “Gia” (家 - nghĩa là nhà)
có thể là âm cổ của từ nhà tiếng
Việt, chớ nó không phải là một từ Hán.
Trong chữ Hán, chữ gia được
vẽ h́nh một cái mái nhà (宀), phía dưới mái
nhà là một con heo (豕)
(Ngụ ư một … chuồng heo, hay một chuồng súc
vật.) Ai
cũng biết người du mục ở lều
chớ không ở nhà. Nhà là kiến trúc gắn
liền với văn minh nông nghiệp định cư.
Người Tàu (thượng cổ) không ở nhà.
Họ là người du mục. Cho nên ngôn ngữ
của họ không thể có từ Gia để
gọi cái mà họ vốn không có. Họ thấy người
Việt ở nhà, và họ vẽ h́nh cái nhà của
người Việt và ghi luôn âm của từ đó:
Đó là một cái nhà sàn, người
ở phía trên, ở dưới nuôi súc vật. Khi
chuyển sang định cư, người Tàu có
thể xây dựng nhiều kiến trúc to lớn và
sang trọng; tất cả những chữ dùng để
chỉ các loại kiến trúc đó của họ
đều được cung kính đặt dưới
một cái mái nhà (sản phẩm của nền văn
minh định cư nông nghiệp), nhưng trong ngôn
ngữ của người Tàu không hề có từ gia để
chỉ một cấu trúc con người cư trú
trong đó, như cái nhà của chúng ta. Gia là
một từ của người Việt về sau
biến thành âm nhà như hiện nay ([6]) Vân
vân… Khi
một nền văn minh vay mượn một đặc
tính nào đó từ một nền văn minh khác, th́
nền văn minh “cho vay” không thể “thấp hèn”
hơn nền văn minh người vay như cụ
Đào Duy Anh thoạt tưởng như thế. Khi
họ “mượn” của chúng ta các giá trị
tinh thần quan trọng (Vương, Bố) và
ghi nhận nền văn minh vật chất và xă
hội của chúng ta (Gia), th́ rơ ràng chúng ta không
thể chờ họ dạy để biết cách
gọi cha mẹ ông bà cô bác anh chị em ḿnh là ǵ, và
cách tổ chức xă hội để được
văn minh. Chỉ có những đầu óc “vọng
ngoại” một cách điên rồ và bệnh
hoạn mới có thể nghĩ như thế mà
cứ tự hào ḿnh nói có sách mách có chứng.
“Tận tín ư thư bất như vô thư” –
Thứ ǵ cũng dựa vào sách th́ thà đừng có
sách lại tốt hơn – nhất là sách của
một nhà ngôn ngữ học người Tàu coi
tiếng Tàu là cha đẻ các thứ tiếng “nhược
tiểu” khác. Vậy mà cũng nghe lấy được. Tàu
là quốc gia duy nhất trên thế giới này có
học thuyết (tuy không tập trung) về người
quân tử - tiểu nhân. Từ xưa đến nay
họ không ngớt đề cao người quân
tử. Tại sao vậy? Người ta thường
đề cao cái ḿnh không có, hay chưa có, như
một mục đích để vươn tới.
Đó là v́ trong nền triết học của họ
không có thánh nhân - người quân tử nối thông
tam tài. Những thánh nhân “tam hoàng ngũ đế”
chỉ là phịa theo kiểu “người tốt
việc tốt” như anh hùng Lê Văn Tám lấy thân
ḿnh làm ngọn đuốc đốt kho xăng Nhà Bè,
như anh hùng Ngô Mây ôm bom lao vào xe tăng địch.
Những anh hùng đó trên trời rớt xuống, không
để lại tăm tích “hộ tịch” nào,
giống như truyền thuyết Phù Đổng Thiên
Vương. Các thánh nhân quân tử của Tàu cũng
vậy. Một nước lớn đến thế,
luôn nói chuyện đạo lư quân tử, mà từ
giới lănh đạo đến người dân
của họ luôn làm những việc cực kỳ
tiểu nhân bỉ ổi như lén dời cột
mốc biên giới quốc gia vào sâu trong lănh thổ
Việt Nam vài… chục hay vài trăm thước
đất, hay t́m cách đóng cọc ở giữa ḷng
sông phân giới thế nào để bờ bên
Việt bị lở, bờ bên Tàu được
bồi thêm mỗi năm vài tấc đất. Khi bán
cho Việt Nam những con ốc tà vẹt đường
sắt, chúng in chữ của chúng lên đó. Khi
xảy ra xung đột, chúng cho những con ốc
đó là đồ viện trợ, đă tháo dở
mang về nước. Chúng từng mua rể hồi,
sừng đuôi móng trâu để tiêu diệt sản
vật quí của ta, và tiêu diệt sức kéo của
người nông dân nghèo Việt Nam… và nhiều
thứ chó chết nữa. Chúng luôn ḍm ngó t́m cách thôn
tính sông biển đất nước của tổ
quốc ta. Không hiểu giới trí thức Tàu có nh́n
ra cái nhục ti tiểu của dân tộc họ hay không? Chỉ
tiếc là chúng ta chưa có – và không biết bao
giờ mới có lại một Hoàng đế Quang
Trung. Thiếu
Khanh 1
tháng 5, 2008 [1] Một điều “ngẫu nhiên” đáng chú ư:
các khai quật khảo cổ học ở nước
ta phát hiện nhiều thanh gươm của người
Tàu trong các ngôi mộ cổ từ đời Hán
trở về sau. Vũ khí chính của người
Việt cổ là cái ŕu, chữ Hán gọi là cái
“việt”. Trong một chữ “Việt” (粵)để chỉ người Việt cổ, người
Tàu đă vẽ h́nh cái “việt” này. [2] Sử gia Nguyễn Phương, giáo sư Đại
học Huế, với tác phẩm Việt Nam thời
Khai Sinh cho rằng người Việt Nam là hậu
duệ của người Tàu! [3] Trong bài viết Chân Dung Lê Long Đĩnh trong
sách “Những Cuộc Đảo Chánh Cung Đ́nh
Việt Nam” (Toronto, Canada, 1999, và tác phẩm Việt
Sử Đại Cương (NXB Non Nước, Toronto,
Canada – 2004), sử gia Trần Gia Phụng đă
nhận định đây là một nghi án lịch
sử nhằm bôi lọ một vị vua trẻ
tuổi và có tài năng để nêu chính nghĩa cho
triều đại mới của nhà Lư. " ...Thực
chất Lê Long Đỉnh là một người
rất hoạt động. Ông luôn luôn thân
chinh cầm quân đi đánh dẹp khắp nơi.
Sách T̉AN THƯ và CƯƠNG MỤC đều ghi
lại rằng tháng 7 năm Kỷ Dậu ( 1009 ),
nhà vua c̣n tự cầm quân ra trận; nhưng 3 tháng
sau, vào tháng 10 năm kỷ dậu (1009 ), chẳng may ông
từ trần, th́ làm sao gọi ông là
"ngọa triều" ? (Trần Gia Phung,
Việt Sử Đại Cương, tr. 164, dẫn
theo Trần Công Nghị, email ngày 9 Mar. 2008) Cách
đây vài tháng, một nhà báo trong nước đă
lập lại luận cứ này trên báo Thanh Niên
ở Sài G̣n như là một “phát hiện” mới
mẻ của chính ḿnh! (TK ghi chú thêm – 30.12.2008) [4] Tổ tiên ta cũng có trống đồng đồng
thời với Tàu, nhưng trống đồng
của ta hoàn toàn khác từ kỹ thuật đúc
đến chất liệu đồng. Đó là chưa
kể có thuyết nói trống đồng là từ phương
Nam đưa lên phương Bắc [5] Trừ giai đoạn nhà Chu, nếu có điều
kiện sẽ đề cập vào một dịp khác. [6] Đến nay vẫn c̣n một số địa phương
ở miền Trung nước ta, từ Huế trở
ra, người ta vẫn c̣n phát âm từ Nhà là “jà”
(dà). |