Vương
Thông bó tay để đợi bại vong, giặc
đă trí cùng lực kiệt
Phần 7 |
Những
tướng lĩnh nổi danh đă thất bại
tại Đại Việt (P.7): Vương Thông bó tay
để đợi bại vong, giặc đă trí cùng
lực kiệt
Bài viết này không phải nhằm
mục đích hạ thấp các tướng lĩnh
đă từng có phen chiến bại trên dải đất
Đại Việt, mà chỉ là mượn chút uy danh
của họ để nêu bật lên sự huy hoàng
của các tướng sĩ nước Nam… Sau khi nhà Trần chiến thắng quân Mông
Cổ một cách oanh liệt, nhà Hồ kế vị
đă làm mất nước vào tay nhà Minh. Lần
đầu tiên sau hơn 400 năm độc lập, nước
ta một lần nữa phải trải qua 20 năm
Bắc thuộc vô cùng đen tối và tủi
nhục. Thế nhưng, vật cực tất
phản, “nhật nguyệt hối rồi lại
minh”, sau khoảng thời gian u ám nhất chính là ánh
b́nh minh huy hoàng. Sự quật khởi của
triều đại Hậu Lê của Lê Lợi đă
viết nên những trang sử oai hùng nhất của
dân tộc chúng ta. 7. Vương Thông (? – 1452)
Trong số các tướng lĩnh đă
từng chinh chiến ở Đại Việt, Vương
Thông có thể xem là một trong những người
đánh nhau lâu và nhiều trận nhất với quân
Lam Sơn. Nhưng bởi cầm binh ngay lúc quân Lam Sơn
đang đà quật khởi, Vương Thông đă
trở thành tổng binh đen đủi nhất
của nhà Minh khi kéo quân sang xâm lược tại nước
ta, với nhiều chiến bại thê thảm và
một kết cục không lấy ǵ làm vinh quang
lắm cho đời binh nghiệp của ḿnh. Ḍng dơi binh gia, sự nghiệp đang lên Vương Thông người Hàm Ninh,
tỉnh Hồ Bắc, nối nghiệp cha là Vương
Chân làm đô chỉ huy sứ; cha con đều theo
binh nghiệp lập nhiều chiến công, đều
được phong lên đô đốc. Sau khi cha
mất, Vương Thông được ban tước
Vũ Nghĩa bá, hưởng lộc ngh́n thạch,
được hưởng quyền thế tập. Năm Vĩnh Lạc thứ 7 (1409), Vương
Thông được giao cai quản công việc xây
dựng Trường lăng (lăng mộ của Minh
Thành Tổ). Năm Vĩnh Lạc thứ 11 (1413), ông
được ban tước Thành Sơn hầu,
lộc tăng thêm 200 thạch. Năm Vĩnh Lạc
thứ 12 (1414), được cử làm Tả
dịch đi tham chiến ở phía bắc. Khi Minh Nhân
Tông lên ngôi, Vương Thông được giao
quản hậu phủ, hàm gia thêm Thái tử thái
bảo. (Theo Minh sử liệt truyện,
quyển 154) Thành Sơn hầu Vương Thông –
vị tổng binh cuối cùng của nhà Minh ở Giao
Chỉ Đối với nhiều tướng lĩnh
nhà Minh trước năm 1420 th́ sang Giao Chỉ
quả thật là cơ hội hiếm có để
lập công phong tước. Nhưng số phận Vương
Thông lại không may mắn như vậy, ông ta
được phái sang nước ta ngay lúc quân Minh
thế lực đang yếu nhất và quân Lam Sơn
ngày càng mạnh mẽ với nhiều chiến
thắng liên tiếp. Tháng 9 năm 1426, sau khi tổng binh
tại Giao Chỉ (Việt Nam ngày nay) là Phong Thành
hầu Lư Bân chết, Thái tử thái bảo Thành Sơn
hầu Vương Thông được phong làm “Chinh
Di tướng quân”, sang thay Trần Trí đảm
nhiệm chức tổng binh, nắm quyền chỉ
huy toàn bộ quân Minh trên lănh thổ nước ta.
Đô đốc Mă Anh được cử làm tham tướng.
Những tướng lĩnh cũ là Trần Trí, Phương
Chính, Thái Phúc… phần nhiều đều bị
hạch tội, sung làm sự quan – chức quan dành
cho những kẻ đang có tội nhưng tạm tha,
cho tại chức để lập công chuộc
tội. Nhà Minh điều 5 vạn quân theo
Tổng binh Vương Thông sang cứu viện cho
bọn Trần Trí. Ngoài ra, c̣n bổ sung 1 vạn quân
Minh dưới quyền tướng Vương An Lăo
từ Vân Nam tiến sang. Với đoàn quân hùng mạnh trang
bị đầy đủ, Vương Thông tự tin
rằng sẽ đè bẹp quân Lam Sơn một cách
dễ dàng. Khí thế ban đầu của quân tướng
dưới trướng Vương Thông rất đáng
gờm. Đại Việt sử kư toàn thư chép:
“Quân giặc dàn doanh trại liền nhau đến vài
mươi dặm, cờ xí rợp đồng, giáo mác
rực trời, tự cho là đánh một trận là
bắt hết được quân ta”. Thế nhưng, quân Lam Sơn cho đến
tháng 10 năm 1426 đă không c̣n là một toán quân
nổi loạn nhỏ lẻ nữa mà đă trở
thành một đạo quân chính quy hơn 20 vạn người
với tinh thần sung măn và sẵn sàng cao độ.
Đây là lúc mà dân Việt thức tỉnh sau
giấc ngủ dài hơn 130 năm. Họ đă
trở lại là dân tộc từng phá Tống b́nh
Nguyên như xưa. Đây mới là điều đáng
sợ nhất đang đón chờ Vương Thông và
đoàn quân nạp mạng của ông ta.
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh
trôi vạn dặm Tốt Động thây chất thành núi,
nhơ để ngàn năm” Như đă nói ở trên, kết
cục bại vong quả thật đă đến
rất nhanh với Vương tổng binh và đoàn
quân có vẻ “oai hùng” kia của ông ta. Đó chính
là trận Ninh Kiều, hay c̣n gọi là Tốt Động
Chúc Động, tiêu biểu cho nghệ thuật
chiến tranh nổi tiếng của quân Lam Sơn: “Thế trận xuất kỳ, lấy
yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch
nhiều”. (B́nh Ngô đại cáo – Nguyễn Trăi) Cuối năm 1426, Vương Thông
với 10 vạn đại quân chia làm ba đạo
tiến đánh cánh quân của Lư Triện, Đỗ
Bí tại Ninh Kiều. Vương Thông muốn
thực hiện bao vây, diệt gọn toàn bộ
lực lượng quân Lam Sơn của Lư Triện và
Đỗ Bí ở tây Đông Quan, từ đó
tiếp tục đánh tỏa ra. Hắn cho rằng quân
của Trịnh Khả, Phạm Văn Xảo đang c̣n
bận tay ở thành Tam Giang, nên Lư Triện và Đỗ
Bí sẽ khó chống nổi đ̣n tổng lực
của quân Minh. Tuy nhiên, “binh vô thường thế,
thủy vô thường h́nh”, bậc đại tướng
cầm quân hơn nhau ở khả năng tùy cơ
ứng biến. Khuyết điểm lớn nhất
của Vương Thông là không nắm rơ t́nh h́nh
địch và quá tự tin vào đạo quân của
ḿnh. Trong khi đó, các tướng lĩnh của Lam Sơn
đều là thân kinh bách chiến, tinh thông binh pháp và
cực kỳ am hiểu quân Minh. Quân của họ toàn
là tinh nhuệ, trải trăm trận trong t́nh thế
lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch
nhiều, th́ tương quan lực lượng về
quân số càng không có ư nghĩa ǵ. Với phương châm “Ngồi đợi
giặc không bằng đem quân ra trước để
chặn mũi nhọn của giặc” của Lư Thường
Kiệt thủa xưa, ngay lúc mà quân Minh đang
triển khai thiết lập ṿng vây th́ Lư Triện,
Đỗ Bí đă tung quân đánh trước. Ngày
5/11/1426, quân Lư – Đỗ tấn công cánh quân Sơn
Thọ, Mă Kỳ là cánh quân mỏng yếu nhất
trong ba cánh bao vây của quân Minh. Khi giao chiến, quân
ta vờ tháo chạy dụ địch đuổi theo
qua cầu Tam La, là chỗ bùn lầy khó đi. Th́nh ĺnh
phục binh nổi lên cùng voi chiến xông ra đánh
tạt ngang vào đội h́nh quân Minh; hơn 1.000 quân
Minh trong chốc lát đă bỏ thây tại trận. Sơn
Thọ và Mă Kỳ hết sức kinh sợ, dẫn quân
chạy ngược về thành Đông Quan. Lư Triện và Đỗ Bí thừa
thắng đem quân tiến đánh bọc hậu cánh
quân của Phương Chính, Lư An ḥng tạo ra
sự tan ră dây chuyền trong hàng ngũ giặc. Nhưng
Phương Chính và Lư An khi hay tin Sơn Thọ và Mă
Kỳ bại trận đă kịp thu quân về thành. Lúc này, Vương Thông với lực lượng
đông đảo c̣n lại vẫn đóng tại
Cổ Sở. Hay tin hai cánh quân đă bị quân Lam Sơn
bức rút, Thông cho người vào thành lệnh cho toàn
bộ số quân tướng đă rút về phải
quay ngược trở ra, tập trung tại bến
Cổ Sở ngay trong đêm 5/11/1426. Bỏ kế hoạch bao vây, quân Minh
chuyển sang tập trung quân để đánh
thẳng căn cứ Ninh Kiều. Lư Triện, Đỗ Bí liệu thế
binh ít không chống nổi, cho đốt bỏ doanh
trại ở Ninh Kiều, lui quân về giữ Cao
Bộ, đồng thời cho người cấp báo
với cánh quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Trương
Chiến, Lê Hối đang đóng ở Tham Đàm
đề nghị đem quân ứng cứu. Quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí là
đạo quân tinh nhuệ nhất trong các đạo
quân Bắc tiến, gồm cả đội Thiết
đột đặc biệt tinh nhuệ. Được
tin, Đinh Lễ, Nguyễn Xí cùng các tướng
tức tốc cho quân lên đường tiếp
viện, hội quân ở Cao Bộ. Nghĩa quân lại bắt được
gián điệp của quân Minh, tra khảo ra được
kế hoạch của giặc chia 2 đường
tấn công, định đặt súng bắn vào phía
sau quân ta, hễ nghe tiếng pháo th́ các hướng
quân Minh sẽ cùng tiến đánh mạnh. Do vậy,
quân Lam Sơn đă đặt sẵn mai phục
ở Tốt Động Chúc Động đợi
giặc tiến vào sau tiếng súng. Vào một đêm
tháng 11/1426, hai đạo quân Minh từ hai ngả
tiến đánh Cao Bộ. Đạo kỳ binh
giặc tiến qua Chúc Động, chính binh của Vương
Thông th́ gần đến Tốt Động. Khoảng canh năm, quân ta chủ động
cho phát pháo. Vương Thông tưởng đạo
kỳ binh đă tiến vào thuận lợi, thúc quân
tiến gấp để phối hợp. Chờ
giặc lọt vào trận địa mai phục ở
Tốt Động, phục binh Lam Sơn bốn bề
nổi lên tấn công kịch liệt. Trời mưa khiến đường sá
lầy lội, người ngựa quân Minh bị
mắc lầy, trước sau không ứng cứu
được nhau. Quân Lam Sơn thừa thế
tấn công, tượng voi từ Cao Bộ xông
tới băm nát đội h́nh hành quân của
giặc. Ở phía Chúc Động, đạo kỳ
binh cũng trúng mai phục và thiệt hại nặng
nề. Vương Thông hết đường
chống đỡ, cùng quân tướng mạnh ai
nấy chạy, giẫm đạp cả lên đồng
đội. Đến Ninh Kiều, giặc tranh nhau qua
cầu, rơi xuống sông chết đuối
nhiều vô kể. Binh bộ thượng thư nước
Minh là Trần Hiệp, Nội quan Lư Lượng,
Đô chỉ huy Lư Đằng đều chết trong
đám loạn quân. Vương Thông cũng bị thương,
may sao thoát được. Các tướng Minh khác là
Mă Kỳ, Mă Anh, Sơn Thọ… ai nấy đều
cắm đầu chạy thục mạng về thành
Đông Quan, đóng cửa thành cố thủ.
Nhận tin chiến thắng, Lê Lợi
đích thân dẫn đại quân và 20 thớt voi chia
hai đường thủy, bộ ngày đêm đi
gấp. Quân ta lần lượt chiếm các mục
tiêu chung quanh thành Đông Đô, rồi bắt đầu
vây thành này. Để chặn đường
tiếp viện, cũng như làm suy yếu tinh
thần quân Minh đang bị vây, Lê Lợi sai các tướng
chiếm lĩnh các thành tŕ nằm trên trục lộ
huyết mạch như thành Điêu Diêu, Thị
Cầu, Tam Giang, Xương Giang, Khâu Ôn. Thế lực quân Minh lúc này bị co
cụm lại, Vương Thông tại thành Đông
Quan sa vào t́nh thế tuyệt vọng, đành phải
giao lại đất đai từ Thanh Hóa trở vào
nam cho Lê Lợi và ra lệnh quan quân đóng tại các
nơi này phải rút lui về thành Đông Quan
gấp. Đây là một trận chiến
rất lớn với thiệt hại nặng nề
cho quân Minh, tạo nên bước ngoặt cho chiến
tranh; v́ thế nên có rất nhiều ghi chép trong sách
sử của cả 2 bên Việt – Trung. Nam Việt truyện chép như sau: “Bảy vạn người không c̣n sót
ai”, có thể hiểu là tất cả bảy vạn
quân Minh đă bị chết hoặc bị bắt. Khâm định Việt sử thông giám
cương mục cũng chép: “Quân Minh cùng giày xéo chồng chất lên
nhau, chết đến hơn 5 vạn. Số quân
địch chết đuối cũng rất
nhiều, làm nghẽn cả khúc sông Ninh Giang”. Minh thực lục th́ ghi rằng: “Ngày 9 tháng 11, năm Tuyên Đức
thứ nhất [7/12/1426] quan Tổng binh Thành Sơn
hầu Vương Thông tiến binh đánh giặc
bị thua to, giặc bèn vây thành Đông Quan. Trước đó tướng giặc Lê
Thiện [Triện] chia quân làm 3 đạo, tới
đánh thành Giao Chỉ. Một đạo từ
cửa phía tây đánh vào thành đất Thanh Oai,
một đạo từ Giáo Trường đánh
Hạ Quan. Bị Đô đốc Trần Tuấn dùng
súng lửa, hỏa tiễn đánh lui. Một đạo
đánh vào cửa nhỏ tại ven sông gặp Sự
quan Lư An mang quân tinh nhuệ giao chiến, giặc
bị chết rất nhiều, nửa đêm bèn rút
lui. Lúc này Thông điều quân chia
đường mà tiến. Tham tướng Đô
đốc Mă Anh mang quân đến Thanh Oai gặp
giặc, đánh bại chúng. Rồi đến
huyện Thạch Thất họp quân với Thông,
cả hai mang quân đến huyện Ứng B́nh, trú
quân tại Ninh Kiều. Các tướng nói đất
này hiểm trở nên lập trại để xem t́nh
h́nh, không nên coi thường mà tiến. Thông không
nghe, cho điều quân qua cầu, đường sá
lầy trơn, người ngựa lặn lội,
phục binh nổi lên, quan quân bị bại. Thượng thư Trần Hiệp
chết, Chỉ huy Lư Đằng bị chết vào tay
giặc, Thông trúng thương nên quay về. Lê
Lợi tại Nghệ An nghe tin bèn mang đại quân
tới Thanh Đàm, đánh các xứ tại Bắc
Giang, rồi vây thành Đông Quan”. “Bó tay để đợi bại vong,
giặc đă trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu
khuất, ta đây mưu phạt tâm công” Trận thua Ninh Kiều tuy nặng nhưng
mới chỉ là mở màn cho tấn bi kịch
của Vương Thông. Khi Lê Lợi đem quân
từ Thanh Hóa ra và bao vây thành Đông Quan tầng
tầng lớp lớp, đến con ruồi cũng không
bay lọt, sự thống khổ của Vương Thông
mới thực sự bắt đầu. Vương Thông bị vây bức trong
nội thành vẫn chỉ huy quân tướng cố
sức chống giữ mănh liệt. Nhưng quân Minh
đă bị cô lập, lại chịu sự tấn công
dồn dập của quân Lam Sơn nên dần hết
khí giới, đạn dược. T́nh thế nguy
khốn đến mức Vương Thông đă
hạ lệnh cho nấu chảy chuông Quy Điền và
vạc Phổ Minh – hai trong bốn thứ bảo
vật được tôn vinh là “An Nam tứ đại
khí” để đúc súng đạn. Quân Minh ở
thành Đông Quan ngày đêm tăng cường đào
hào đắp lũy, gia cố tường thành. V́ lương
thực trong thành c̣n dồi dào và tường thành
vững chắc, nên giặc c̣n hy vọng cố
thủ chờ viện binh sang cứu. Lúc này, ngoài thành Đông Quan ra th́ quân
Minh vẫn c̣n cố thủ ở 12 thành tŕ kiên
cố khác là Thuận Hóa, Tân B́nh, Nghệ An, Diễn
Châu, Tây Đô, Cổ Lộng, Điêu Diêu, Tam Giang,
Thị Cầu, Xương Giang, Chí Linh và Khâu Ôn; nhưng
tất cả đều đă bị bao vây cô
lập. Lúc này quân đội Lam Sơn đă
đông đến hơn 35 vạn quân, nhưng sách lược
của họ là bảo toàn lực lượng và
chiến thắng với cái giá phải trả
thấp nhất. Đó là bởi v́ quân Lam Sơn không
biết nhà Minh có c̣n lá bài nào muốn “nướng”
nữa hay không, hơn nữa chiến thắng mà
cả đất nước tan hoang th́ cũng không có
ích lợi ǵ cho sự phát triển về sau. Dần dần, Vương Thông nhận
ra rằng t́nh thế khó mà thay đổi, và việc
bại vong của quân Minh chỉ c̣n là vấn đề
thời gian. Một khi khí giới, lương thảo
trong thành cạn kiệt, quân Minh chỉ c̣n đường
chết đói hoặc bị giết. Đúng là: “Quân giặc các thành khốn đốn,
cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như
hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”. (B́nh Ngô đại cáo – Nguyễn Trăi) Trước t́nh thế đó, Vương
Thông đă phải tính đường nghị ḥa. Thông
phái thái giám Sơn Thọ đem thư đến cho
Lê Lợi, xin được ḥa hoăn để rút binh
về nước. Nhận được thư xin ḥa,
Lê Lợi nói: “Không đánh mà khuất được
quân của người, ấy là mưu hay nhất
trong các mưu hay!” (Theo Lam Sơn thực lục).
Việc giảng ḥa và thư từ qua lại với
quân Minh được Lê Lợi giao phó cho Hàn lâm
viện thừa chỉ Nguyễn Trăi lo liệu. Nguyễn Trăi biên thư trả lời Vương
Thông rằng: “Tôi nghe, trời đất đối
với muôn vật, nổi sấm sét mà ư hiếu sinh
vẫn có ở trong; cha mẹ đối với các
con, đánh roi vọt mà ơn dưỡng dục
vẫn có ở đây. Nay vâng được thư
của ngài cho tôi được tự tân, hân
hạnh khôn xiết, thật không khác đức
lớn của trời đất cha mẹ, dẫu có
tan xương, nát thịt, cũng không đủ báo
đền. Song nếu ngài thực có ḷng thương
xót dân chúng, th́ nên sai đầu mục đến các
thành Diễn Châu, Nghệ An, Tân B́nh, ra lệnh cho
họ đem quân về, tôi sẽ lập tức
sắm đủ phương vật tiến cống,
cúi xin ngài sai quan cùng đi với tử đệ thân
tín của tôi để đến đầu hàng
phục tội. Cầu cống đường sá th́
tôi xin nhận sửa đắp, không phải
phiền đến quan quân. Giá được người
nhận lời, không những sinh linh nước tôi
được khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung
Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm giáo
vậy” (Theo “Quân trung từ mệnh tập”). Ư đồ của Nguyễn Trăi là nương
theo binh uy của quân Lam Sơn để răn đe
quân Minh về kết cục bại vong tất
yếu, từ đó thuyết phục Vương Thông
phải viết thư cho các thành trấn khác rút quân
về Đông Quan để quay về nước, như
thế quân ta không phải tốn xương máu đánh
dẹp. Việc dụ hàng diễn ra tương
đối thuận lợi. Nhờ vào tài văn chương
của Nguyễn Trăi và sách lược đúng đắn
của Lê Lợi, hàng loạt các thành tŕ là Diễn
Châu, Nghệ An, Tân B́nh, Thuận Hóa đều mở
cổng thành đầu hàng. Quân Lam Sơn giữ
đúng giao ước, hễ quân tướng giặc
ra khỏi thành đều được cấp
thuyền bè, sửa sang cầu cống cho thuận
lợi đến tập kết tại thành Đông
Quan, lại c̣n cho đoàn tụ vợ con, cấp cho lương
thực, thuốc men dọc đường đi. Công lao của Nguyễn Trăi trong việc
thuyết phục Vương Thông và dụ hàng các thành
tŕ là rất lớn. Nhờ đó, ông ngày càng
được Lê Lợi tin dùng và hậu thế luôn
dành lời ca tụng. Học giả Bùi Huy Bích ở
thế kỷ 18 đă nhận định về
những văn thư mà Nguyễn Trăi làm trong công
cuộc ngoại giao, địch vận là “có
sức mạnh như 10 vạn quân”.
“Tưởng chúng biết lẽ ăn
năn nên đă thay ḷng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu
tính lại c̣n chuốc tội gây oan” Hai bên đă định ngày Vương
Thông sẽ rút quân về nước th́ ngụy quan là
Trần Phong và Lương Nhữ Hốt kể
chuyện Ô Mă Nhi ngày xưa bị giết để
can. Vương Thông sợ, phái người về nước
dâng thư xin vua Minh cử viện binh sang. Lê Lợi
bắt được người đưa thư, bèn
bỏ ḥa ước đánh tiếp. Vua Minh phái Liễu Thăng, Mộc
Thạnh đem 15 vạn quân sang tiếp viện.
Cả hai đạo quân này nhanh chóng bị tiêu
diệt triệt để. Liễu Thăng mất
đầu ở trận Mă Yên, gần như toàn quân
và các tướng chỉ huy đều bị
giết. Mộc Thạnh nghe tin Thăng thua cũng
cuống cuồng rút quân, nhưng bị Trịnh
Khả và Phạm Văn Xảo truy kích ở Lê Hoa, chém
hơn vạn thủ cấp, toàn quân tan tác, Thạnh
một ḿnh một ngựa chạy về nước. Đến lúc này th́ Vương Thông
đă hoàn toàn tuyệt vọng không c̣n cách nào khác
nữa. Ông ta và nội quan Sơn Thọ nhà Minh sai viên
thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng
hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi
chấp nhận, lại gửi tặng thổ sản
và hải sản. Tuy vậy nhưng Vương Thông
vẫn do dự chưa quyết, đem hết quân
trong thành ra đánh thử thời vận một
lần nữa. Nghĩa quân Lam Sơn đặt
phục binh rồi vờ thua chạy, quân Minh đuổi
theo, tới trận địa phục binh th́ bị
đánh tan. Vương Thông ngă ngựa, suưt bị
bắt, nghĩa quân tiến đến cửa Nam thành,
đắp bờ lũy chống giữ. Lê Lợi thân
đốc các tướng đem quân đắp lũy
từ phường Yên Hoa thẳng tới cửa
Bắc thành Đông Quan. Quân Minh chỉ dám ở trong
thành không dám ra. “Họ đă tham sống sợ
chết mà hoà hiếu thực ḷng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân
dân nghỉ sức” Ngày 22/11 năm Đinh Mùi, Lê Lợi cùng
các tướng lĩnh Lam Sơn và Vương Thông cùng
tướng lĩnh nhà Minh làm hội thề ở
cửa Nam thành Đông Quan. Vương Thông hẹn rằng đến
ngày 12/12 th́ đem quân về nước và sai người
đem tờ tŕnh xin trả lại đất đai
cho nghĩa quân. Lê Lợi sai giải vây thành Đông
Quan, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3 thành:
Tây Đô, Cổ Lộng và Chí Linh; truyền cho nghĩa
quân hộ tống các tướng trong 3 thành trên
dẫn quân về thành Đông Quan, để cùng
về Trung Quốc. Ngày 29/11 năm Đinh Mùi, Lê Lợi sai
Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang đem tờ
biểu cầu phong của Trần Cảo, cùng các
vật phẩm theo viên chỉ huy do Vương Thông
sai, sang triều Minh. Các tướng sĩ, người dân căm
tức sự tàn ngược của quân Minh, bảo
vua đem giết đi; Lê Lợi đáp rằng: “Trả thù
báo oán là thường t́nh của mọi người,
nhưng không thích giết người là bản tâm
của bậc nhân đức. Vả lại, người
ta đă hàng, mà ḿnh lại giết th́ là điềm
xấu không ǵ lớn bằng. Nếu cốt để
hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang
tiếng với muôn đời là giết kẻ đă
hàng, th́ chi bằng tha mạng sống cho ức
vạn người, để dập tắt mối
chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép
tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao
sao?” (Theo Đại Việt sử kư toàn thư). Tháng 12 năm Đinh Mùi, Lê Lợi ra
lệnh cánh đường thủy cấp 500
chiếc thuyền cho Phương Chính, Mă Kỳ lănh
nhận; cánh đường bộ cấp lương
thảo cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lănh nhận; c̣n hơn
2 vạn người bị bắt hoặc đầu
hàng và 2 vạn con ngựa th́ do Mă Anh lănh nhận.
Chinh Man tướng quân Trần Tuấn đem quân
trấn thủ đi theo. Tất cả đều
tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Ngày 12/12, Phương Chính, Mă Kỳ
tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi,
ở lại suốt một buổi chiều; Lê
Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và
lễ phẩm hậu tặng. Ngày 17/12, Vương Thông dẫn quân
bộ đi sau. Vương Thông cùng Lê Lợi nói
chuyện từ biệt suốt đêm rồi đi.
Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng
vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất
hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô,
Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp.
Từ đây, việc binh đao dập tắt,
khắp thiên hạ thái b́nh. Thế mới là: “Xă tắc từ đây vững
bền Giang sơn từ đây đổi
mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại
minh Ngàn năm vết nhục nhă sạch làu Muôn thuở nền thái b́nh vững
chắc Âu cũng nhờ trời đất
tổ tông linh thiêng đă lặng thầm phù
trợ”. (B́nh Ngô đại cáo – Nguyễn Trăi) Tĩnh Thuỷ Tài liệu tham khảo: Đại Việt sử kư toàn thư.
Nhà xuất bản khoa học xă hội Hà Nội,
1993, bản điện tử, trang 351. Đại Việt thông sử. Nhà
xuất bản văn hóa thông tin, 1976, trang 79, 80, 240. Khâm định Việt sử thông giám
cương mục: Chính biên, quyển XII, XIII, XIV. Lam Sơn thực lục. Nhà xuất
bản Tân Việt, 1956, cuốn 2. Minh sử: Liệt truyện, quyển 42,
145, 154, 321. Việt Nam sử lược. Bản in
của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng ḥa năm
1971, tập 1, trang 232 và 233. Việt sử tiêu án. Nhà xuất
bản Văn Sử 1991, Phần Ngoại thuộc nhà
Minh, bản điện tử. |