Người Việt Nam bắt đầu gọi nước Tàu là Trung Quốc từ bao giờ? |
Quay
trở về 100 năm trước, nếu bạn
bắt gặp tất cả những người đi
trên đường và hỏi "bạn có biết
Trung Quốc không?" th́ 9/10 người sẽ
hỏi lại "Trung Quốc là cái ǵ?", nhưng
nếu bạn hỏi "bạn có biết nước
Tàu không?" th́ cả 10/10 người sẽ trả
lời rằng "thằng Tàu th́ ai chả
biết". Trung Quốc", cái danh từ mà
thực ra nó c̣n có tuổi đời ít hơn
rất nhiều so với tên gọi Việt Nam của
Đất nước ta. Vậy tại sao người
Việt Nam trước đây gọi quốc gia ở
phía Bắc Đất nước ta là "Tàu"?
Hay bắt đầu gọi nước "Tàu" là
"Trung Quốc" từ bao giờ? Và chúng ta có nên
tiếp tục gọi là "Trung Quốc" nữa
hay không? Bài viết sau đây sẽ giải thích cho
bạn biết phần nào về nguồn gốc và lư
do của việc đó. 1.
Khởi nguồn của "Trung Quốc" Khởi
đầu, những bộ tộc nhỏ sống trên
vùng đồng bằng giữa hai ḍng sông; Hoàng
Hà phía bắc và Dương Tử phía nam, gọi
nơi này là Trung Nguyên. Tức vùng b́nh nguyên
giữa hai con sông. Trung
(中)
là ở giữa. Nguyên (原)
là cánh đồng.
Cho nên chữ Trung Nguyên chỉ có nghĩa là cánh đồng
giữa hai ḍng sông.
Bản
đồ cổ của "Bách Việt" (màu tím)
và "Tàu" (màu đen) 2000 năm trước Hai
chữ Trung Nguyên quá mơ hồ không rơ ràng, cho
cả vùng rộng lớn.
Trong vùng này có một địa phương, khá
đông dân cư, gọi là Hoa
Âm (thuộc địa phận tỉnh
Hoa Nam hiện nay), nên c̣n được gọi là Trung Hoa. Từ
đó hai chữ Trung Nguyên hay Trung Hoa thường
được dùng lẫn lộn. Để phân
biệt với Bắc
Mạc (北
漠),
tức vùng sa mạc phía bắc sông Hoàng Hà, họ
gọi là Trung Nguyên. Để phân biệt với Lĩnh Nam (嶺
南),
tức vùng đồng bằng có núi cao (lĩnh) phía
nam sông Dương Tử, họ gọi là Trung
Hoa. Thế
rồi, qua nhiều thời kỳ, các kẻ nắm
quyền cai trị người Tàu tự vẽ
vời ra đủ điều để sơn
phết cho hai chữ Trung Hoa nhằm đánh bóng thân
thế đối với các xứ lân cận.
Lúc
này, bọn vua chúa người Tàu bắt tên bồi bút
Khổng Khâu, mà người Việt thường
gọi là Khổng Tử, vẽ vời cho rằng Trung
(中)
là ở giữa,
Hoa (化)
là có văn hóa, có học thức.
Ư muốn tôn xưng rằng chỉ có nơi đây
mới là trung tâm văn hóa của con người. Là “đỉnh
cao trí tuệ” tự xưng của thế giới vào
thời bấy giờ. V́ thế họ gọi
những dân tộc sống vùng chung quanh là súc vật
như: Nam Man (chó); Bắc Địch (sâu); Đông Di
(rắn); Tây Nhung (khỉ). Cũng bởi ngu si và đầu
óc bán khai, kém tiến hóa, nên họ không hề
biết rằng gọi như thế tự chính
họ c̣n thua cả súc vật. Kẻ ngu si thường
mắc phải căn bệnh hoang tưởng này
để giải tỏa ẩm ức tâm lư hèn kém, mà
cho đến nay chúng ta vẫn c̣n nhận thấy. Tụi
Tàu dám gọi các dân tộc phía Nam là "chó"
Thật
ra, tên họ Khổng xứ Lỗ (nay thuộc
tỉnh Sơn Đông) nhận lệnh đi ăn
cắp văn hóa của phương Nam, tức
của dân Bách Việt, rồi đem về xào
nấu, nên hắn ta chỉ dám gọi là đồ
ăn cắp chứ không phải tự tay
tạo ra (述
而
不
作
–
thuật nhi bất tác – chỉ kể lại chứ
không phải sáng tác). Bán khai đến độ,
hắn ta cũng không hề biết và cho rằng
"trà" và "lúa" của dân Bách Việt
phía nam sông Dương Tử đang dùng là kỳ
lạ và chẳng phải là những món ăn,
uống mà kẻ có văn hóa nên dùng. Thế nhưng
sau khi uống thử rồi thấy ngon, thấy
ghiền. Cái tài lưu manh của kẻ ăn cắp
luôn là tẩy xóa hết dấu vết cũ rồi
cho là của ḿnh. Để bây giờ cả thế
giới, ngay người Việt cũng tin chắc
rằng trà phát xuất từ Tàu. Cả đến
chữ Tàu cũng bắt nguồn từ bộ chữ
Khoa Đẩu của tộc Bách Việt. Thế nhưng
không có mấy người Việt Nam dám chấp
nhận điều này. Căn bệnh tự cho là ḿnh
man di và kém cỏi truyền đời đă ăn sâu
vào tận tâm trí của họ. Điều ǵ cũng
cho là của Tàu th́ mới thỏa măn căn bệnh
truyền kiếp này của người dân Việt
hiện nay. Cũng theo
lệnh kẻ cầm quyền, tên bồi bút họ
Khổng này đưa ra những thuyết ma mỵ
để đặt ách nô lệ lên đầu người
dân như; thuyết th́ên mệnh, ngũ thường,
và trung quân ái quốc, vân vân. Tự
gọi ḿnh là "Thiên từ" (Con trời), ǵ mà
bị kẻ khác soán ngôi tàn sát thẳng tay không
chừa một mống. Ngũ thường ǵ mà trong
cung đ́nh, con giết cha để cướp ngôi,
hai cha con cùng lấy một vợ, con cướp
vợ của cha rồi loạn luân, chém giết, tàn
sát lẫn nhau đủ kiểu. Thế nhưng chúng
bắt mọi người dân phải trung thành
với kẻ cai trị mới gọi là yêu nước. Những
người Việt mang nặng tinh thần tiểu nhược
nên cứ măi bị giặc Bắc lừa gạt mà tôn
thờ tên bồi bút này là bậc thầy muôn đời
(萬
世
師
表
–
vạn thế sư biểu). Hăy để cho
những người này thỏa măn tinh thần
tiểu nhược và thờ Tàu của họ. Nhưng
chúng ta, những người Việt biết tự
trọng và có tinh thần dân tộc, không nên làm
điều này. Không những thế, mỗi người
nên có trách nhiệm đối với Dân tộc và
Tổ quốc. Nghĩa là khi nghe người khác
hiểu sai, nói sai, chúng ta nên tŕnh bày, giải thích
cho họ hiểu rơ sự việc. Cùng giúp nhau
hiểu rơ vấn đề, th́ không có ǵ phải
ngần ngại, hay lo sợ cả. Mà đây lại là
vấn đề sống c̣n của cả một dân
tộc. Đây là trách nhiệm của mọi người
Việt, không riêng ǵ ai cả. Mọi người dân
đều hiểu rơ tức là dân trí được
nâng cao. Sự hiểu biết của người dân
càng nhiều, đám quan lại Tàu càng lo sợ. Điều
này ai cũng hiểu cả.
Từ
xưa, Trung Nguyên này là nơi tranh giành quyền
lực tự do và được xem là vườn
hoang không có chủ. Kẻ nào giành được th́
mặc sức mà cai trị. Và họ cũng chẳng
có khái niệm ǵ về quốc gia dân tộc. Kẻ
nắm quyền cai trị luôn có tham vọng bành trướng
và xâm chiếm các nước chung quanh. Thời kỳ
Chiến Quốc là một thí dụ điển h́nh
lịch sử về sự tranh giành quyền lực nơi
vườn hưu hoang này. Với tinh thần đó, và
nhằm trấn áp người dân để cai
trị nên kẻ nào lên nắm quyền cũng tự
xưng ḿnh là con trời, là lớn, là đại. Như
Đại Chu, Đại Tần, Đại Hán, Đại
Đường, Đại Tống, Đại Nguyên,
Đại Minh, Đại Thanh. Đại sau thẳng
tay tàn sát tiêu diệt đại trước. Và đại cuối cùng
th́ bị tám cường quốc Tây phương cùng
nhau xẻ thịt. Nên thực tế chẳng có
ma nào là "Đại" cả. Các
chữ Trung Hoa hay Trung Quốc cũng mang tinh thần
ngu xuẩn nhưng ngạo mạn này. Ngày nay với
kiến thức về địa dư thế
giới, mọi người Việt đều
biết rơ xứ này chẳng có ǵ để tự xưng
là Nước Ở Giữa cả. Thế nhưng
nhiều người Việt vẫn đang chấp
nhận điều này qua ngôn ngữ. Lưu
Bang, một tên thôn trưởng lưu manh sống bên
ḍng sông Hán Thủy, cướp công Hạng Vơ,
diệt Tần lên nắm quyền cai trị (256 trước
TL). Để thành lập triều đại, Lưu
Bang lấy chữ Hán từ tên con sông rồi gọi
là Triều Hán, và tự xưng là Đại Hán.
Sự cai trị của ḍng họ lưu manh này kéo dài
suốt 400 năm, nên hai chữ đại hán đă
ăn sâu vào đầu của nhiều thế hệ
dân cư trong vùng. Để sống c̣n, tránh cảnh
bị tàn sát và tiêu diệt, dân tộc hay bộ
tộc nào trong vùng bị cai trị cũng tự
gọi ḿnh là người Hán. Ngay cả chữ
viết đă có trước đó từ lâu chúng cũng
bắt mọi người gọi là chữ Hán. Người
Việt sau này, dưới sự áp đặt của
Tàu mấy trăm năm trước cũng mặc nhiên
chấp nhận điều này. Cho đến nay,
hầu hết người Việt cũng vẫn c̣n
gọi là chữ Hán. Không mấy ai dám gọi là chữ Tàu cả. V́
họ sợ. Sợ điều ǵ họ cũng không
rơ. Nhưng vẫn cứ sợ và gọi như
thế là đủ an tâm. Nêu điều này ra để
chúng ta cùng nhận rơ cái tinh thần tiểu nhược
này đă truyền đời đến cả ngàn năm
nay vẫn c̣n nhiều người Việt không
chịu nhận ra và quyết tâm tiêu trừ.
Sau
khi Mông Cổ diệt Đại Tống lập Đại
Nguyên cai trị xứ này cả trăm năm. Đến
khi Trần Hữu Lượng (Lượng là con trai
Chiêu Minh Vương Trần Ích Tắc – qua việc
thông đồng với giặc, vương bị anh
là vua Trần Thánh Tông không giết nhưng đuổi
ra khỏi Việt Nam và qua Tàu sống ở vùng Trường
Sa, Quảng Đông ngày ngay) đánh đuổi Mông
Cổ chuẩn bị lên ngôi th́ bị Chu Nguyên Chương
cướp công và lập nên Đại Minh. Ḍng
họ Ái Tân Giác La của bộ
tộc Măn Châu (Nữ Chân, Kim sau đổi là
Thanh) diệt Minh, rồi cũng gọi là Đại Thanh. Thời kỳ nầy không c̣n ai dám
nhận ḿnh là Đại Hán hoặc Đại Minh
nữa cả. Và bọn đại hán (trong đầu
người Việt) phải cạo đầu
thắt bính như người Măn Châu. Nếu không
sẽ bị chặt đầu ngay. Lúc bấy
giờ, trong dân gian, v́ quen miệng họ vẫn
gọi xứ này là Trung Nguyên hay Trung Hoa. Tuy rằng biên
giới đă vượt qua sông Dương Tử và
tiến xa xuống phương nam. Sau
này một vài người Tây phương, vốn không
biết nhiều về xứ này, nên cho rằng người
sống ở đây là dân Hán, nhưng họ lại
gọi là nước Tần. Người Việt lúc
đó là thuộc địa của Pháp, vốn tôn
thờ khoa học tây phương, nghe người da
trắng Âu Châu gọi thế nên vội vă cho là có
tộc Hán. Ngày trước họ thờ Tàu. Khi Tàu
đi, Tây đến th́ họ đành phải thờ
Tây. Đối với họ hễ người Tây phương
nói là phải đúng, và họ không hiểu rơ nghĩa
chữ tộc trong tiếng Việt. Điều này cũng
ngây ngô chẳng khác nào hiện nay bảo những người
sống tại Mỹ là dân tộc Hoa Kỳ. Ai cũng
biết chỉ có người công dân Mỹ chứ không
có dân tộc Hoa Kỳ. Xứ Tàu cũng chỉ là
một loại hợp chủng quốc ở Châu Á mà
thôi. Hiện nay, ngoài hàng trăm ngôn ngữ của
những dân tộc thiểu số, Tàu vẫn c̣n
xử dụng sáu ngôn ngữ chính. Ngay cả Mao
Trạch Đông vẫn nói tiếng Hồ Nam,
khiến nhiều người Tàu nghe không hiểu. Không
có ngôn ngữ Tàu chính thống, tuy rằng phần
lớn là tiếng Việt do dân Bách Việt sống
khá nhiều ở vùng phía Nam sông Dương Tử, mà
c̣n giữ rơ âm Việt nhất là tiếng Quảng
Đông, Quảng Tây. V́ sự kiện này nhiều người
Việt Nam, không chịu t́m hiểu lịch sử
của tộc Bách Việt, lại nặng tinh thần
tiểu nhược, nên cứ cho rằng tiếng
Việt hiện nay là mượn từ tiếng
Quảng Đông của Tàu. Dù vẫn c̣n sáu ngôn
ngữ chính, nhưng chữ viết chỉ một, do
Doanh Chính, tức Tần Thủy Hoàng, thống
nhất chữ viết để dễ bề cai
trị, và gọi là quan thoại, tức ngôn ngữ
của quan lại. Đến thời Mao Trạch Đông,
vốn xem Tần Thủy Hoàng là thần tượng,
cũng bắt chước Doanh Chinh bắt sửa
lại chữ Tàu và gọi là chữ Tàu đơn
giản. Đến đây chúng ta đă biết đó
gọi là chữ Tàu, nhưng sẽ c̣n vô số người
Việt quyết tâm giữ suy nghĩ là chữ Hán
trong đầu cho đến chết, và truyền
lại cho con cháu. Dưới
áp lực xâm lăng của giặc Bắc, người
Việt từ vùng Động Đ́nh Hồ, dần
dần bị đẩy xa về phương nam
xuống Việt Nam ngày nay. Qua thời gian, người Việt c̣n ở lại vùng phía Nam sông
Dương Tử đă quên mất nguồn gốc Bách
Việt của ḿnh. Nhưng họ không hề
bị đồng hóa, v́ dân số Việt tộc
ở những vùng này vẫn luôn nhiều hơn
những bộ tộc hỗn tạp nhỏ khác.
Họ chỉ mất gốc. Một điển h́nh
trong lịch sử cận đại là Tôn Dật Tiên
(Sun Yat Sen) hay c̣n gọi là Tôn
Trung Sơn, tổng thống đầu tiên của Trung
Hoa Dân Quốc, sinh ở Quảng Đông, người
mà dân Tàu đang thờ phượng và suy tôn là cha
đẻ của cuộc Cách Mạng Tam Dân, vốn
là người Việt. Ông ta biết rơ điều
này. Tuy vậy, v́ quá lâu đời và v́ sự
nghiệp chính trị ông không dám nói rơ thân thế. Trong
khi đó ḍng họ Lư của Việt Nam sống
tại Đại Hàn gần ngàn năm nay vẫn luôn
tự hào ḿnh là người gốc Việt. Nên
khi vừa lên cầm quyền, tổng thống Lư
Thừa Văng của Nam Hàn đă nhờ tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm truy t́m gia phả của ḍng
họ Lư tại Việt Nam. Chiến
thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) mọi người
Việt đều đă biết. Sau khi đánh quân
Thanh một trận nhớ đời và đuổi ra
khỏi bờ cơi, Quang Trung Hoàng Đế liền có
kế hoạch lấy lại đất bị
giặc Bắc cướp trước đó. Theo chương
tŕnh, vua Quang Trung sẽ đuổi Măn Thanh trở ngược
về phía Bắc sông Dương Tử, quyết
lấy lại vùng Lĩnh Nam của dân Bách Việt ngày
xưa. Bước đầu, nhà
vua bắt Càn Long phải gả con gái và trả
lại hai vùng đất Quảng Đông và Quảng
Tây. Sau đó sẽ làm bàn đạp để
bắc tiến và tây tiến. Càn Long liền gởi
chiếu mời vua Quang Trung sang Bắc Kinh để
đàm phán. Nhắm để pḥng sự tráo trở
của giặc Bắc cùng sẵn dịp hạ
nhục Càn Long của Đại Thanh, vị Hoàng
Đế Đại Việt cho người giả
trang dẫn phái đoàn sang Tàu. Trên đường
đi phái đoàn Việt cố t́nh hành hạ
bọn quan lại Tàu đủ điều, nhưng chúng
cũng phải cúi đầu chịu nhục. Càn
Long vẫn biết rơ trưởng
phái đoàn chỉ là vị vua giả. Nhưng
mở miệng ra lại sợ nhục nhă, nên hắn
đành phải câm miệng và dùng đủ lễ
nghi để tiếp đăi phái đoàn. Đây cũng
là một sự nhục nhă nặng nề mà Càn Long
của Đại Thanh đành phải nuốt sâu vào
ḷng.
Vua
Quang Trung cho Càn Long biết,
nếu không chịu trả đất, vua Việt
sẽ giúp bọn phục Minh nổi dậy diệt
Thanh. Vừa
mới bị đánh một trận kinh hoàng, lại
muốn giữ ngôi để tiếp tục cai
trị xứ Tàu, Càn Long đành phải nuốt
nhục cúi đầu chấp nhận. Nhưng mọi
việc chưa xong th́ vua
Quang Trung băng hà. Thế là việc đ̣i
lại đất của người Việt xem như
bất thành. Nếu
vua Quang Trung không mất sớm và bắt Càn Long
của Đại Thanh trả lại Quảng Đông,
Quảng Tây cho Đại Việt th́ hôm nay đă không
có Tôn Dật Tiên cho dân Tàu thờ làm Quốc
Phụ. Nêu ra điều này để người dân
Việt thấy được sự ngu ngốc
của người Tàu. Đúng ra, mọi người
Việt đều có bổn phận phải nói rơ
điều này cho người Tàu. Chữ
Qin được Tàu phát âm là Ch’in, người
Việt phát âm là Tần. Từ âm Ch’in này người
da trắng gọi xứ này là China hay Sino. Khi nắm
quyền Doanh Chính dùng chữ Đại Tần v́
lấy tên địa phương của xứ
Tần (hiện nay thuộc tỉnh Giang Tô). Cho nên người
Tây phương dùng chữ China, Sino, Chinois là do sự
diễn âm chữ Tần (Ch’in), để gọi
xứ này. Hoàn toàn không có ư nghĩa ǵ là Nước
Ở Giữa cả. Xin người Việt không nên đem h́nh ảnh
của hai chữ Trung
Quốc trong đầu của ḿnh mà áp đặt
lên chữ China, Sino
của người da trắng. Người
da trắng gọi họ là Tần. Tại sao chúng ta
không dám gọi họ là Chệt hay Tàu? Hỏi
tức là đă trả lời rồi vậy. 2.
Người Việt Nam bắt đầu gọi "Tàu"
là "Trung Quốc" từ khi nào? Hai
chính thể của Tàu ngày nay, nếu dịch sang
tiếng Việt cho đúng nghĩa quốc tế,
ở đây chúng ta sẽ dựa trên tiếng Mỹ,
phải là Cộng Ḥa Nhân Dân Tàu (Tần), và Cộng
Ḥa Tàu (Tần). Cũng như Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam là Socialist Republic of Vietnam, hay
Việt Nam Cộng Ḥa là Republic of Vietnam. Trở
lại hai chữ Trung Quốc. Người Tàu, bởi
ngu si lại nặng tinh thần hống hách luôn
tự cho ḿnh là lớn, là trung tâm của thế
giới, nên họ tự gọi là Cộng Ḥa Nhân Dân
Trung Hoa, và Cộng Ḥa Trung Hoa, viết và hiểu theo cách
Tàu dùng tiếng Việt. Sau khi được cai
trị toàn miền đại lục, Mao Trạch
Đông vẫn tiếp tục truyền thống ngu si
và bạo chúa nên tự gọi là Trung Quốc. Thứ
nhất; nhằm kích thích tinh thần ngông cuồng
của dân trong xứ. Thứ
hai; bắt Việt Nam phải tuân dùng theo, để
tṛng ách nô lệ lên đầu người Việt. Hiểu
một cách rơ ràng, chữ Trung Quốc vẫn hoàn toàn
không có ư nghĩa ǵ là Nước Ở Giữa
cả. Bởi chữ Trung vốn có gốc từ
chữ Trung Nguyên từ thời xa xưa. Tuy vậy, Tàu
Khựa vẫn mập mờ để bắt phải
áp đặt vào đầu những người
Việt, kém hiểu biết lại nặng tinh
thần tiểu nhược trước phương
Bắc, nên tự suy diễn ra là Nước Ở
Giữa để in sâu trong đầu. Trước
năm 1975, người Việt tại Miền Nam thường
gọi hai quốc gia này là Trung Hoa và
Trung Hoa Quốc Gia để chỉ cho hai thể
chế chính trị, nhưng vẫn gọi chung là người
Tàu. Như; Tàu
Đài Loan, Tàu Chợ Lớn, Tàu Hồng Kông, Tàu
Đại Lục. Chính những người Tàu
sống ở Việt Nam cũng tự gọi họ là
người Tàu. Từ thời tổng thống Ngô
Đ́nh Diệm, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa
cấm không cho người Tàu làm 11 nghề chính
để bảo vệ kinh tế cho người dân
Việt Nam. Nguồn gốc phát xuất âm Tàu trong
tiếng Việt, cho đến nay vẫn chưa rơ ràng.
Có thể là do nghe và nói lại một cách sai lạc
âm của chữ Tần mà người Tây Phương
tại Việt Nam thường dùng. Hoặc cũng có
thể xuất phát từ việc đám quan lại nhà
Minh đă trốn chạy nhà Thanh sang Việt Nam
bằng đường biển rồi xin tỵ
nạn vào thế kỷ 16 mà bị người
Việt đặt cho là Tàu. Cả Philippines, Thailand,
Kampuchia, trong ngôn ngữ của các quốc gia này,
họ cũng không gọi xứ này là Nước
Ở Giữa. Riêng người Nhật dùng chữ
China với ư nghĩa khinh miệt là lũ người
bệnh hoạn, ngu si, nhu nhược, yếu hèn. Đến
nay chỉ có người Tàu và dân Việt dùng
chữ Trung Quốc. Nêu điều này ra nơi đây,
để mọi người cùng nhận thấy rơ
sự tiểu nhược trong tư tưởng,
thể hiện qua ngôn ngữ của người
Việt, đă bị bọn Tàu áp đặt sâu
nặng đến thế nào. Một
thí dụ điển h́nh cho căn bệnh nô lệ
giặc Bắc, là cho đến hôm nay, trong đầu
khá nhiều người Việt vẫn tin chắc
rằng vơ thuật của Việt Nam th́ phải
“bắt nguồn từ Trung Quốc.” Hỏi
tiếp nữa th́ họ chống chế rằng
bởi từ Thiếu Lâm Tự, và do Đạt Ma Sư
Tổ truyền ra. Quả là khôi hài. Nếu vậy th́
phải bảo rằng vơ thuật của Tàu vốn
do Ấn Độ truyền sang. Khổ thật.
Kiến thức của họ đă kém, khả năng
suy luận cũng không có, lại mang nặng căn
bệnh thờ Tàu. Từ thời Khổng Khâu xa xưa
măi cho đến hôm nay, bọn người này
chỉ có truyền thống chuyên nghiệp là đi
ăn cắp và ăn cướp, xong đem về bôi
xóa dấu vết rồi cho là của ḿnh.
Làm
hàng nhái rồi tự nhận là do ḿnh "sáng
tạo" ra là truyền thống lâu đời
chứ không phải mới chỉ xuất hiện ngày
nay của Tàu 3. Chúng
ta có nên tiếp tục gọi "Tàu" là
"Trung Quốc" nữa hay không? Để
thể hiện tinh thần tự chủ và độc
lập của dân tộc, người Việt nên ư
thức rơ điều này. Và không nên dùng hai chữ
Trung Quốc.
Bởi đây là thâm ư của Bắc Kinh, cố t́nh
nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người
dân Việt Nam. Do
đó, để chống Tàu, trước hết
mọi người Việt nên chống lại âm mưu
áp đặt tinh thần nô lệ này, qua ngôn ngữ,
của giặc Bắc. Bảo
rằng do thói quen, th́ nên tự hỏi ḿnh có dám
bỏ cái thói quen này hay không? Dĩ nhiên, không mấy
ai dám chấp nhận rằng v́ sợ nên phải dùng
hai chữ Trung Quốc. Vẫn có nhiều người
sẽ t́m đủ lư do để biện minh cho hai
chữ Trung Quốc nơi cửa miệng. Chắc
chắn có người sẽ cho rằng Trung Hoa hay
Trung Quốc cũng chỉ là danh xưng, đâu có ǵ
quan trọng. Những người này đang tự
lừa dối chính ḿnh và cố t́nh dùng xảo ngôn
để lấp liếm và che dấu căn bệnh
tiểu nhược truyền đời. Nếu
chỉ là danh từ, và không có ư ǵ, th́ tại sao không
dám gọi là Tàu? Có
vài người, v́ mặc cảm tự ti kém
khuyết, để tự gạt ḿnh nhằm che
dấu căn bệnh nô lệ ẩn sâu trong tư tưởng,
họ bảo rằng gọi như thế sẽ làm
giảm giá trị tŕnh độ trí thức và
lịch sự của họ. V́ thế họ chỉ dám
dùng chữ Trung Quốc, Trung Hoa để chứng
tỏ họ là kẻ có học thức, là người
lịch sự. Khi
vua Quang Trung tuyên bố
trước ba quân: “Phải đuổi hết lũ
giặc phương Bắc ra khỏi bờ cơi. Đánh
cho chúng nó không c̣n manh giáp.” Ai dám bảo vua Quang
Trung là phường vô học? Để
giữ ǵn nền độc lập và tinh thần
tự chủ của dân tộc, mong rằng những
người Việt này cũng nên từ bỏ cái
ảo giác có học thức và lịch sự của
ḿnh. Nên
hiểu rằng khi người Tây phương gọi
những xứ này là China, Sino, Chinois, qua ngôn ngữ
của họ, trong đầu họ vẫn xem đó là
xứ Tần. Qua ngôn ngữ xử dụng, họ hoàn
toàn không có khái niệm hay ư nghĩ ǵ về một
Nước Ở Giữa cả. Trong khi đó, người
Việt nói đến hai chữ Trung Quốc, chắc
chắn cái h́nh ảnh Nước Ở Giữa đă
thấp thoáng trong đầu. Xin mọi người
để ư đến điều này. Khi
đăng những bản tin ghe thuyền của Tàu
Khựa tấn công ngư dân Việt, báo chí Việt
Nam chỉ dám dùng hai chữ "tàu lạ".
Mọi người đều hiểu tại sao.
Ở đây chúng ta không cần diễn giải thêm.
Rơ ràng là ngôn ngữ thể hiện tâm lư của người
sử dụng. Và ai cũng hiểu đó lá cái tâm lư
hèn hạ nhu nhược của một số người
Việt Nam đối với bọn giặc phương
Bắc. Tương
tự như thế, bất kỳ ai, mở miệng dùng
hai chữ Trung Quốc cũng không thoát khỏi tâm lư
này, dù họ có lớn tiếng hô to: “Đả
đảo Trung Quốc xâm lược.” Hăy tự
hỏi chính ḿnh, tại sao ḿnh không mở miệng nói
được câu: “Đả đảo Tàu Khựa
xâm lược.” Chẳng lẽ ḿnh vẫn c̣n
muốn chứng tỏ cho người khác biết ḿnh
là con người có học thức và lịch sự? Đă
không xóa nổi hai chữ Trung Quốc ra khỏi đầu
th́ khoan nói đến chuyện chống Tàu chiếm
đất, chiếm biển. Nếu chỉ là danh
từ, tại sao không dám gọi là Tàu như cha
ông ta đă dùng hàng trăm năm qua? Không nên
tiếp tục lừa dối chính ḿnh nữa. Xin suy
nghĩ kỹ điều này. Đă
giúp ḿnh và cũng giúp người. Mọi người
Việt cùng nhau giữ nước qua ngôn ngữ. Vô cùng
quan trọng nhưng lại không hề tốn một
giọt máu. Đây
là điều đầu tiên và căn bản, vô cùng
quan trọng, trong tinh thần chống lại bọn
giặc phương Bắc. Xin
nêu ra nơi đây một bài học lịch sử
để mọi người cùng suy nghiệm.... Bài
viết có sử dụng các tư liệu của tác
giả Trần Đức Dũng. (Bài
này là do ḿnh copy nhé, có ghi tên tác giả đó.
Thấy có giá trị về giải thích lịch
sử và văn hóa th́ ḿnh up thôi.) Tóm
tắt cho bạn nào lười đọc là: -
"Trung Quốc"
chỉ là một danh từ tự sướng của
Tàu, tự cho ḿnh là ở giữa, trung tâm thế
giới, cho các nước khác là man di, kém cỏi. -
Nền văn hóa của Tàu là nền văn hóa ăn
cắp của các dân tộc khác rồi xào nấu,
gọi đó là do ḿnh sáng tạo ra nhưng thực
ra chỉ toàn là ăn cắp. Đến đời
Khổng Tử mà dân Tàu c̣n chưa biết trà và lúa
là cái ǵ, những thành quả trí tuệ đặc
sắc như Âm Lịch, 12 con Giáp, h́nh tượng
con Rồng, Kinh Dịch... đều là do người
Việt sáng tạo ra bị dân Tàu ăn cắp
rồi tự nhận là của ḿnh, ngay cả vơ
thuật của Việt Nam cũng không phải là
xuất xứ từ Tàu. -
Hàng trăm năm trước,
dân Việt Nam ta không gọi Trung Quốc mà gọi là
Tàu. Có thể là do chữ Tần đọc
trại lại mà thành, hoặc có thể là từ
lịch sử đám quan lại nhà Minh sang xin tỵ
nạn tại Việt Nam băng đường
biển. -
Chỉ có dân Tàu và dân Việt sử dụng danh
từ Trung Quốc (nước ở giữa), các nước
khác đều gọi là China
hay Sino (dịch sang tiếng Việt là Tần). -
Việc người Việt gọi nước Tàu là
Trung Quốc một phần là nằm trong kế
hoạch áp đặt tư tưởng nước chư
hầu của Tàu lên Việt Nam -
Tiếp tục gọi là Trung Quốc theo ư muốn
của họ, hay quay trở lại gọi là Tàu như
cha ông ta trước đây hoặc gọi là Sino như
các nước khác là do mọi người tự
quyết định. |