Một nhận định khác về chữ “Việt” trong quốc hiệu Việt Nam * Khảo luận |
Quốc
hiệu của mỗi quốc gia là biểu tượng
cho kỳ vọng của công dân nước đó.
Chẳng hạn Trung Hoa có nghĩa là bông hoa của
trung tâm thế giới, Nhật Bản là xứ
mặt trời mọc. Quốc hiệu Việt Nam 越南,
theo nghĩa của âm thanh, là dân Việt ở phương
Nam. Tuy nhiên xét theo nghĩa chữ là vượt
đường về phương Nam. Tôi c̣n
nhớ hồi tôi c̣n học lớp đệ lục,
thầy dạy sử địa đă chiết tự
chữ “việt” để giảng cho chúng tôi.
Chữ “việt” gồm bộ “tẩu” 走
nghĩa là
chạy và chữ “quá” 戈
nghĩa là
cái mác hay cái búa. Rồi thầy cười nói,
“Tổ tiên ḿnh bị người Tàu rượt, nên
vác búa chạy về phương Nam chứ không
chịu bị họ đồng hóa.” Lời
giảng của thầy xem ra cũng đúng với
lịch sử lập quốc của dân Việt.
Từ đó tôi tin Việt Nam có nghĩa là vượt
núi rừng đi về phương Nam. Có lẽ
nhiều người, cho đến ngày nay, cũng
vẫn c̣n nghĩ như tôi. Tuy nhiên, vài năm
gần đây một số vị thức giả căn
cứ vào tám chữ khắc trên thanh gươm
cổ của vua Việt Câu Tiễn, họ đă
đặt lại vấn đề ư nghĩa quốc
hiệu Việt Nam. Sơ
lược về Việt Câu Tiễn Câu
Tiễn là vua nước Việt, trị v́ trong
khoảng 496-465 trước Công nguyên, ứng với
cuối thời Xuân Thu. Nước Việt hồi
đó bao gồm Thượng Hải, miền bắc
Chiết Giang và miền nam Giang Tô ngày nay. Năm 494
TCN, vua nước Ngô là Ngô Phù Sai mang quân đánh nước
Việt. Câu Tiễn bị thua rồi bị đày qua
Ngô làm kẻ hầu hạ. Sau ba năm chịu
khổ nhục đến phải nếm phân cho Ngô Phù
Sai, Câu Tiễn được cho trở về nước.
Trở lại đất Việt, Câu Tiễn bề
ngoài giả vờ tuân phục nhà Ngô, nhưng bí
mật cho luyện tập quân sĩ. Ông tiến dâng
vua Ngô mỹ nhân Tây Thi và hối lộ các quan
chức để lũng đoạn triều đ́nh
Ngô. Khi quân lực đủ mạnh, ông mang quân đánh
nước Ngô để phục thù. Ngô Phù Sai xin
đầu hàng, nhưng Câu Tiễn không chấp
thuận. Phù Sai phải cắt cổ tự vận.
Bàn
về ư chí phục quốc, Việt Câu Tiễn là
vị vua can trường. Ông đă có công ǵn giữ
và phát triển giang sơn từ một nước
bại trận điêu tàn thành một quốc gia hùng
cường hưng thịnh. Vào
năm 1965, một nhóm khảo cổ Trung Quốc đào
được ở Hồ Bắc một thanh gươm
cổ. Gươm có tuổi khoảng 2.000 năm nhưng
vẫn c̣n sắc bén. Căn cứ trên 8 chữ
khắc trên kiếm, người ta khẳng định
đó là cây gươm của Việt Câu Tiễn.
Thanh kiếm này hiện được lưu giữ
ở viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung Quốc.
Cây
gươm của Câu Tiễn không rỉ sét, c̣n nguyên
vẹn hoa văn và chữ viết. Lưỡi gươm
hai mặt vẫn c̣n sắc bén. (nguồn h́nh: internet) Diễn
tiến về sự biến đổi văn tự
cổ Người
ta nhận thấy ngay các chữ khắc trên thanh gươm
không phải là chữ Hán. Chúng là những chữ có
từ thời sơ khai mà nhiều học giả cho là
tiền thân của chữ Hán. Người b́nh dân thường
gọi chúng là chữ “con trùng” v́ nét chữ
vặn vẹo như con trùng. Các học giả đă
ra công tổng hợp được khoảng 4.500
chữ “con trùng”. Những chữ này theo thời
gian đă được giản dị hóa cho dễ
viết. Người ta phân chia sự biến đổi
đó qua 3 thời kỳ. Cổ nhất là loại
chữ được khắc trên mu rùa hay trên xương
trâu, v́ vậy chúng được gọi là giáp
cốt văn (giáp = mu rùa, cốt = xương).
Kế đó là thời chữ cổ được
viết trên đồ gốm. Sau chót là chữ
được khắc trên đồ đồng.
Chữ
cổ tiếp tục biến đổi theo thời
gian cho đến thời Tam Quốc (220-280 TCN) th́
một biến cố lớn xảy ra. Sau khi Lưu
Bang thống nhất tam quốc rồi lập ra nhà Hán.
Nhà Hán gọi văn tự riêng của họ là
chữ Hán và bắt các thuộc địa phải dùng.
Nhà Hán là thời kỳ cực thịnh của Trung
Hoa nên người Tàu ai cũng nhận ḿnh là
chủng tộc Hán. Từ đó văn tự chính
của Trung Quốc là chữ Hán. Những nước
nhỏ thần phục tuy đều có văn tự
riêng, nhưng đều phải dùng chữ Hán.
Quốc hiệu Việt Nam 越南
cũng do
triều đ́nh Trung Hoa viết theo chữ Hán của
họ, rồi mặc nhiên được mọi người
công nhận cho đến ngày nay. Đối
chiếu những chữ trên thanh gươm với
chữ Hán Trên
thân cây gươm của Câu Tiễn có khắc hai hàng
chữ “con trùng”, mỗi hàng 4 chữ. Các học
giả Trung Hoa đă giải mă chúng qua chữ Hán như
sau: -
Hàng chữ bên phải: Việt Vương Câu
Tiễn 越王勾践.
(Vua Việt Câu Tiễn) -
Hàng chữ trên trái: Tự tác dụng kiếm 自作用劍.
(Tự làm gươm để dùng) Muốn
biết bản giải mă chữ Hán có đúng
với nguyên bản hay không, chúng ta phải làm
cuộc đối chiếu với bản văn chính
gốc khắc trên kiếm. Chúng tôi dựa vào từ
điển cổ ngữ của ông Richard Sears để
nhận dạng tám chữ khắc trên thanh gươm
Câu Tiễn. Ông Sears đă bỏ ra 22 năm nghiên
cứu cổ ngữ của những nước có trước
đời Hán. Mỗi chữ được ông ghi
dấu bằng một mă số.
Hàng
chữ bên phải:
đọc từ trên xuống
Chữ
thứ nhất: là chữ “Việt”. Chữ này không
t́m thấy chữ tương đương trong
từ điển cổ tự. Chúng tôi sẽ bàn
về chữ này ở cuối bài.
Chữ
thứ 2: chữ khắc trên gươm được
nhận diện là chữ có mă số B00449,
khắc trên đồ đồng. Nó là gốc
của chữ “vương” 王
viết
theo chữ Hán ngày
nay.
Chữ
thứ 3: là chữ “Câu”. Chữ này không t́m
thấy chữ tương đương trong từ
điển. Chúng ta chấp nhận nó là chữ “Câu”
勾
ngày nay,
theo giải thích của các nhà khảo cổ Trung Hoa.
Chữ
thứ 4: chữ khắc trên gươm được
nhận diện là chữ có mă số B15585,
khắc trên đồ đồng. Nó là gốc
của chữ “Tiễn” 践
viết
theo chữ Hán ngày nay Hàng
chữ bên trái:
đọc từ trên xuống
Chữ
thứ nhất: chữ khắc trên gươm được
nhận diện là chữ có mă số B05272
khắc trên đồ đồng. Nó là gốc
của chữ “tự” 自
Hán văn
ngày nay.
Chữ
thứ 2: chữ khắc trên gươm được
nhận diện qua chữ có mă số B12328,
khắc trên đồ đồng. Nó chính là gốc
của chữ “tác” 作
ngày nay.
Chữ
thứ 3: chữ khắc trên gươm được
nhận diện qua chữ có mă số B04943,
khắc trên đồ đồng. Nó là tiền thân
của chữ “dụng” 用
ngày nay.
Chữ
thứ 4: không t́m thấy trong tự điển.
Chữ này được học giả Trung Quốc
dịch là “kiếm”. Khảo
sát về hai chữ “gươm” và “Việt” không
có trong từ điển Trước
hết xin nói về chữ kiếm trong câu “Tự tác
dụng kiếm”. Chữ kiếm viết theo Hán
tự là 劍.Nó
được cấu tạo bởi chữ “thiêm” 僉
và
bộ “đao” 刀
(viết
giản lược là 刂) Trong
khi đó chữ khắc trên thanh gươm có
dạng như sau:
Chữ
thứ nhất được nhận diện với
chữ có mă số B19132 khắc trên đồ đồng,
chính là chữ “kim” 金
ngày nay.
Chữ thứ hai được nhận diện
với chữ có mă số L13088 viết trên đồ
gốm và chữ B11167 khắc trên đồ đồng,
chính là gốc của chữ “kiêm” 兼
ngày nay. Như
vậy chữ khắc trên thanh kiếm được
thành lập bởi chữ kim và chữ kiêm 鎌
.
Đây chính là chữ “gươm”. Nó là chữ
Nôm. Chữ này không có trong bất cứ từ điển
nào của Trung Quốc từ xưa đến nay,
kể cả bộ sưu tập chữ cổ của
Richard Sears, nhưng có trong từ điển chữ Nôm.
Nó hoàn toàn khác hẳn với chữ “kiếm” 劎
(viết
giản lược là 劍).
Như vậy “gươm” là tiếng Việt chính
thống, “kiếm” là tiếng Hán Việt du
nhập sau này. Từ đó có thể suy ra chữ Nôm
là văn tự của Lạc Việt đă có từ
thời lập quốc, xuất hiện trước
khi có chữ Hán. Nhận định này không phủ
nhận có những chữ Nôm được thành h́nh
sau khi có chữ Hán. Tuy nhiên đó chỉ là sự
bồi bổ thêm mà thôi chứ không thể nói
chữ Nôm bắt nguồn từ chữ Hán. Tiếp
sau đây chúng tôi xin nói về chữ “Việt”. Nó
là chữ quan trọng nhất v́ đă khai thông
một vấn nạn mù mờ hằng ngàn năm nay.
Như đă nói trên, chữ “Việt” không t́m
thấy những chữ tương đương
trong bất cứ bộ từ điển nào. Chúng ta
phải phân tích nó từ chính dạng nguyên thủy
khắc trên thanh gươm.
Chữ
khắc trên gươm được nhận diện
qua chữ có mă số B01749 thời đồ đồng.
Cả hai chữ Việt này đều không có bộ
tẩu (走)
như trong chữ Việt (越)
của Hán ngữ. C̣n
chữ tẩu 走
này chúng tôi
dễ dàng t́m thấy có 2 chữ tương đồng.
Một chữ có mă số L35442 thuộc thời đại
đồ gốm
Tốt
hơn cả chúng ta hăy tự phân tích chữ Việt
khắc trên thanh gươm. Chữ Việt này gồm
3 tự, chúng tôi xin tách riêng ra từng phần và
đánh dấu thứ tự như sau:
Tự
thứ nhất ứng với chữ mă số J15884,
thời giáp cốt văn. Từ điển giải
thích là chữ “nhật” (mặt trời).
Tự
thứ hai ứng với chữ mă số J25326,
thời giáp cốt văn. Từ điển giải
thích là chữ “long” (rồng).
Tự
thứ ba ứng với chữ mă số B01747, thời
đồ đồng. Từ điển giải thích
là chữ “Việt”. Nh́n kỹ chúng ta thấy
chữ này tượng h́nh người gắn lông
chim tay cầm cung hay cây côn. H́nh này được
khắc rơ ràng trên mặt trống đồng. Chúng tôi
mượn h́nh minh họa theo h́nh khắc trên
trống đồng Khai Hóa của website “An Việt
Toàn Cầu” để cho rơ hơn. Như
vậy chữ Việt là một biểu tượng
của lưỡng tổ rồng tiên (theo huyền
sử Lạc Long Quân và Âu Cơ). Đồng thời
chữ Việt c̣n cho biết Lạc tộc theo tín ngưỡng
phồn thực trong đó mặt trời là nguồn
năng lực chính của nông nghiệp. Đây là
một bằng chứng về tầm quan trọng
của huyền sử rồng tiên và trống đồng
trong ḍng chính sử Việt Nam. Chúng
ta có thể đặt vấn đề: nếu
chữ Việt đẹp tuyệt vời cả
về nét minh họa lẫn ư nghĩa, vậy tại
sao Hán văn lại viết khác, nếu không muốn
nói là làm giảm giá trị của chữ gốc.
Tiến sĩ Nguyễn Đại Việt đă
nhận định rằng, người Hán có chủ
trương coi rẻ những quốc gia nhỏ
thần phục nhà Hán. Họ cố t́nh viết
chữ Việt như thế với dụng ư châm
biếm. Tiến sĩ Nguyễn đưa ra dẫn
chứng người Hán đă đặt tên cho
một tiểu quốc ở biển Đông là Oa (倭)
có nghĩa là xứ những tên lùn. Măi đến
thứ kỷ thứ 8, các học giả nước này
mới nhận ra thâm ư đó và họ đă vội
vàng sửa lại cho đúng quốc hiệu của
họ là Nhật Bản (日本).
(*) Xét
cho cùng, chữ “Việt” không đơn giản là
một cổ tự. Nó là một biểu tượng
mang đầy dụng ư của tiền nhân. Nó là
kết tinh văn hóa Việt và mang danh dự của
quốc gia. Với niềm hănh diện này, chúng ta hy
vọng vấn đề quốc hiệu Việt Nam
sẽ được các bậc thức giả làm cho
sáng tỏ hơn. Từ đó chúng ta mới có
một ư thức mới về chính con người
Việt Nam của ḿnh. ĐỖ
NGỌC TRANG (*)
Tự điển trực tuyến Việt Hán Nôm
giảng nghĩa chữ Oa là lùn. Kèm theo lời chú thích
“Người Nhật Bản thấp bé nên ngày xưa
gọi là Oa nhân.” Quả là một lời giải thích
vô tư, hay ngây thơ, hay mặc nhiên chấp
nhận sự kỳ thị chủng tộc của người
Hán. Có lẽ chúng ta không muốn chấp nhận danh
xưng Nam man do người Hán đă có thời
gọi chúng ta như vậy. (Ghi
chú: h́nh cây gươm của Câu Tiễn được
post lên trong nhiều website khác nhau nên chúng tôi không rơ
nguồn chính của nó từ website nào). Tham
khảo: Nguyễn
Đại Việt. “Viết lại tên Bách
Việt”. 2012. Richard
Sears. Chinese Etomology. www.chineseetomology.org Đọc
thêm bài: |