Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam Hồ Đ́nh Vũ |
Có nhiều nơi ở miền Nam ḿnh đă đi qua, đă ở đó, đă nghe nói tới hoặc đă đọc được ở đâu đó... riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc; nhưng chắc ít khi ḿnh có dịp t́m hiểu tại sao nó có tên như vậy? Bài viết này được h́nh thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương ḿnh. Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ư kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn. Đất
Nam Việt mà trước đây người ta c̣n
gọi là Nam Kỳ, người Tây Phương khi
đặt chân lên xứ ḿnh hồi thế kỷ 16,
17 đă gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng
Trong. Người
ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng
có nhiều nai), Lộc Dă, Lộc Đồng (cùng
một nghĩa) hoặc Nông Nại, là nơi mà người
Việt ḿnh đặt chân lần đầu tiên năm
1623. Sử chép rằng Chúa Săi Vương Nguyễn phúc
Nguyên (1613-1635), đă gả Công chúa Ngọc Vạn,
lệnh ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626)
từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô
tại Oulong. Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên
mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ.
Chúng ta đă đặt đầu cầu tại Mô
Xoài (g̣ trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm
1623( Theo Claude Madrolle -Indochine du Sud, Paris 1926). Cũng
trong năm này một phái đoàn ngoại giao đă
được cử sang Oulong để thương
thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan
Saigon. Về sau đến đời vua Réam Thip Dei
Chan(1642-1659), em vua trước, vị hoàng hậu
Việt Nam nói trên đă xin vua Cao Miên cho phép người
Việt được quyền khai thác xứ Biên Ḥa
năm 1638. Sở
dĩ vua Cao Miên đă giao hảo với nước ta
và tự ư nhân nhượng một phần nào, là v́
muốn cậy thế lực của triều đ́nh
Huế để chế ngự ảnh hưởng
của người Xiêm. Như vậy chúng ta đă
đến sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn
đất đai Nam Bộ là do sự thỏa
thuận hoàn toàn của đôi bên, chứ tuyệt
nhiên không phải là một sự xâm nhập. Lại
nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đă
đối phó hiệu quả với những tham
vọng của nước Xiêm và bảo toàn
được nền độc lập của ḿnh. Nói
tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ
hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp t́nh,
hợp lư và hợp pháp. Nói một cách khác công
cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một
sự kiện lịch sử bất di bất
dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây
tiến của người Âu Châu tại Mỹ
Quốc và cuộc Đông tiến của người
Anh tai Úc Châu. Con
sông Đồng Nai đă đưa ta đến
tỉnh Biên Ḥa (ḥa b́nh ở biên cương),
một trấn đă được sáp nhập vào nước
ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được
gọi là Đông Phố đúng ra là Giăn Phố v́
hai chữ Đông và Giăn viết theo chữ Hán hơi
giống nhau. Về sau nơi này đă được
triều đ́nh Huế giao cho bọn người Trung
Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng
Trần Thượng Xuyên và Trần An B́nh đến
khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao
Phố, sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. Miền
trên Biên Ḥa th́ có Hố Nai (hố sập nai),
Trảng Bom (trảng là một đồi bằng
phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây
chum-bao-hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một
thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để
trị phong hủi. Biên
Ḥa là quê hương của Đỗ Thành Nhân,
một trong Gia định Tam hùng. Hai người kia là
Vơ Tánh quê ở G̣ Công và Nguyễn Huỳnh Đức
quê ở Tân An. Cao
khả xạ hề, đê khả điếu, Chỉ
kích nhơn tâm bất khả pḥng E
sau ḷng lại đổi ḷng, Nhiều
tay tham bưởi chê ḅng lắm anh. Chúng
ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới,
cao 65m trên có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng
tu vào đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công
đức sư Khải Long: Rồi
đến Thủ Đức với những hồ bơi
nước suối, và những gói nem ngon lành. Thủ
nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn
như thủ bạ, thủ hô lo về việc
thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có
những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ
Thừa, Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên
mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước.
Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu
đối "tréo ḍ" Xứ
Thủ Đức năm canh thức đủ Kẻ
cơ thần trở lại Cần Thơ Có
lẽ v́ năm canh thức đủ mà có kẻ than
thân trách phận tự ḿnh sánh với cái nem Thủ
Đức lột trần : Người
ta năm chị bảy em Tôi
đây như thể chiếc nem lột trần. Phía
tay mặt là G̣ Vấp, xưa kia là một ngọn
đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa
kia được coi như thần mộc, yểm
hộ cho dân tộc Chàm. Dă sử thuật lại
rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé
(1627-1651), vua này muốn vừa ư một ái phi người
Việt đă ra lệnh đốn cây Kraik (vấp)
cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự
uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng
không sao hạ nổi v́ vết ŕu mỗi lần
bổ xong th́ khép lại ngay. Nhà vua tức giận
cầm lấy ŕu hạ xuống một nhát, tức
thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây
gục xuống giữa một vũng máu. Và cũng
từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho
đến ngày tàn tạ. Bây
giờ ta vào thành phố Saigon, nơi mà 300 năm
về trước(1674) tiền đạo quân ta
lần đầu tiên đă đặt chân
tới,mang theo khẩu hiệu: " Tĩnh vi nông,
động vi binh". Quân ta không phải tư động
mà đến, chính là do lời yêu cầu khẩn
thiết của nhà đương cuộc hồi
bấy giờ. Họ
khai khẩn đất đai với sức dẻo dai
sẵn có, đào sông ng̣i trong vùng đất thấp
và đây đó khắp nơi, xây dựng thành tŕ kiên
cố. Một
trong những công tác quân sự ấy do tướng
Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772,r ồi đến
thành tŕ Phan An xây năm 1790, kế đến là thành
Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây
đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài
trí như đă ghi trong câu ngạn ngữ : Dân
đất Bắc Đắp
thành Nam: Đông
đă là đông! Sầu
Tây ṿi vọi! Chúng
ta đang ở trung tâm thành phố Saigon (sài là
củi, g̣n là bông g̣n) chuyển sang chữ nho thành Sài-Côn
là củi g̣n, v́ chữ nôm g̣n viết là Côn, như
Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đă ghi trong tác
phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng
c̣n một bản dịch ra pháp văn của ông
Gabriel Aubaret. Nguyên
ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm
của một danh xưng tối cổ Preikor, có nghĩa
là rừng g̣n, một loại cây hiện nay c̣n
trồng ở Thủ Đô. C̣n
danh xưng của Chợ-lớn mà người Tây
đọc liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi
chợ xưa kia nằm trên địa điểm
hiện tại của Sở Bưu điện
Chợ-lớn kéo dài tới tận Đại Thế
Giới cũ. Chợ này lập song song với chợ
nhỏ hiện nay c̣n tồn tại với tên chợ
Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ.
Về sau Chợ-lớn được dời tới
Chợ-lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm
xây tặng, tượng họ Quách vẫn c̣n ở
giữa đỉnh chợ B́nh Tây Sự
biến đổi địa âm dạng của địa
danh Saigon đă tùy sự hiện diện liên tiếp
của những người quốc tịch khác nhau như
Preikor (rừng g̣n), Tai- Ngon hay Thầy g̣n của người
Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan, người phương
tây dùng chữ la mă ghi là Saigon từ năm 1784. Hồi
xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực
Chợ-lớn hiện thời, c̣n chính Saigon bây
giờ th́ khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài
Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo
bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày
mùng 4 tháng chạp năm Gia-Long thứ 14( 1815) ghi trên
vùng Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương
Chợ-Rẫy ba chữ Saigon xứ, khoảng gần Cây
Mai và Phước Lâm. Khu Saigon cao, nằm phía Đồn
Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm
1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đă
có người ở từ thời thượng
cổ, chứng cớ là những khí giới và đồ
dùng bằng đá mài t́m thấy khi đào móng nhà
thờ Đức Bà. Khu thấp thường gọi là
Bến Nghé hay bến Thành. Bến
Thành là cái tên ở gần hào thành Gia-Định,
nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành
với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là
chợ Bền Thành. Cái rạch ấy về sau
lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và
đến bây giờ có câu ca dao như sau: Chợ
Bến Thành đèn xanh đèn đỏ, Bến
Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống
nước của trâu con, do một tên rất cũ là
Kompong Krabey (bến trâu) đă được Việt
hóa. Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất
(1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá
sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến
Nghé- Trịnh hoài Đức dịch là "Ngưu-tân"
Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông
Bến Nghé, cũng có tên là Tân B́nh Giang hay là Đức
Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo gia-định
thống chí) . C̣n cái rạch Bến nghé nối dài
bởi kinh Tàu -hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là
B́nh Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông
Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé
tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé
tức là nói đến Nam Bộ vậy. Trên
rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc
cầu ván dựng tạm cho người qua lại.
Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là
cầu Ông Lănh, được xây nhờ công ông Lănh
binh, thời tả quân Lê Văn Duyệt. C̣n những
chiếc cầu khác là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm),
Cầu Kho và Cầu học (giếng học). Về các
công sự th́ có : Chợ
Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950 Nhà
thờ Đức Bà khởi công năm 1877,hoàn thành năm
1883 Sở
Bưu Điện và Ṭa án cất năm 1883 Dinh
Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với
sự tham dự dông đảo của dân chúng.
Thủy sư Đô Đốc De La Grand́ère với
sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte
từ HongKong tới, đă đặt viên đá đầu
tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó
đựng một hộp ch́ chứa nhũng đồng
tiền vàng và bạc dập h́nh vua Napoléon III. Đức
Giám mục Miche, cai quản địa phận,với
một số đông con chiên, đă ban phép lành và
đọc một diễn văn lời lẽ cao quư
đă làm cử tọa đặc biệt chú ư. Công
cuộc xây cất trên một khoảng đất
rộng 14 mẫu tây đă phải dùng tới hai
triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn
mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Ḥa. Công
tác đă hoàn thành năm 1875 và người đầu
tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư
Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc, ngày
7-9-1954 Đại tướng Ely, Cao ủy Pháp đă
trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam
thời bấy giờ. Ṭa
Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do
họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền Viện
Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh thành ngày
1-1-1929 , bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư
hại ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính
phủ Việt Nam ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000
cổ vật đă kê thành mục lục và tŕnh bày
trong 14 gian pḥng. Vườn
Cầm Thảo (Sở Thú) tương tự với
rừng Vincennes ở Pháp, được lập năm
1864. Sau khi đă san bằng,việc đứa thú
tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865. Ngày
28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm
nhiệm việc điều khiển vườn
Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây
ở xứ ta c̣n mang tên nhà bác học ấy. Đây
đó ta c̣n gặp một số địa danh
nguồn gốc Tây Phương như: Ba-Son (Arsenal)
trong có một bến sửa tàu (bassin de radoub) xây
bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858, và
bến tàu nổi được hạ thủy tháng
giêng năm 1866. Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra. Vườn
Bờ Rô (do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn
Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng
Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn. Dakao
là biến danh của Đất Mộ (đất
của lăng) Lăng-tô
là biến danh của Tân Thuận, tên một làng mà dân
Saigon thường đến hóng mát (pointe des flaneurs). Bây
giờ chúng ta rời Saigon xuống đ̣ Thủ-Thiêm
qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ
đang trù định một chương tŕnh
kiến thiết rộng lớn,để biến nơi
này thành một khu vực nguy nga tráng lệ. Con
đ̣ Thủ-Thiêm ngày xưa đă hấp dẫn
một số đông những chàng trai trẻ : Đố
ai ve được con đ̣ Thủ-Thiêm. nhưng
một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói
lửa chiến tranh,đến khi trở về th́
than ôi : Ngày
đi trăm hoa hẹn ḥ, Ngày
về vắng bóng con đ̣ Thủ-Thiêm! Từ
Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một
nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngă Ba Sông Nhà Bè, nơi mà
con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng
gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ
ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để
bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ
đường và ngày nay c̣n vọng lại mấy câu
ḥ t́nh tứ của cô lái miền quê: Nhà
Bè nước chảy chia hai: Ai
về Gia định Đồng Nai th́ về! Rời
Nhà Bè, chúng ta trở lại Saigon để đi
về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô trù
mật ở phía đông, chúng ta phải đi qua
một cái cầu gọi là Cầu Bông, v́ xưa kia
ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có
lập vườn hoa rất ngoạn mục. Bà
Chiểu tỉnh lỵ Gia định, nổi tiếng
về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832),
một vĩ nhân được người Việt và
người Tàu tôn thờ như một vị
thần thánh. Theo
Trương Vĩnh Kư th́ Bà Chiểu là một trong 5
bà vợ của ông Lănh Binh đă xây cái cầu ông Lănh.
Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ
ngày xưa thường áp dụng, ông đă lập
ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một cái:
Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chỉểu (Gia-Định),
Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà
Điểm (phía Thụân Kiều). Riêng chợ Bà
Điểm gần làng Tân Thới quê hương
của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân
Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng
bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng
ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu
chuyện, cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở ǵ cũng
do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả : Trồng
trầu trồng lộn dây tiêu Con
theo hát bội mẹ liều con hư! Từ
Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để
rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là
Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất
nhiều hành kiệu. Phú-Nhuận (giàu sang và thuần
nhă) là nơi c̣n nhiều cổ tích như: Lăng
Đô-đốc Vơ Di Nguy, mất tại cửa
bể Thị Nại năm 1801. Lăng Trương
Tấn Bửu và lăng Vơ Quốc Công tức là
hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua Gia-Long có cho
trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để
tỏ ḷng mến tiếc. Vơ Tánh là một trong Gia-Định
tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu
ḥ giao duyên.Theo thường lệ : Người
con gái lên tiếng trước : Nghe
anh làu thông lịch sử, Em
xin hỏi thử đất Nam-Trung : Hỏi
ai Gia-Định tam hùng, Mà
ai trọn nghĩa thủy chung một ḷng ? Người
con trai liền đáp lại : Ông
Tánh, Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức, Ba
Ông hết sức pḥ nước một ḷng Nổi
danh Gia-Định tam hùng: Trọn
nghĩa thủy chung có Ông Vơ Tánh, Tài
cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh, Bước
lên lầu bát giác thiêu ḿnh như không! Về
phía Tân Sơn ḥa có Lăng Cha Cả là một cổ
tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng
Saigon. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc,
mất tại cửa Thị Nại năm 1799. Rời
khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một chiếc
thuyền con về vùng Lái-Thiêu (tức là ông Lái
gốm họ Huỳnh đă thiêu nhà v́ say rượu)
để thăm vườn trái : Ghe
anh Nhỏ mũi tráng lường Ở
trên Gia-Định xuống vườn thăm em. Nơi
đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc
biệt như: dâu da, thơm, ḅn bon, mít tố nữ,
măng cụt và nhất là sầu riêng (durian) là
giống cây từ Mă-Lai đưa vào Cây Sầu riêng
thân cao lá ít, trái có gai bén nhọn kinh khủng, cho nên
trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh
vắng mà thôi! Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào
hàng đầu trong các loài trái, v́ nó có đủ năm
mùi hương vị đặc biệt như quả
lê Trung hoa. Những người xa lạ phải
chịu nhẫn nại một thời gian mới thông
cảm và khi đă thông cảm rồi th́ thèm
muốn như mê say, chỉ trừ anh học tṛ thi
rớt: Bà
con đón hỏi nhiều bề khó khăn Sầu
riêng anh chẳng buồn ăn, Ḅn
bon, tố nữ anh quăng cùng đường! Tại
vùng Lái Thiêu, có một ngôi nhà thờ cổ kính xây
từ thế kỷ XVIII trên ngọn đồi xinh tươi,
chung quanh có nhiều ḷ gốm, ḷ sành và một trường
dạy học cho trẻ em câm điếc với
một phương pháp riêng biệt. Đến
Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long
ở vùng An-Sơn, có ông huề thượng thâm nho,
thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho
những khách nhàn du : Rượu
áp sanh (absinthe) say chí tử Có
người đă đối lại như sau : Bóng
măng cụt mát nằm dài Trong
chùa ông huề thượng có ghi hai câu : Cúng
b́nh hoa, tụng pháp hoa, hoa khai kiến Phật. Dâng
nải quả, tu chánh quả, quả măn thông Thần (sưu
tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong
Văn hóa nguyệt san số 33 năm 1958) Tên
gọi Saigon từ đâu? Đây
là một đề tài được các nhà nghiên
cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất
nhiều th́ giờ và công sức. Cho
đến nay th́ có khoảng 5 giả thuyết về
xuất xứ của chữ Sài G̣n, trong đó có 3
thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3
thuyết quan trọng hơn dưới đây: Sài
G̣n từ Thầy Ng̣n (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây
Cống): Đây
là thuyết được đưa ra bởi 2 tay
thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người
bị giặc Cờ Đen phục kích chết ). Theo
Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier,
Cholen, th́ người Tàu ở miền Nam, sau khi
bị Tây Sơn tàn sát, đă lập nên thành phố
Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành
phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau dó, người
Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành
Sài G̣n. Thuyết
này được hai học giả là Vương
Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ư.
Quả thật, trên phương diện ngữ âm, th́
Thầy Ng̣n, Xi Coón, rất giống Sài G̣n! Tuy nhiên,
theo lịch sử th́ không phải. Tại
sao? V́ lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước,
rồi người Tàu mới đọc theo và đọc
trại ra thành Thầy Ng̣n, Xi Coọn. Theo
Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn
viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất
Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn
đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài G̣n"(theo
Hán-Việt viết là "Sài Côn"). Đây là
lần đầu tiên chữ Sài G̣n xuất hiện
trong tài liệu sử sách Việt Nam . V́ thiếu
chữ viết nên chữ Hán "Côn" được
dùng thế cho "G̣n". Nếu đọc theo Nôm là
"G̣n", c̣n không biết đó là Nôm mà đọc
theo chữ Hán th́ là "Côn". Như
vậy, ngay từ năm 1674 đă có địa danh
Saigon! Th́ làm ǵ phải đợi đến 1778 khi người
Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt
rồi chạy xuống lập nên Thầy Ng̣n tức
Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng. Sài
G̣n từ Củi G̣n, Cây G̣n, Prey Kor. Thuyết
này được Petrus Trương Vĩnh Kư
đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như
sau: Pétrus-Trương
Vĩnh Kư- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong
Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale 1885. Không
biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương
Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là
"của" Trương Vĩnh Kư , mặc dù ngay
sau đoạn này, TVK lại viết tiếp "Theo
ư tôi, h́nh như tên đó là của người Cao
Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên
gọi thành phố. Tôi chưa t́m ra được
nguồn gốc đích thực của tên đó". Nói
chung, các thuyết này đều dựa trên một
đặc điểm chính: cây bông g̣n. Sài
G̣n từ Prei Nokor Đây
là thuyết mà thoạt đầu khó có thể
chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng
hiện nay được coi như là "most
likely". Chính
Petrus Trương Vĩnh Kư là người đưa
ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Tŕnh Địa Lư Nam
Kỳ, ông đă công bố 1 danh sách đôi chiếu
187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như
Cần Giờ là Kanco, G̣ Vấp là Kompăp, Cần
Giuộc là Kantuọc và Sài G̣n là Prei Nokọr Trước
nhất, theo sử Cao Miên được dịch
lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ
thần của chúa Nguyễn đem quốc thư
tới vua Cao Miên và ngỏ ư muốn mượn
xứ Prei Nokor(Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để
đặt pḥng thu thuế. Đó
là theo sử sách, c̣n theo tiếng nói th́ Prei Nokor (hay
Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn),
có nghĩa là "thị trấn ở trong
rừng", Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là
thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đă
mượn làm nơi thu thuế như đă nói
ở trên. Theo
tiến tŕnh của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành
RAI, thành"Sài", Nokor bị bỏ "no" thành
"kor", và từ "kor" thành "G̣n". Từ
Prei Nokor …mà thành SàiG̣n th́ thật là …dễ sợ
! C̣n
sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ
Tây phương đă bỏ mất dấu và gắn
liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để
khỏi đọc "sai" ra "sê" theo
giọng Pháp nên Saigon được viết với
hai dấu chấm trên chữ i. Ca
dao tục ngữ Sài G̣n Saigon
là Ḥn ngọc Viễn Đông, là một thành phố
lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Saigon
được mệnh danh là Kẻ Chợ, đă là
Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi
chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra
vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon
được đồng bào Hậu Giang so sánh
với ngôi chợ tỉnh nhà: Chợ
Rạch Giá cẩn xi măng. Giă
em xứ sở vuông tṛn, Anh
về xứ sở không c̣n ra vô. Người
con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây
phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc
mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tṛn nên
phải ra vô, nàng vuông tṛn chàng yên tâm về xứ
sở. Cúc
mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy, Chợ
Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa. Viết
thư thăm hết mọi nhà, Trước
thăm phụ mẫu sau là thăm em. Saigon
và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây
số, nay tuy thật gần những xưa thật xa,
v́ phương tiện di chuyển đâu có dồi dào
như nay, chàng và nàng dù đă yêu nhau, nhưng
mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi
bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ
Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau,
chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy
giấy thay lời. Chàng yêu nàng v́ duyên, v́ t́nh, t́nh
yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc
thấy nàng nghèo mà chê. Anh
coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu. Lấy
anh em đâu kể sang giàu, Rau
dưa mắm muối có nơi nào hơn em. Chợ
Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh
đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là
đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có
thể có được, nhưng lầm về yêu
đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng
đâu có kể sang giàu, v́ tiền tài bao nhiêu cũng
có thể hết, duy t́nh nghĩa mới bền lâu, như
người xưa đă nói: Vàng
thời đă hết, ngăi tôi vẫn c̣n. Chính
v́ nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa,
người con trai đứng ngồi không yên: Chim
quyên xuống đất tha mồi, Tôi
xa người nghĩa đứng ngồi không yên! Giấy
tây bán mấy, Mua
lấy tờ nguyên, Làm
thơ hỏi bạn t́nh duyên chuyện ǵ? Mến
thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng
Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn: Mấy
ai được nết nhu ḿ như em. Hai
hàng lụy ngọc ướt nhèm, Làm
sao cho đặng anh với em giao ḥa. Sự
ước vọng, ḷng mong mỏi của chàng là
được cùng nàng giao ḥa! Súp
lê c̣i thổi bộ hành lao xao. Sao
lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng đây
là bến của đô thành Saigon hay của Gia Định
thành? C̣n khách bộ hành lao xao v́ muốn ngắm tàu
Tây. Nghe
em có chốn anh đành quăng om! Anh
ngồi quạt quán Bà Hom, Hành
khách chẳng có, đá om quăng ḷ. Chàng
trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với b́nh
trà Huế, được tin người ḿnh thương
đă có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu
quẳng cả b́nh trà đi! Kể cũng đáng
buồn, tưởng được cùng người
thương thưởng thức b́nh trà (om) ngon,
ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm
hận, trút mối giận vào om, cái b́nh trà vô
tội. Nhắc
đến Bến Thành, quên sao được thành Tây: Dân
đất Bắc, Đắp
thành Tây. Đông
thật là đông, Sầu
Nam vời vợi. Câu
này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất
Bắc phải chăng những người dân
miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp
thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều
lắm, Đông thật là đông. Sự đông
đúc này quả là một mối sầu vời
vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất
nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp thành
cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành tŕ
đô hộ đồng bào ḿnh. Người miền
Bắc bị đi dân phu hằng than thở: Nhà
tan nước mất ai ơi, Cái
thân nô lệ sống đời cu ly! Người
dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ
cao áo dài hà hiếp dân để nịnh bợ quân
thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ măi
quốc cầu vinh, cơng rắn cắn gà nhà, có bao
giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời
vợi. Và trong khi sống đời cu ly đi đắp
thành Tây, đă biết bao nhiêu người bỏ thây
cùng công việc, ngày xưa đâu đă có máy móc,
kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn công
ở sức người. Trên
thượng thơ bán giấy Dưới
Thủ Ngữ treo cờ. Ḱa
Ba c̣n đứng trơ vơ! Nào
khi núp bụi, núp bờ, Mũi
Di đánh dạo bây giờ bỏ em. Thượng
thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc
đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi
ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là
bán giấy. Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp
đóng, cọ dựng cột cờ. Con người
ái quốc trông hai nơi này căm gan sôi ruột! Ai
đă khéo đạt ra cau ca dao trên để kích thích
ḷng căm hờn của người dân Việt,
đă nhắc đến tượng Gambotta ở vườn
Tao Đàn, gọi một cách nhục nhă là Ba Tượng
một người Pháp gọi là Ba, ai là dân Việt
ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao
chỉ có ba ḍng đầu có thể gợi sự
nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy
phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời t́nh
nhân oán trách t́nh nhân che dấu ư kín của câu hát.
Tuy đây là lời t́nh nhân oán trách t́nh nhân, nhưng
cũng là lời đồng chí oán trách đồng
chí, đă cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đă cùng
nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau,
về đầu thú người Pháp để
cầu công danh phú quư. Pháp
chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm
hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam
kém ư thức, v́ hoàn cảnh đă sánh duyên với
Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời
gian ở đất Việt, rồi anh lính trở
về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt
lại lấy chồng, đậng một anh lính khác,
chẳng khác chi các nàng Giao chỉ sau này trong thập
niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính
Mẽo: Saigon
mũi đỏ, Gia
Định súp lê. Giă
hiền thê ở lại lấy chồng, Thuyền
anh ra cửa bể như rồng lên mây. Thuyền,
tàu Saigon hồi đó sơn mũi đỏ để
phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như
vậy thực dân tiện bề kiểm soát. Thuyền
anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này
muốn nói khi anh lính Tây đă ra cửa bể
rồi, anh tha hồ được tự do, đến
bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người
mới. Về
các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa,
chúng tôi đă từng nhắc tới một câu trong
ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được
nhắc lại như sau: C̣i
súp lê hai anh nức nở vắn dài. C̣i
súp lê ba, tàu ra biển Bắc, Nước
mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm, T́nh
nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên. Cuộc
tiễn đưa ắt phải xảy ra tại
bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đă thút thít v́
phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên,
có thật hay chăng anh ra cửa bể như
rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu
thơ trên, hay ư tại ngôn ngoại, chỉ có sự
mâu thuẫn trên h́nh thức, c̣n thực ra th́ ngàn
dặm có đời nào mà không quên đối
với những lứa đôi dị chủng, nhất
là trong cuộc chắp nối giang hồ. Saigon
nơi có đô hội lớn, phố xá rộng răi,
cây cao và rậm mát: Đường
Saigon cây to bóng mát, Đường
Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi. Đường
Saigon có đúng cây to bóng mát, c̣n đường
Chợ Lớn có lẽ trước đây với
đất phù sa của đồng bằng Cửu
Long, cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới
thời Pháp thuộc, đường Saigon cũng như
đường Chợ Lớn đều đă
rải đá và sau này tráng nhựa... Ngày nay, với
thời gian đường đă hư hỏng dù
rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền có ít
chú ư tới sửa chữa, nên có thể có người
than: Đường
Saigon ổ gà đi xóc, Đường
Chợ Lớn đi xóc ổ gà. Ca
dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh,
nhắc tới địa danh một cách khéo léo: Bước
qua Bến Nghé ngồi nhai thịt ḅ. Trong
bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn
cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Ḅ với hai địa
danh là Đồng Nai, Bến Nghé. Dưới
đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài
chợ Bến Thành: Mẹ
đi chợ Quán, chợ Cầu, Mua
cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh. Đầu
tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi
hồi trước của con rạch Thị Nghè
quận 1 sát bên Sở thú Sài G̣n. Trong Gia Định
phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh. Coi
ngoài rạch Bà Nghè, ḍng trắng hây hây tờ
quyến trải, Ngó
lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm
rai. Tôi
chịu thua, t́m cả trong tự điển cây
"chàm rai" là cây ǵ, mà lá nó xanh dữ vậy. Đôi
ṿng Bà Chiểu thích t́nh dạo chơi. Có
lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm.
Tương truyền bà Điểm là một chủ
quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có
18 thôn vườn trầu, nơi đây B́nh Tây Đại
Nguyên soái Trương Định từng hoạt
động (khoảng năm 1861). Thí
dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường
13, 14 quận Tân B́nh. Ai đi trên đường lên
Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có
một ngă ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 th́
quẹo trái (rẽ) vào. Hay
Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận
5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé,
nay bị lấp rồi. Bà Đô c̣n là tên chiếc
cầu ở đầu đường Hàm Tử
bắc qua rạch Bà Đô (c̣n gọi là Thị Đô).
Dân chèo ghe ở Sài G̣n hồi trước, qua đây
hay hát: Xóm
Lá là chợ, Thị Đô là cầu. Hay
như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ,
từ đầu đường Tản Đà đến
đầu đường Phú Định. Trong Gia
Định phú có câu ví rất hay: Giếng
Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy
thỏa t́nh khát vọng Tên
cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ
Bà rất nhiều. Như: rạch Bà Bướm có tên
từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông,
quận 7 chảy vào sông Sài G̣n, nay nằm trong khu
chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy
chảy qua hai xă Trung Lập Thượng và Trung
Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh
giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom
vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp
ranh với Tân B́nh và B́nh Chánh, vừa là chiếc kênh
ở xă Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch
ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc
cầu bắc qua rạch Lào trên đường
Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà
Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà
Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu, là rạch, là
tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là
chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1.
Khắc trong tiếng Nam Bộ c̣n gọi là Khấc,
để cầu khỏi trơn trợt. Trong
bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu: Trên
cây Da C̣m, nỡ để ông già gùi đội Dưới
đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ
lạc loài. Chiếc
cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không c̣n
nữa. Nhiều tên đường cũng tên bà, như
đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn
phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue
Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre
Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến
ngày nay. Bà Kư là đường trên địa bàn phường
9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ
đường Phạm Văn Chí với Ḷ Gốm,
nay tên đường mới là Đặng Thái Thân.
Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là
Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành
đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau
Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là
Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu...
Chắc là c̣n nhiều "bà" nữa mà người
viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người
t́m thêm nữa. Cũng
lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông,
chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất
gắn với một bà nào đó, th́ có cả ca dao,
câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn
ông th́ thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu
đố nào. Dù sao, có bà th́ phải có ông, bởi
thiếu ông nghe như trống trải trong ḷng
vậy. Ở
Sài G̣n địa danh mang tên năm ông sau đây,
cứ nhắc tới th́ cả nam, phụ, lăo, ấu
ai cũng rành. Đầu
sổ là Ông Lănh. Gắn liền với Ông Lănh là
chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lănh, rồi chợ
Cầu Ông Lănh, và phường Cầu Ông Lănh (Nói
nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời
dữ lắm nghen, nay th́ đỡ nhiều rồi).
Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%,
nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lănh là
ai vậy, thưa bà con, th́ nghe chừng ngắc
ngứ lắm! Có giả thuyết cầu này do ông Lănh
binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 - 1866) đóng quân
ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đ́nh
Nhơn Ḥa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả
lại,năm 1885, Trương Vĩnh Kư có viết
rằng chiếc cầu gỗ do ông lănh binh ở
gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lănh binh Thăng
này, chớ không phải ai khác. Cũng có người
bảo, cầu này ở cạnh một ông lănh
sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng
chuyện này không thuyết phục mấy. Hai
là Ông Thượng. Người Sài G̣n trọng
tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng
th́ biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận
1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa
chắc hiểu vườn Ông Thượng ở
đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian
gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn
Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế
kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi
đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả
cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn
Đ́nh Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến
đây coi tuồng hát bội. Ba
là Ông Tố. Giồng Ông Tố , hồi năm
nẳm, ở vùng này c̣n nhiều cọp beo và
nhiều ve lắm, nên có câu: Coi
cọp, xuống Thị Nghè Ăn
ve, lên Ông Tố. Ve
mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào,
châu chấu vậy. Không rơ ông Trương Vĩnh
Tố có làm quan chức ǵ, chỉ biết ông ở
gần đấy và khu đất cao (gọi là
giồng) có lẽ là của ông chăng? Bốn
là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy
thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (c̣n
gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ c̣n là vùng
đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của
quận Tân B́nh. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe
đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các
hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con
thui vàng rực, coi bắt mắt lắm. Năm
là Ông Th́n. Cầu Ông Th́n bắc qua sông Cần
Giuộc, nối hai xă Đa Phước và Quy Đức,
huyện B́nh Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian
truyền rằng Ông Th́n là tên người lái đ̣
đưa khách sang sông. Cầu Ông Th́n được
bắc dă chiến năm 1925, nay đă nâng thành
cầu đúc dài 162 m. Có
cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài G̣n này.
Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng
Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê
Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá
rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công tŕnh này
về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày
16-11-1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Lăng
Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng
có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp
ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt
nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch. Ở
Sài G̣n, c̣n có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân
Trường) tại xă Thạnh Mỹ Lợi, Thủ
Đức. Tên
đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm.
Gắn với tên ông c̣n có rạch, cầu Ông Buông
ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba
rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Ḷ
Gốm); rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông
Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, B́nh Chánh, rạch
Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ
vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7,
rạch Ông Mưu ở B́nh Chánh; rạch Ông Nghĩa
ở xă An Thới Đông, Cần Giờ từ
rừng lá đến sông Ḷng Tàu. Có
cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông
Nhiêu, cầu Ông Th́n, cầu Ông Tiều... Rồi
đập Ông Hiền ở xă B́nh Hưng dài đến
ba cây số. Về
vài địa danh mang tên thảo mộc. Ở
Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên
thảo mộc. Trong khuôn khổ bài viết nầy chúng
tôi chỉ đề cập đến G̣ Vấp,
Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng Trôm, Thốt Nốt và
Bạc Liêu mà thôi. G̉
VẤP Trước
năm 1975 G̣ Vấp là một quận của tỉnh
Gia Định gồm có 8 xă. Quận lỵ G̣ Vấp
cách Sài G̣n 10km. Đó là nơi có nhiều thành quách
(An Nhơn, Hạnh Thông Tây), vườn rau cải
(Hạnh Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới), vườn
dừa (An Phú Đông, B́nh Triệu), vườn
sầu riêng, măng cụt (Nhị B́nh), vườn bưởi
(Thạnh Lộc) với hai xă đông dân cư và
phồn thịnh về kinh tế và thương
mại gần Sài G̣n: B́nh Ḥa và Thạnh Mỹ Tây. Sau
năm 1975 G̣ Vấp là một quận trong thành
phố. Diện tích G̣ Vấp bấy giờ thu
hẹp chỉ c̣n 20 km2. Các xă B́nh Ḥa, Thạnh Mỹ
Tây trở thành quận B́nh Thạnh, Nhị B́nh,
Thạnh Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận
Hóc Môn. Địa
danh G̣ Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa
học của cây vấp là Mesua coromandelina, Mesua ferrea,
Mesua nagassanium... thuộc gia đ́nh Clusiaceae hay Guttiferae.
Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Ấn
Độ, Sri Lanka và các quốc gia Đông Nam Á. Người
Ấn Độ gọi là nagkesa; tiếng Phạn
(Sanskrit): nagakesara; Khmer: bos neak. Người Anh gọi là
cobra saffron v́ theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con
rắn và chữ saffron gợi lên màu vàng của cây
vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là iron
wood tree hay Ceylon ironwood (thiết mộc Tích Lan). Người
ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm
thuốc trị bịnh. Hoa được dùng để
trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt,
bất lực sinh lư. Dầu dùng để trị các
chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp.
Dầu cây vấp có nhiều ác xít béo: ác xít stearic.
oleic, linoleic và arachidic. Hoa khô dùng để trị
bịnh trĩ, kiết lỵ. Hoa tươi trị
ngứa, kinh nguyệt, khát nước quá độ
(tiêu khát; tiểu đường), ra mồ hôi.
Rễ dùng để trị rắn cắn. Lơi cây
vấp có nhiều xanthones: euxanthones, mesuaxanthones A,
mesuaferrone B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids: mesuaferrone A và
mesuaferrone B và ác xít mesuanic. Vỏ có ferruol B và
triterpenoid gutiferol. CỦ CHI Trước
năm 1954 Củ Chi là một quận trong tỉnh Gia
Định. Sau năm 1954 quận nầy nằm trong
tỉnh B́nh Dương một thời gian ngắn. Khi
tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập,
Củ Chi nằm trong tỉnh tân lập nầy. Trước
năm 1975 Củ Chi có 14 xă.
TRẢNG
BÀNG
Trái
bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có
punicalagin chống oxy hóa. Những thí nghiệm gần
đây vào chuột cho thấy hoạt chất lấy
từ lá bàng có tác dụng bảo vệ gan. Ngoài
cây bàng vừa nói qua c̣n có cây bàng nước mang tên
khoa học Terminalia belerica (c̣n nhiều tên khác)
thuộc gia đ́nh Combretaceae. Đó là một loại
thảo mộc miền nhiệt đới và khí
hậu đại dương như cây bàng Terminalia
molucca. Người Anh gọi cây bàng nước là
belliric myrobalan (người Miến Điện gọi
cây bàng là Balan); người Ấn Độ gọi là
Bibitaki. Tiếng Sanskrit (Phạn) gọi cây bàng nước
là Vibhitaki, có nghĩa là không sợ bị bịnh. Tên
gọi nầy cho thấy tính năng trị liệu
cao của cây bàng nước. Cây
bàng nước có sistosterols, ác xít gallic, ellagic,
chebulagic, galloyl glucose và đường. Hột có ác xít
oxalic, protein. Vỏ có nhiều tannins. GỈNG
TRÔM Trước
năm 1975 Gịng Trôm là một quận của tỉnh
Kiến Ḥa (Bến Tre) với 15 xă. Sau 1975 nó vẫn là
một quận của Bến Tre với diện tích
lối 310 km2. Quận lỵ Gịng Trôm nằm trên
bắc vĩ tuyến 10 độ 15' và đông kinh
tuyến 106 độ 05'. 1-
Trôm hôi Sterculia foetida. 2-
Trôm nhựa Sterculia hypochra. Cả
hai loại trôm nầy đều thuộc gia đ́nh
Sterculiaceae như cây cola, cây lười ươi hay
gia đ́nh Malvaceae như bông vải, cây g̣n. Thảo
mộc thuộc gia đ́nh Sterculiaceae đều có mùi
hôi khó chịu. Theo tiếng La Tinh Stercus có nghĩa là
"phân". Chử foetida trong tên khoa học của cây
trôm hôi phản ảnh mùi hôi của nó. Người
Anh gọi cây trôm hôi là Java olive ((ô-liu Java), Skunk tree (cây
chồn hôi). Người Lào gọi là som hong. Cây
trôm hôi được t́m thấy nhiều ở
Indonesia, Mă Lai, Phi Luật Tân, Việt Nam, Ấn Độ.
Ở Hoa Kỳ nó được t́m thấy ở
Hawaii, Arizona. Cây trôm cao từ 15-25 m. Lá dày, dài và láng
rất đẹp, cùng một cuống có 5 lá tụ
lại thành h́nh ngôi sao. Hoa đỏ rất đẹp.
Trái có vỏ dày. Bốn năm trái tụ lại
tạo thành h́nh ngôi sao đỏ khi chín. Khi lớp
vỏ cứng bên ngoài vỡ ra, bên trong có nhiều
hột màu đen nhạt. Hột rất chắc và có
nhiều dầu. Người ta dùng dầu trôm để
thắp đèn. Hột trôm rang dùng để ăn.
Gỗ trôm không cứng chắc nên không có giá trị
trong ngành mộc. Nhưng cây trôm cho bóng mát và tạo
cảnh đẹp cho vùng khí hậu nhiệt đới
và bán nhiệt đới. Hột
trái trôm có ác xít sterculic, oleic, myristic, palmitic,
tristerculin, tristearin, ác xít béo và glycerides. Hột trái trôm
nhuận trường. Dầu trôm màu vàng nhạt có
thể dùng như dầu ô-liu trong nấu nướng
hay dùng để thắp đèn. Ở Cambodia người
ta dùng dầu cây trôm làm mỹ phẩm. Bánh dầu dùng
để trị ghẻ ngứa. THỐT
NỐT Trước
năm 1975 Thốt Nốt là một quận của
tỉnh An Giang (tên cũ: Long Xuyên). Quận Thốt
Nốt gồm có 9 xă. Đó là một trong những vùng
nông nghiệp trù phú bên châu thổ sông Cửu Long.
Thốt Nốt là quận tương đối
"thái b́nh" trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Thốt Nốt có nhiều tín đồ Phật Giáo Ḥa
Hảo. Về vị trí địa lư đó là
trục giao thông bằng đường thủy quan
trọng nối liền các tỉnh An Giang – Phong Dinh
(Cần Thơ) – Châu Đốc – Kiến Phong. Sau
năm 1975 Thốt Nốt là một huyện trong
tỉnh Cần Thơ. Huyện nầy cũng có 9 xă
như trước. Thốt
Nốt âm từ chữ Thnot của người Khmer
chỉ một loài thảo mộc giống như cây
dừa. Nhựa của cây nầy được dùng
để làm ra đường "thốt
nốt" khác với đường mía. Tên
khoa học của cây thốt nốt là Borassus
flabellifer thuộc gia đ́nh Palmae (lá cọ) hay Arecaceae
(dừa, cau). Tên
gọi của người Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha về thốt nốt luôn có chữ Palmyra. Palmyra là
tên một thành phố cổ ở Syria gần thủ
đô Damascus. Trong Thánh Kinh Do Thái thành Palmyra được
biết dưới tên Tadmor. Có
phải chăng cây thốt nốt xuất phát từ
Palmyra, Syria? Hay
Phi Châu như tên gọi African fan palm của người
Anh? Cây
thốt nốt được t́m thấy nhiều
ở Ấn Độ, Sri Lanka, Mă Lai, Indonesia, New Guinea,
Miến Điện, Thái Lan, Cambodia. Có thể cây
thốt nốt ở Đông Nam Á gốc Ấn Độ,
nơi cây thốt nốt được gọi là
TALTAR. Ở Miến Điện, Thái Lan âm Tan của
chữ TAL (âm đầu của chữ taltar) được
t́m thấy như tanabin (Miến) và tan-yai (Thái). Ở
Mă Lai và Indonesia nơi ảnh hưởng ngôn ngữ
và văn hóa của Ấn Độ rất đậm
nét âm TAR (âm sau cùng của chữ taltar) được
t́m thấy trong tên gọi LONTAR. Ở
Ấn Độ và Sri Lanka có nhiều đồn điền
thốt nốt. Thốt nốt được xem là
thiên thanh mộc v́ có công dụng đa dạng. Người
Việt Nam biết đến cây thốt nốt khi
tiếp xúc với người Khmer vào thế kỷ
XVII và XVIII. Cây
thốt nốt cao từ 20 - 25 m. Cây hao hao giống cây
dừa. Tàu lá cũng hao hao giống tàu lá dừa. Tàu
lá dài đến 2 - 3 m. Trái thốt nốt nhỏ
chớ không to như trái dừa. Khi c̣n non nó có 3
cạnh v́ mỗi trái có ba hột bên trong. Khi lớn
trái có h́nh bầu dục. Cơm và hột trái
thốt nốt đều ăn ngon. Khác
với cây dừa, cây thốt nốt chịu nắng
hạn rất tốt. Cây có nhiều công dụng trong
đời sống cư dân miền nhiệt đới
và bán nhiệt đới như cây dừa vậy.
Gỗ cứng màu đen đỏ, dùng làm nhà hay hàng
rào. Miến Điện là quốc gia xuất cảng
gỗ thôt nốt nổi tiếng. Lá thốt nốt dùng
để lợp nhà, đan thúng rổ, nón, quạt
hay chầm làm áo mưa. Ngày xưa người
Indonesia và Khmer dùng lá thốt nốt làm giấy để
khắc chữ viết để lưu văn kiện
và tài liệu. Nhựa
cây thốt nốt dùng để làm đường
hay cho lên men để làm ra rượu arrack hay làm
giấm. Trung b́nh một cây thốt nốt có thể
cho 350 trái mỗi năm. Mỗi cây cho 4 - 5 lít nhựa
mỗi ngày suốt 200 ngày trong năm. Tàu lá phơi khô
dùng để làm củi nấu nướng. Tàu lá có
nhiều sợi. Người ta chẻ tàu lá tươi
để làm dây cột hay bện thành dây thừng to
và bền chắc. Đường
thốt nốt bổ hơn đường mía v́ có
nhiều glucose, sucrose, chất béo, chất sắt,
chất vôi, phosphorus và sinh tố B. Cây
thốt nốt non dùng để trị kiết
lỵ, làm rau. Rễ rất nhuận tiểu, lợi
cho bộ hô hấp và khả năng diệt lăi trong
đường ruột. Người ta đốt mo bông
lấy tro để chữa bệnh gan và sưng lá lách.
Vỏ cây thốt nốt sắc nước dùng để
súc miệng. Nhựa lấy từ hoa thốt nốt
rất bổ, nhuận tiểu, kháng khuẩn, tiêu
đàm. Đường thốt nốt dùng để
chữa viêm da. Người
Việt Nam trồng dừa nhưng không trồng
thốt nốt và dùng đường mía chớ không
dùng đường thốt nốt. Người
viết bài nầy dành cho độc giả quyền
suy luận để t́m hiểu cái tại sao của
tiền nhân khi ở địa danh Thốt Nốt không
có cây thốt nốt. BẠC
LIÊU Bạc
Liêu nằm về phía đông nam Nam Bộ cách Sài G̣n
280 cây số về phía nam. Vùng đất nầy h́nh
thành trên bản đồ hành chánh vào năm 1735 do công
lao của Mạc Thiên Tích. Vào thế kỷ XIX, dưới
triều Nguyễn, Bạc Liêu là một huyện
của trấn Hà Tiên (Hà Trấn). Năm 1833 Hà
Trấn được đổi thành tỉnh Hà Tiên.
Dưới thời Pháp thuộc Bạc Liêu là một
trong 21 tỉnh ở Nam Kỳ. Tỉnh Bạc Liêu có các
quận: Giá Rai, Cà Mau, Thới B́nh, Quản Long, Tân
Bang, Năm Căn Đông và Tây, Vĩnh Châu. Năm
1956 quận Giá Rai sát nhập vào tỉnh Ba Xuyên (tên cũ:
Sóc Trăng). Các quận c̣n lại nằm trong
tỉnh An Xuyên. 1-
Tỉnh Bạc Liêu (Bắc) 2-
Tỉnh Cà Mau (Nam) Tỉnh
Bạc Liêu có 6 huyện: Đông Hải, Giá Rai, Ḥa B́nh,
Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi. diện tích
lối 2.500 km2. Đó là một tỉnh trù phú về
lúa gạo, ngư sản. Bạc Liêu là nơi có
nhiều người Việt gốc Hoa và người
Khmer Krom sinh sống. Đó là chiếc nôi của
Vọng Cổ Hoài Lang, là sinh quán của Công Tử
Bạc Liêu Trần Trinh Huy (1900-1973) nổi tiếng hào
sảng nhất nước thời thuộc địa. Dưới
sông cá chốt trên bờ Triều Châu. Bạc
Liêu âm từ tiếng Khmer Po-Loeuth có nghĩa là cây da
to lớn. Tên khoa học của cây da là Ficus indica hay
Ficus benghalensis cho thấy xuất xứ Ấn Độ
và vùng Bengal của cây da. Đó
là một loại thảo mộc miền nhiệt
đới và khí hậu đại dương
được t́m thấy nhiều ở Ấn Độ,
Sri Lanka, Pakistan, các nước Đông Nam Á, hải
đảo Thái B́nh Dương v.v... Cây da cao lối
25m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rất tốt.
Gốc cây rất to. Ngoài rễ dưới đất
nó c̣n có nhiều rễ treo trên cành và đâm
thẳng xuống đất để trở thành
một thân cây nhỏ khác. Những cây da cổ
thụ ở Sri Lanka hay Ấn Độ có nhiều cây
nhỏ bao quanh như một đám rừng vậy. Cây
da cổ thụ ở Sri Lanka có 350 thân cây lớn
với 3.000 cây thân nhỏ! Trong Vườn Bách
Thảo Quốc Gia Kolkata ở Ấn Độ có cây
da 300 tuổi và cho bóng mát trên một châu vi 1.000m. Cây
da là quốc mộc của Ấn Độ. Lá cây da
to, láng và dày. Trái tṛn khi chín chuyển sang màu đỏ
giống như trái sung. Cây da rất cần nước
nên nó không thể mọc ở những vùng đất
khô hạn. Người
Ấn Độ gọi cây da là bargad, banya. Nhiều nơi
khác ở Ấn Độ gọi cây da là Vada.
Tiếng Sanskrit gọi là bahupada. Có phải chăng
chữ ĐA mà người Việt Nam gọi là âm
cuối cùng của chữ VADA hay BAHUPADA? Người
Anh gọi cây da là Banyan tree, Indian banya tree xuất phát
từ chữ banya của Ấn Độ mà ra.
Chữ banya không có nghĩa là cây cối ǵ cả mà
có nghĩa là cửa tiệm hay thương nhân. V́ ngày
xưa người Ấn Độ mở cửa
tiệm dưới bóng mát của cây da để buôn
bán. Ở nước ta có quán bà Bầu dưới
gốc cây da nên trước năm 1954 ở Sài G̣n -
Chợ Lớn có đường Da Bà Bầu (quán
của bà Bầu dưới tàng cây da. Người
Nam Bộ gọi là CÂY DA chớ không phải CÂY ĐA). Y
thư Ayurveda của Ấn Độ trân quí cây da. Lá,
rễ, trái, rễ treo, nhựa cây da đều
được dùng làm thuốc cầm máu trị
xuất huyết, trĩ, binh về mật, đau âm
hộ, ho, sốt, lở loét, ói mửa, viêm, phong
hủi. Nhựa được xem là bổ dưỡng,
kích dục, giảm viêm, trị lâm lậu. Rễ
được dùng để trị giang mai, bịnh
về mật, kiết lỵ, tiêu chảy, viêm gan. Lá
cây da lông tức lá t́ bà dùng để trị ho và
thủy thũng. Ở
Việt Nam dước gốc cây da thường có
một cái miếu nhỏ thờ Thần. Từ đó
có câu: Ma
cây gạo, Cú
cáo cây đề Cây
da cậy Thần Thần
cậy cây da. Trong
văn chương Việt Nam người ta thường
mượn h́nh ảnh cây da đầu làng, cây da
bến nước, cây da đầu đ́nh để
gợi t́nh hoài hương. Ca dao Việt Nam nói
nhiều về cây da như:
Bao
nhiêu lá rụng, em thương chàng bấy nhiêu. Trăm
năm dẫu lỗi hẹn ḥ Cây
da bến cũ con đ̣ khác đưa. Cây
da bến cộ c̣n lưa, Con
đ̣ đă thác năm xưa tẻ rồi. Trong
chuyện cổ tích có chuyện Cây Da với Thằng
Cuội tạo nguồn cảm hứng cho Lê Thương
phổ nhạc. Vào thế kỷ XVIII Phạm Đ́nh
Hổ tức Chiêu Hổ (chiêu: cậu ấm, cậu
chiêu, con của các tiến sĩ ngày xưa) cũng
dựa vào cảm hứng nầy khi viết: Khi
nào trong thả lên cung nguyệt, Cho
cả cành đa với củ đa.
Dùng
tên thảo mộc để đặt địa danh
cho thấy tiền nhân chúng ta ư thức được
tầm quan trọng của cây cỏ trong đời
sống. Sự gia tăng dân số, nhu cầu xây
dựng nhà cửa, các công tŕnh lợi ích công
cộng, việc phá rừng khai thác gỗ, làm
củi, hầm than hay nới rộng diện tích canh tác,
chiến tranh, bột hóa học khai hoang hủy
hoại một số thảo mộc đáng kể
trong nước. Các địa danh ghi trên không c̣n mang
ư nghĩa ban đầu của chúng. Chiến tranh ma túy
trên thế giới đua cây coca Erythroxylum coca, cây
thẩu Papaver somniferum và cần sa Cannabis sativa vào nguy cơ
tuyệt chủng. Nếu Jean Jacques Rousseau c̣n sống,
ông vẫn giữ câu nói của ông: "Tout
est bien sortant de la main de l'auteur des choses. Tout dégénère entre
les mains de l'homme." Thảo
mộc là sản phẩm Thiên tạo. Á phiện,
cần sa, cocain là sản phẩm Nhân tạo. Phạm
Đ́nh Lân. F.A.B.I. Phần
1 Tên
do địa h́nh, địa thế Bắt
đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba
Tri, tỉnh Bến Tre: "Gió
đưa gió đẩy, về
rẫy ăn c̣ng, về
bưng ăn cá, về
giồng ăn dưa..."
Một
con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xă.
Ở Bến Tre, Giồng Trôm đă trở thành tên
của một quận (huyện). Lại
nhắc đến một câu hát khác: "Ai
dźa Giồng Dứa qua truông Gió
rung bông sậy, bỏ buồn cho em..." Giồng
Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua
khỏi ngă ba Trung Luơng đến cầu Long Định,
ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa.
Sở dĩ có tên như thế v́ vùng này ở hai bên
bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không
phải là loại cây có trái mà người miền
Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá
gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn,
màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước
màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc
biệt là bánh da lợn). Truông "Thương
em anh cũng muốn vô Sợ
truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang" Tại
sao lại có câu ca dao này? Ngày
xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị, c̣n gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi
đó địa h́nh trắc trở, thường có
đạo tặc ẩn núp để cướp bóc
nên ít người dám qua lại. Phá Bàu Đầm Bưng "...về
bưng ăn cá, về giồng ăn dưa". Ở
Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và
Bưng Cốc. Láng Trảng Đồng Hố |