Hương vị ngày xuân Khánh Lan |
||
"Cứ mỗi lần hoa mai vàng trước
ngõ Là thôi em mong nhớ xuân này
chàng trở về..." Phải,cứ mỗi độ hoa
mai vàng nở rộ ngoài đầu
ngõ như nhắc nhở chúng ta chúa xuân
đang hiện diện quanh đây và trong
lòng tôi đang rộn lên một niềm vui:
Mùa xuân đang đến trên quê hương tôi.
Tôi không nhớ năm ấy mình bao nhiêu tuổi
và bản nhạc Đan Áo Mùa Đông của
nhạc si Phạm Thế Mỹra
đời từ bao giờ, nhưng
chắc hẳn là tôi phải đang ở
cái độ tuổi "Hoa Hồng hay Hoa
Tím" nên nhiều mơ mộng. Tôi biết
có nhiều nhạc
sĩ viết về mùa xuân và nhiều ca
sĩ hát bài này nhưng tôi lại
thích nghe cô Hoàng Oanh ca hơn vì với
tôi giọng hát của cô rất hợp với
thể điệu Bolero đặcbiệt làtrong
nhạc phẩm Đan Áo Mùa Đông.
Chắc cácbạn cũng phải phải công nhận
với tôi rằng nhạc phẩm Đan
Áo Mùa Đông lại rất thích hợp
với thể điệu ấy, hợp
bởi cái chất giọng nũng nịu như
vừa trách móc vừa an phận
của một cô nữ sinh trót là người
yêu của lính... "Người yêu lính nếu em biết cho
rằng Đời quân nhân sống đây đó không
ngừng" Mỗi
độ xuân về, gia đình tôi có
tục lệ gói bánh chưng và làm
giò thủ mỗi năm. Vì vậy
cả tháng trước Tết mẹ tôi đã
chuẩn bị đầy đủ những thứ
cần thiết như hành tỏi, nếp, đậu
xanh, v.v...Và nhiệm vụ của tôi là
ghé thăm mấy đứa bạn trong
làng, đặt cọc xin lá chuối và ống
tre để làm lạt buộc bánh. Gia
đình tôi là người Bắc nên
mẹ tôi thích làm cà ghém, muối
hành thay vì củ kiệu, làm giò
thủ thay vì chả chiên, gói bánh chưng
thay vì bánh téc, muối dưa chua hơn
là làm dưa món. Thế nên tôi rất
ghét phải ngồi phụ mẹ và các
dì tôi lột vỏ hành hương, nhất
là cái mùi hăng hăng của hành khiến
tôi phải "chảy nước mắt bất
đắc dĩ". Chính vì thế
mà tôi hay "nhường" việc này
lại cho Vy Hương, cô em song sanh của tôi
hoặc tôi viện cớ trốn luôn cho xong việc. Năm
nào cũng vậy, mẹ tôi bắt đầu
chuẩn bị gói bánh chưng và làm
giò trước Tết khoảng một tuần
để kịp đi biếu họ hàng. Những
ngày ấy anh em chúng tôi dù có ở
nơi phương trời nào đi nữa
cũng trở về nhà mẹ tôi để
cùng quây quần bên nhau: Nấu bánh chưng.
Nói là nấu bánh chưng cho oai chứ thực
sự là: Canh bánh chưng. Một
ngày trước khi gói bánh chưng, từ
tờ mờ sáng, mẹ tôi đã đi
chợ với chị Thư để mua
thịt ướp cho thấm gia vị làm nhân
bánh chưng, làm giò thủ và lỗ
tai heo ngâm giấm. Còn những aiởnhàthì
mỗingười một việc. Sau bữa
ăn sáng, tôi và Vy Hương có nhiệm
vụ rửa và lau khô lá chuối trong
lúc dì Vân và dì Hồng đãi
gạo nếp, hấp đậu xanh rồi say cho
nhuyễn. Chú Tấn và chú Thọ, chồng
của hai dì thì ngồi vót nan tre để
làm dây lạt buộc bánh chưng.
Chỉ có hai ông anh quý tử của mẹ
tôi là chẳng phải làm gì cả.
Anh Tuấn thì lo "đấu khẩu"
và nấu nước pha café đãi mấy
người bạn ngoài sân, còn anh Phương
thì bận coi chừng hai đứa con
nhỏ để chị dâu tôi phụ bếp...Tóm
lại, làm con trai ở gia đình tôi
được cưng hơn con gái những
khi bố tôi vắng nhà. Khoảng
10 giờ thì mẹ tôi và chị Thư
đi chợ về, vừa bước
vào nhà, mẹ tôinhư có một thói
quen trước khi ngồi xuống bắt đầu
gói bánh chưng, mẹ tôi "dụ" anh em
chúng tôi. -
Đứa nào thức khuya canh bánh chưng
tối nay Mẹ sẽ đãi ăn xôi chè. Xôi
là xôi vò và chè là chè táo
xọn nước cốt dừa. Mẹ tôi
nấu món này ngon lắm và mấy anh em tôi
đều thích, không những thế, chị
dâu tôi là người Huế nên chị
làm bánh bèo, bánh bột lọc,
bánh khoái, mì quảng ngon bá cháy.
Chính vì vậy mà chẳng cần mẹ tôi
phải "dụ" cho lâu, anh em tôi đều
tình nguyện thức trắng đêm canh
bánh chưng.
Mẹ tôi cẩn thận lắm, bà không cho
anh em tôi gói bánh chưng vì mẹ tôi cho
là nếu gói không chật tay bánh sẽ
bị hấy. Chỉ có chị Thư là
được mẹ tôi cho phép gói
bánh chưng vì chị khéo tay và kiên nhẫn
học nghề gói bánh chưng của mẹ tôi.
Còn tôi thì vô cùng hư đốn, tôi
thích đứng xào thịt cho mẹ tôi
gói giò thủ vì thỉnh thoảng còn
ăn vụng được. Chính vì
thế mà mẹ tôi mắng tôi là "Hư
đốn", nhưng điều ấy chẳng
làm tôi buồn hay quan tâm cho lắm và cũng
không đủ mạnh để tôi bỏ cái tật
"hư đốn" ấy. Mẹ
tôi thường nói, đây là dịp cho anh em
chúng tôi quâyquần bên nhau và giữ
gìn tục lệ ngày Tết và văn
hóa nước Việt. Trong lúc mẹ tôi
và chị Thư gói bánh, tôi và Vy Hương
làm thợ vịn để mẹ tôi sai vặt,
nhưng đó khôngphải là lư do chính,
vì những lúc này là lúc bố
tôi kể cho chúng tôi nghe những câu
chuyện chiến trường. Bố tôi sau những
năm xông pha ngoàimặt trận, ông được
biệt phái vềlàm việc tại Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung. Chính
vì vậy
mà ông thấu hiểu về đời sống
của một người
lính và những trận đụng độ
ác liệt ngoài chiến trường.
Chợ
hoa ngày Tết: Hai
tuần trước Tết, tôi và Vy Hương
thường theo bố tôi đi chợ hoa chợ
hoa Sài G̣n, chợ hoa ngày Tết chạy dài trên
đường Nguyễn Huệ từ khúc đường
Lê Lợi thẳng về gần bờ sông Sài G̣n.
Chợ hoa th́ gồm đủ loại hoa từ các nơi
mang về. Xắp Tết nên chợ hoa có nhiều
hoa đẹp, nào là những chậu hoa
cúc vàng rộ đang khoe sắc trong nắng
mai. Những cánh hoa lan muôn màu bay bay trong gió kiêu
kỳ nhưng thanh nhă. Dừng lại ở một
cửa hàng bán hoa mai, hoa
đào. Bố tôi cẩn thận chọn mua
những cành mai vàng và những nhánh
đào tươi thắm. Tôi thấy bố tôi
chỉ chọn nhành mai có nhiều búp v́ bố tôi
nói như vậy mới chưng được
cả tuần lễ Tết để đón lộc
may và thưởng ngoạn mai. Bố tôi giải thích
thêm, nếu muốn nụ mai sớm nở, chúng ta
chỉ cần hơ lửa gốc mai, thế là hôm
sau hoa mai nở rộ bởi khi hơ lửa nóng,
nhựa trong thân cây sẽ tăng độ chuyển
về ngọn để các búp mai buộc nở hoa.
Những lộc lá non trên cành hoa mai màu xanh lục, màu
lam như quyện lấy những búp mai chớm
nở tỏa ra vẻ đẹp e ấp nhưng thanh
tao như cô thiếu nữ vừa chớm tuổi xuân
th́. Cô
bán hoa duyên dáng, mời khách, vui vẻ giải thích
từng loại mai có nhiều màu khác nhau như Hoàng
mai, hồng mai, và bạch mai. Mai có các loại như
mai tứ quư (Ochnaceae serrulata, quế diệp hoàng mai
(Ochnaceae kirkii Oliv. Heima), mai chiếu thủy (Wrightia
religiosa). Hoa đào cũng lắm loại khác nhau,
hầu hết hoa đào đều có hoa kép. Đào có
4 giống: Đào bích có màu hồng thẫm, sai hoa là
một loại đào dùng để cắm chơi
trong các ngày Tết. Đào phai hoa màu hồng nhạt cũng
sai hoa và thường được trồng để
lấy quả. Đào bạch ít hoa hơn, khó trồng.
Đào thất thốn cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và
nhiều màu, màu đỏ thẫm. Hồng mai là hoa
đào hay mơ, nở hoa dịp đầu xuân.
Cuối cùng bố tôi chọn một cành đào bích
có màu hồng thẫm để cắm chơi trong các
ngày Tết. Ư
nghĩa hoa mai hoa đào ngày Tết: Hoa đào và hoa
mai đã trở thành loài hoa quen thuộc
trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam nên
hầu như giađ́nhnào cũng chưng
hai loại hoa này trong ngày Tết
bên cạnh những bông cúc
đại thọ vàng rực
rỡ. Mai và đào chính ra cùng ḍng
họ, nhưng về sau các nhà thực vật học
nghiệm thấy đào (peach) hay mơ (apricot), mận
(plum hay prune) và anh đào (cherry) là loại ra quả, nên
tách riêng ḍng họ mai ra. Trên đường
về nhà bố tôi kể cho
chúng tôi nghe về ư nghĩa
và sự tích của
hai loại hoa này.
Hoa đào: Ngày
xưa, ở phía đông núi Sóc Sơn có một cây
hoa đào cổ thụ, cành lá xum xuê. Trên cây hoa
đào khổng lồ ấy có hai vị thần tên là
Trà và Uất Lũy trú ngụ, uy quyền che chở
cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào
đến phá sẽ không tránh khỏi sự trừng
phạt của hai vị thần linh. Đến ngày
cuối năm hai thần Trà và Uất Lũy phải
lên thiên đ́nh chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày
Tết, hai thần vắng mặt ở trần gian nên
để tránh ma quỷ hoành hành dân chúng đă đi
hái những cành hoa đào về cắm trong lọ, ai
không hái được th́ lấy giấy hồng
điều vẽ h́nh hai vị thần linh dán ở
trước nhà. Việc làm này từ đó trở thành
thông lệ, hàng năm cứ mỗi dịp Tết
đến, mọi người đều cố
gắng cắm một cành hoa đào trong nhà ḿnh.
Ngày nay, người Việt vẫn giữ tập
tục trang hoàng cho nhà ḿnh bằng cành đào tươi
thắm, sắc giấy đỏ hồng điều
với câu đối hoà hợp cầu mong năm
mới được vui vẻ b́nh an. Hoa
mai: Ngày xưa
có một cô gái tên Mai có tính t́nh nhân hậu,
khảng khái và rất tinh thông vơ thuật. Ngay từ
khi c̣n nhỏ, cô đă theo phụ giúp cha ḿnh diệt
trừ yêu quái, cứu xóm làng, danh tiếng truyền
đi khắp nơi. Khi cô gái bước sang tuổi
mười tám, sức khỏe càng tăng lên gấp
bội, vơ thuật càng ngày càng tinh thông th́ yêu tinh
xuất hiện. Trước sự khẩn khoản
của dân làng, hai cha con ra tay nghĩa hiệp. Trước
khi lên đường, cô gái được mẹ may
cho một bộ quần áo màu vàng rất đẹp
hứa hẹn ngày trở về cô sẽ mặc
bộ đồ vàng ấy cho mẹ nh́n thấy cô
từ xa. Hai
cha con trèo non lội suối t́m yêu tinh để tiêu
diệt, người cha khi này sức đă yếu nên
Mai đă thay cha, đảm đương trách
nhiệm chống chọi với yêu tinh. Cuối cùng cô
gái cũng giết được yêu tinh nhưng trước
khi chết con yêu tinh đă vùng dậy dùng đuôi
quấn và siết chết cô gái. Cảm thương
trước tấm ḷng hiệp nghĩa của cô gái,
Táo quân đă khẩn khoản xin Ngọc Hoàng cho cô
được sống lại và trở về với
gia đ́nh trong chín ngày. Thế là từ đó, cô gái
được trở về nhà trong h́nh hài nguyên
vẹn với gia đ́nh trong chín ngày (từ 28 Tháng
Chạp cho đến mồng 6 Tết). Về
sau khi cha mẹ qua đời, cô gái không về nhà
nữa mà hóa thành một cây hoa mọc bên ngôi
miếu mà người dân đă lập nên để
cúng bái cô. Thấy cây hoa lạ mọc lên bên
miếu và trổ hoa vàng suốt chín ngày Tết, dân
làng lấy tên cô gái đặt cho cây hoa và chiết
nhánh mang về trồng để trừ tà đuổi
quỷ, mang lại may mắn cho gia đ́nh mỗi
độ xuân về Tết đến. Từ
câu chuyện đẹp về hoa đào hoa mai nên vào
đêm Giao thừa, không nhà nào thiếu một cành
đào, nhánh mai. Có người cho rằng xem hoa đào
hoa mai nở hoa để đoán mệnh tài lộc trong
năm mới. Đêm Giao Thừa cho tới mùng
một Tết, nếu hoa đào trổ bông, hoa có ba
lớp trên đài, màu đỏ thắm th́ việc làm
ăn của gia đ́nh trong năm mới sẽ
được thuận lợi hoặc bất ngờ
nhận được nhiều tài lộc. Về hoa
mai, sau Giao thừa đến sáng mùng một Tết,
nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và
đầy đặn th́ đó là một điềm
may, v́ người xưa có câu "Hoa khai phú quư".
Đặc biệt, nếu xuất hiện bông hoa 6 cánh
th́ chắc chắn sang năm mới sẽ có
nhiều điều tốt lành đến với gia
đ́nh. Phong
Tục ngày Tết: Tết
Nguyên Đán c̣n gọi là Tết Cả, Tết Ta,
Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ
gọi đơn giản là Tết. Đây là dịp
lễ đầu năm âm lịch, quan trọng ở
Việt Nam và với văn hóa của các nước
Đông Á. Trước ngày Tết, người
Việt có các phong tục như "cúng Táo Quân"
ngày 23 tháng chạp âm lịch và "cúng Tất Niên"
ngày 29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch.
Thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ
Kỳ Tết
Nguyên Đán tính theo Âm lịch nên muộn hơn
Tết Dương lịch hay Tết Tây. Do quy luật
ba năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày
đầu năm của Tết Nguyên đán không bao
giờ trước ngày 21 tháng 01 Dương lịch và
sau ngày 19 tháng 02 Dương lịch mà rơi vào
giữa những ngày này. Tết Nguyên Đán thường
kéo dài từ 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và
7 ngày đầu năm mới, 23 tháng Chạp đến
hết ngày 7 tháng Giêng. Hàng năm, Tết được
tổ chức vào ngày mồng một tháng Giêng âm
lịch, trong những ngày Tết, các gia đ́nh sum
họp bên nhau, thăm hỏi người thân, dành
những lời chúc mừng tốt đẹp,
mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên. 23
Tết là ngày đón và cúng ông
Táo hay thần Thổ Công, mẹ tôi đi chợ
mua gà, hoa quả, hương đèn và hoa.
Tôi c̣n nhỏ nên chưahiểu về nguồn
gốccủa phong tụcnày, theo mẹ tôi kể th́Táo Quân là từ ba vị
thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ
của Lăo giáo Trung Quốc nhưng được người
Việt chuyển hóa sự tích hai ông một bà là
thần Đất, thần Nhà và thần Bếp núc.
Người Việt ngưỡng mộ ḷng chung
thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hy
vọng ba vị Táo Quân sẽ giúp họ giữ
"bếp lửa" trong gia đ́nh luôn nồng
ấm và hạnh phúc. Táo quân hay Thổ Công là vị
thần cai quản mọi hoạt động,
quyết định sự may, rủi, phúc họa, ngăn
cản sự xâm phạm của ma quỷ, giữ b́nh
yên cho gia đ́nh gia chủ. V́ vậy tục cúng ông
Táo mang ư nghĩa cầu mong cho sự ấm no, đầy
đủ, sau đó làm lễ tiễn đưa Ông Táo
về chầu Ngọc Hoàng. Ông
Táo về trời sẽ tâu với Ngọc Hoàng
về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia
đ́nh dưới hạ giới. Cá chép là phương
tiện để ông Táo cưỡi về trời. Vào
ngày này, sau khi cúng lễ xong, các gia đ́nh đều
cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao thả
ngụ ư "cá vượt Vũ môn" hay
"cá chép hóa rồng", cá chép mang ư nghĩa
biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt
khó, sự kiên tŕ và bền bỉ để đi
tới thành công. Tối
30 tết, bố tôi cùng ông nội tôi lên
chùa lễ phật, xin xâm, hái lộc, rồi
trở về xông nhà sau 12 giờ theo
tục lệ xông nhà. Vừa bước
vào nhà, bố tôi cùng ông nội đi
thẳng vào bàn thờ ông bà, khấn
nguyện và mời ông bà về ăn Tết. Đêm
30 TẾT, Cúng Giao Thừa: Bố tôi là con trưởng và anh Phương
là cháu đích tôn của dòng họ
Nguyễn Tường nên ngày Tết vô
cùng quan trọng đối với gia đình
tôi, nhất là ông bà nội tôi lại sống
chung với gia đình tôi, nên năm nào
mẹ tôicũng bận rộn cả tháng để
chuẩn bị cho ngày Tết, dọndẹp
nhà cửa, bàn thờ,sửa
soạn mâm cúng, v.v...Mẹ tôi chuẩn bị
đón xuân rất kỹ, một tuần trước
Tết mẹ tôi đă lau chùi bộ lư hương
đồng bóng loáng, những chậu hoa cúc
và hoa lanđã đượcmẹ
tôi bầy trước cửa ngoài pḥng
khách. Cả ngày 30 Tết chúng tôi phụ
mẹ tôi làm cơm cúng giao thừa, xếp
mâm quả và thức ăn lên bàn thờ
mời tổ tiên về ăn Tết. Trên bàn
thờ gia tiên có mâm ngũ quả, có bánh chưng, bánh
tét, mứt, trà sen, cặp dưa và b́nh hoa lay-ơn màu
đỏ thẫm đặt giữa hai hàng
đènvà bát hương nghi ngút khói. Những
lúc ấy, mẹ tôi thường kể cho
chúng tôi nghe về những phong tục tập
quán của ngày Tết, theo phong tục tập
quán, Tết thường có những điều kiêng
kỵ như kiêng quét nhà ngày mồng một
Tết vì nếu quét nhà ngày mồng
một, thì tiền sẽ ra hết. Nếu
ngày mồng một mà phải làm việc
cực nhọc, thì cả năm không
được nhàn hạ. Nếu vợ
chồng cãi nhau thì cả nằm không có
hạnh phúc. Tóm lại, mình phải
làm điều hay thì cả năm sẽ
được nhiều điều tốt đẹp. Trong
lúc chờ bố tôi và ông nội vềxông
nhà, mọi ngườingồi
nghỉmệt vàcoi trực tiếp truyền
hình chương trình lễ Phật tại
Chùa. Mẹ tôi nói việc xông nhà rấtquan
trọng, bà tin rằng người nào bước
vào nhà mình sau 12 giờ đêm, tức
là sau giao thừa thì họ sẽ đem
cái tốt hay xấu đến cho gia đình
trong suốt cả năm. Năm nào mẹ tôi
cũng chọn bố tôi và ôngnội tôi xông
nhà vì mẹ tôi bảo tính ông nội hiền
lành, thương con cháu, tính bố tôi vui
vẻ, có việc làm chắc chắn, có
hiếu, tử tế, thương gia đình,
v.v...Vả lại, mẹ tôi nói để tỏ ḷng
kính trọng ôngnội và nhường cho
bố xông nhà, bố sẽ cảm thấy vui sướng.
Mẹ tôi giải thích thêm,chúng ta có thể
chọn bất cứ ai xông nhà cho mình,
miễnlà nhữngngườiđócó
tính t́nh vui vẻ, nhân hậu,tử tế, có
nghề nghiệp là được. Khi
xắp đến giao thừa mẹ tôi dục chúng
tôi vào thay quần áo mới và không quên
nhắc nhở mọi người mặc mầu
đỏ hoặc mầu tươi sáng để
sửa soạn đón giao thừa và mời
tổ tiên về ăn cỗ.
Từ buổi chiều hôm ấy, bố tôi
đưa ông nội đi Chùa cầu nguyện,
hái lộc và về xông nhà. Mẹ tôi
và bà nội tôi ít khi đi theo vì trời
khá lạnh về đêm và bà nội
bị dị ứng với mùi khói
của pháo giao thừa. Qua giao thừa
khoảng 15 phút, tiếng chuông cửa reo lên,
chúng tôi chạy ùara cửađónbố
tôi và ông nội tôi. Năm nào cũngthế, tôi thấytrên
tay mỗi người nào là nhánh lộc
đầu năm, nào là trái cây trên
chùa phát lộc. Bước vào
nhà, cả ông nội lẫn bố tôi cười
vui, chúc tụng, chúc gia đình êm ấm,
hạnh phúc, mạnh khỏe, an vui. Những
đứa cháu tôi reo lên mừng tuổiông
cố nội,ông nội. Bố tôi đến bên
cạnh mẹ tôi, ôm và hôn nhẹ lên tóc vợ,
nói rất nhỏ, "Chúc hai ta mãi
mãi hạnh phúc" rổi ông ôm các con
cháu vào ḷng "Chúc giađìnhhạnh
phúc,các con thành côngvà cáccháu
ngoan ngoăn". Ông
bà nội, bố mẹ tôi bước
hẳn vào phòng khách, tiến đến
trước bàn thờ Phật, đốt
nhang đưa cho mỗi ngườimột
cây, xong bốn người cùng khấn nguyện
rồi lậy Phật, kế đến là vợ
chồnganh Phương và 2 đứa nhỏ,cuối
cùng là anh emchúngtôi.
Cúng tổ tiên xong, mọi người ngồi
xuống mâm cỗ giao thừa đã xếp
sẵn cùng ăn mừng đón năm mới
và tṛ chuyện vui vẻ. Bữa tiệc đón
giao thừa kéodài 3 giờ sáng. Mồng
Một, TẾT NGUYÊN ĐÁN. Sáng
mồng một Tết, bố mẹ tôi gọi anh
em chúng tôi dậy sớm và chuẩn
bị chúc thọông bà nội, hôm ấy
cũng chẳng khác hơn mọi ngày cho
lắm, từ sáng sớm, ông bà nội
và bố mẹ tôi đã dậy sớm.
Cái khác là mọi người đều
mặc quần áo mới, ông nội và bố
thì mặc bộ đồ tây với áo
jacket, thắt cà-vạt mầu đỏ. Bà nội
và mẹ tôi mặc áo dài nhung màu đỏ
đậm và đeo chuỗi hạt trai mầu
trắng ngà ở cổ. Mẹ tôi trang
điểm giản dị nhưng trông bà trẻ,
đẹp và sang. Sáng nào Ông
bà nội và bố mẹ tôi cũng muốn
uống trà nóng vớibánh đậu
xanh, hôm nay có thên bánh, mứt, hạt dưa,
v.v...Bình trà sen bốc lênmùi thơm dìu
dịu, pha lẫn cái vị ngọt của
bánh mứt, khiến không khí của ngày Tết
tràn ngập cả căn nhà. Khi
mọi người đă sẵn sàngvà aicũngmặc
quần áo mới, mầu sắc tươi
sáng thật đẹp. Tết năm nay anh
em chúng tôi bàn nhau mặc theo y phục cổ
truyền Việt Nam để làm ngạc nhiên
cả nhàkhiến bố mẹ tôi vừa
nhìn thấy các con, cháu trong y phục
áo dài khăn đống thì vui lắm.
Ông nội và bố tôi đang cầm tách
trà trên tay vội đặt xuống bàn,
đầu gật gù, cười lớn
ra vẻ vừa lòng. Bà nội và
tôi mẹ tôi đang nói chuyện cũng ngưng
lại,reo lên trong vui sướng. -
Chao ôi, các con tôi xinh đẹp quá. Anh
em chúng tôi lần lượt tiến lên
chúc thọ ông bà nội và bố mẹ
sống lâu trăm tuổi, khỏe mạnh và
được ông bà lì xì để lấy
may. Chúc tuổi ông bà cha mẹ xong, gia
đình chúng tôi chuẩn bị đi qua nhà chú
Luân tôi để mừng tuổi ông bà nội
ngoại, tiện thể mời ông bà nội
ngoại và gia đình chú qua ăn Tết
ở nhà tôi. Bữa
tiệc của ngày mồng một Tết rất
vui và đông người ở nhà tôi
vì tất cả các cô chú hai bên nội
ngoại đều tụ họp và về Tết
ông bà nội và bố mẹ vì ông nội
tôi là trưởng họ.Ngườithì
mang bánh chưng, giò chả, hoa trái,
bánh ngọt, v. v... Mấy đứa nhỏ
dànhnhau mời khách, thay phiên chúc Tết
để lấy tiền lì xì. Năm
nào cũng vậy, khi mọi người
đã đến đông đủ, bố tôi thường
chụp một tấm hình lưu niệm,
chụp hình xong, mọi ngườivào bếp
phụ anh em chúng tôi bóc bánh chưng và
xếp mâm cỗ Tết. Mồng
Hai TẾT: Là
ngày lên Chùa Lễ Phật, Xin Sâm. thăm mộ
Ông Bà và họp nhau ở nhà họ
ngoại tục nhà của chú Luân. Anh em chúng tôi
thích ngày mồng hai Tết nhất vì tiền
lì xì đã có sẫn và chú Luân tổ
chức chơi "Bầu cua cá cọp" rất
vui. Sau khi ăn tiệc xong, ông bà nội
ngoại và các chú, cậu ra phòng khách
dùng trà và nói chuyện, c̣n các cô
thì ngồi nói chuyện về quần
áo, nữ trang, son phấn, v.v.... Chú Luân năm
nào cũng hô hào, rủ rê mọi người
và xung phong làm chủ xòng... -
Mấy nhỏ, tiền lì xì đâu, mang ra
đây...Vừa nói, Khải vừa trải
tấm giấy chơi bầu cua cá cọp ra,
trải xuống đất. -
Quỳnh Lan, lấy cho chú một cái tô
và một cái đĩa coi. -
Huy đã có sẵn mọi thứ rồi
đây chú. Thế
là mọi người lớn, nhỏ đều
ngồi quây quanh bàn bầu Cua Cá Cọp, kể
cả các chú, tiếng la hò, cười lớn
reo lên từng đợt... Mấy đứa
nhỏ sợ thua hết tiền nên đòi ngồi
chung với người lớn, không
khí ngày Tết thật vui và căn
nhà tràn ngập tiếng cười... Mồng
Ba TẾT: Là
ngày cúng Tiễn Ông Táo, Ông
Bà về Trời và đi thăm
bạn bè. Từ xưa đến nay, bữa
cơn gia đình vô cùng quan trọng đối
với bố mẹ tôi, nên từ khi các
con c̣n nhỏ, bố mẹ tôi bó buộc các
con dù có bận rộn thể nào đi nữa,
bữa cơm gia đình nhất là bữa
cơn chiều cũng phải về nhà để
ngồi chung với nhau. Vì bố mẹ tôi
cho rằng đây là sợi dây buộc chật
sự liên hệ giữa cha mẹ, vợ
chồng và con cái và cũng là nền
tảng của hạnh phúc. Sau
khi cúng tiễn Ông Táo, Ông Bà về Trời
và bữa điểm tâm cũng gia đình
anh em chúng tôi mới được phép
đi chơi với bạn bè. Hồng, Phượng,
Đào là ba người bạn thân với
hai chị em tôi từ thời học tiểu
học. Ngày mồng ba Tết, 5 đứa chúng tôi
rủ nhau tụ họp tại nhà Phượng.
Sau hai ngày Tết với bánh chưng, gị
thủ và kẹo mứt, chúng tôi thèm một bữa
cơm thịt kho trứng ăn với dưa
giá, canh chua cá lóc. Phượng là
người miền Nam nên nấu mấy món
này rất ngon, ba Phượng mất sớm
và mẹ Phượng bán hàng vải
ngoài cho nên chúng tôi tha hồ quậy ở
nhà Phượng mà không sợ làm
phiền người lớn. Thấm thoát
đã 45 năm trôi qua từ ngày xa quê hương,
ngày ấy tôi ra đi trong vội vã bỏ
lại sau lưng nhiều kỷ niệm. 5 chúng
tôi mỗi đứa một phương trời, dư
hương của ngày xưa êm ấm chỉ
còn là trong ký ức của những
ngày hạnh phúc bên gia đình, bạn bè.
Xuân tha hương ở đây cô quạnh quá,
lòng tôi cứ mãi cô đơn mỗi
độ xuân về, thời gian hỡi, hãy
trả lại cho tôi những ngày xưa thân
ái... Câu
Đối Hán tự Tân niên, an b́nh phú lộc đáo Hỉ xuân, thắng lợi phát tài lai. (Năm
mới, b́nh yên giàu may đến Vui xuân, hạnh phúc phát tài về) Chữ
nghĩa Hán/Việt Hồng đào thịnh vượng vạn
nhật hỉ Hoàng mai như ư bách niên an (Đào hồng thịnh vượng ngàn ngày vui Mai vàng như ư trăm năm yên.)* Khánh Lan California, Thanksgiving 2020
TÀI
LIỆU THAM KHẢO VỀ TẾT NGUYÊN ĐÁN: Tết
Nguyên Đán (c̣n gọi là Tết Cả, Tết Ta,
Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ
gọi đơn giản là Tết) là dịp lễ
đầu năm âm lịch quan trọng và có ư nghĩa
bậc nhất ở Việt Nam, cùng với văn hóa
Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước
ngày Tết, người Việt có các phong tục như
"cúng Táo Quân" (23 tháng chạp âm lịch) và
"cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm
lịch) V́
Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán
của Việt Nam muộn hơn Tết Dương
lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận
một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm
của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước
ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương
lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn
bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường
kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm
cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng
Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).[2] Hàng
năm, Tết được tổ chức vào ngày
mồng 1 (hay mùng 1[3]) tháng Giêng âm lịch trên
đất nước Việt Nam và ở một vài nước
khác có cộng đồng người Việt sinh
sống. Sắm đào và quất ở miền
Bắc, miền Trung hay mai ở Miền Nam được
coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong
những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày
Tết, các gia đ́nh sum họp bên nhau, cùng thăm
hỏi người thân, dành những lời chúc
mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng
tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường
có những điều kiêng kỵ. Từ
nguyên: Hán-Nôm:
節元旦.
Tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ
của chữ 節,
mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là
tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn
từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ
của chữ "節".
"Tết" xuất hiện trước
"tiết", vào giai đoạn chữ
"tiết" 節 có âm
đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tset/.
"Tiết" xuất hiện sau "Tết", vào
giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung
cổ của chữ "tiết" 節 đă
biến đổi thành /tsiet/. Ban đầu cả
"Tết" và "tiết" đều
được phát âm giống như âm đọc
của chữ "tiết" 節
trong tiếng Hán ở thời điểm chúng
được tiếng Việt vay mượn, về
sau do sự biến đổi của ngữ âm
tiếng Việt cách phát âm của chúng đă thay
đổi thành "Tết" và "tiết" như
hiện nay. "Tết Nguyên Đán" vốn không
phải là "Tiết Nguyên Đán" trong 24 bốn
"Tiết khí" (chữ Hán: 節氣,
pinyin: jiéq́) của Thời tiết phân chia theo
lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ "nguyên"
元 trong
"Nguyên Đán" 元旦 có nghĩa là đầu, đầu tiên, c̣n
"đán" 旦 có nghĩa
là ngày. "Nguyên Đán" 元旦
là chỉ "Ngày đầu tiên, tức ngày mồng
một của một năm Nông lịch". Lịch
sử Tết Nguyên Đán: Theo
văn hóa Đông Á do nhu cầu canh tác nông nghiệp
đă "phân chia" thời gian trong một năm
thành 24 tiết khí khác nhau trong đó tiết quan
trọng nhất là tiết khởi đầu của
một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là
Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết
đến là Tết Nguyên Đán. Tại
Việt Nan, Lê
Tắc ghi chép chi tiết về việc đón Tết
của người Việt trong sách An Nam chí lược
vào thế kỷ XIII như sau: Một
số quốc gia Đông Á khác: 1.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết
Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế
2879 TCN thay đổi theo từng thời kỳ.
Một vài nhà nghiên cứu Việt Nam và phương
Tây cho rằng trên lănh thổ Trung Quốc thời
cổ đại có hai chủng tộc sinh sống là
người Hán (Mongloid phương Bắc) ở lưu
vực Hoàng Hà, người Bách Việt (Mongloid phương
Nam) ở nam Dương Tử. Nền kinh tế sơ
khai của người Hán là chăn nuôi du mục c̣n
người Bách Việt trồng lúa nước.
Tết là lễ hội nông nghiệp nên xuất
xứ từ các dân tộc Bách Việt phương
Nam c̣n người Hán chỉ tiếp nhận sau này. 2.
Người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp
lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi
người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng
nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất
vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng
được tổ chức tại làng cổ
Thập Phần vào dịp này. 3.
Tết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang
nhiều điểm tương đồng với
Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người
Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn
giữa nền văn hóa truyền thống Phương
Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ
của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón
Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn
nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ.
Trẻ em th́ được ĺ x́, người lớn
chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc 4.
Trong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất
trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay c̣n
gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu
xa, điều xui xẻo và chào đón điều
tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam,
Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và
thường kéo dài trong ba ngày. 5.
Ở Triều Tiên, hiện tại người dân nước
này đón Tết Nguyên Đán vào mùng một tháng Giêng
như nhiều quốc gia châu Á, khác với trước
đây họ thường đón Tết vào tháng 10
hoặc 11. Tết của người dân Triều Tiên
kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục
truyền thống như dán h́nh động vật lên
cửa để cầu may, xem tướng số,
đón mặt trăng. Tết Âm Lịch hay c̣n
gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là
một trong những dịp lễ lớn nhất trong
năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo
hiệu mùa đông giá lạnh đă kết thúc, là
dịp để gia đ́nh sum vầy và thắt
chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm,
người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang
phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, tṛ
truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng
thức chúng. Đông
Nam Á: 1.
Ở Singapore, người dân đón Tết truyền
thống cùng thời điểm với Tết Nguyên
đán của người Việt Nam. Những ngày
Tết ở Singapore thường diễn ra với
Lễ hội mùa xuân với ba sự kiện nổi
bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội
Singapore River Hongbao và Lễ hội đường
phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến
15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều
mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất
đông người dân tham gia. 2.
Ở Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là
người Hoa kiều, v́ vậy Tết Nguyên đán
cũng là một dịp rất quan trọng với
họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ
chính thức tại quốc gia này. Tất
niên: Ngày
Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là
năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm
thiếu). Đây là ngày gia đ́nh sum họp lại làm
cỗ cúng tất niên va ăn cơm với nhau.
Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng
1 tháng Giêng, giờ Tư (từ 23 giờ hôm trước
đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm
bắt đầu giờ Chính Tư (0 giờ 0 phút 0 giây
ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan
trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh
dấu sự chuyển giao năm cũ và năm
mới, nó được gọi là Giao thừa.
Để ghi nhận thời khắc này, người
ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia và
một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước
nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ
là vật thờ th́ gọi là cúng Ông Ba Mươi.
Một số cộng đồng khác th́ có một
phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng
những cô hồn lang thang không nơi nương
tựa. Sắp
dọn bàn thờ: Trong
gia đ́nh người Việt thường có một
bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay c̣n gọi ông
Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ
khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi
tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ
của người đă khuất. Hai cây đèn tượng
trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương
là tinh tú. Hai bát hương để đối
xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành
hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông
lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá
ngọc" (một thứ hàng mă) với sự
cầu mong làm ăn được quả vàng,
quả bạc và buôn bán lăi gấp nhiều lần năm
trước. Ở giữa có trục "vũ
trụ" là khúc trầm hương dưới
dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương.
Nhiều gia đ́nh đặt xen hai cái đĩa
giữa đèn và hương để đặt hoa
quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ
mỗi miền có sự biến thiên các loại
quả, nhưng mỗi loại quả đều có ư
nghĩa của nó). Trước bát hương để
một bát nước trong để coi như nước
thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là
để các cụ chống gậy về với con
cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên
trời về hạ giới. Giao
thừa: Giao
thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm
cũ và năm mới. Trong thời khắc giao
thừa mọi người trong gia đ́nh thường
dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp
nhất. Dịp này, người ta thường
bắn pháo hoa ở những địa điểm
rộng răi, thoáng mát. Cúng Giao thừa là lễ cúng
để đem bỏ hết đi những điều
xấu của năm cũ sắp qua để đón
những điều tốt đẹp của năm
mới sắp đến. Theo tục lệ cổ
truyền th́ Giao thừa được tổ chức
nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵,
tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi
thị sát dưới hạ giới, rất vội không
kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng
thường được đặt ở ngoài
cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành
khiển (行遣)
cũ đă cai quản Hạ giới trong năm cũ
sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển
mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới
trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau
12 năm th́ các vị Hành khiển sẽ luân phiên
trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán
quan (判官)
gồm: Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi,
Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Ba
ngày Tân niên: "Ngày
mồng Một tháng Giêng" là ngày quan trọng
nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể
những người tốt số, hợp tuổi
được mời đi xông đất, vào sáng
sớm ngày này, thường không ra khỏi nhà,
chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc
tụng nhau trong nội bộ gia đ́nh. Đối
với những gia đ́nh đă tách khỏi cha
mẹ và cha mẹ vẫn c̣n sống, họ đến
chúc Tết các ông bố theo tục: Mồng Một
Tết cha. "Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có
những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng
sớm, sau đó, người ta chúc Tết các bà
mẹ theo tục: Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn
ông chuẩn bị lập gia đ́nh c̣n phải đến
nhà cha mẹ vợ tương lai để chúc
Tết theo tục Đi sêu. "Ngày mồng Ba tháng Giêng"
là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít
nhất đủ ba ngày Tết, các học tṛ thường
đến chúc Tết thầy dạy học theo
tục Mồng Ba Tết thầy, đi thăm
viếng nhau. Xông
đất: Xông
đất là tục lệ quan niệm ngày Mồng
Một "khai trương" một năm mới,
nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may
mắn, cả năm cũng sẽ được
tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc
giao thừa, bất cứ người nào bước
từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới
được coi là đă xông đất cho gia
chủ. Người khách đến thăm nhà đầu
tiên trong một năm cũng v́ thế mà quan
trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người
cố ư t́m xem những người trong bà con hay láng
giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức
và thành công để nhờ sang thăm. Người
đến xông đất thường chỉ đến
thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ
không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm
của chủ nhà cũng được trôi chảy
thông suốt. Xuất
hành và hái lộc: Xuất
hành là đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm,
thường được thực hiện vào ngày
tốt đầu tiên của năm mới để
đi t́m may mắn cho bản thân và gia đ́nh. Trước
khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng
đạo, giờ Hoàng đạo và các phương
hướng tốt để mong gặp được
các quư thần, tài thần, hỉ thần. Tại
miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền,
sau khi lễ bái, người Việt c̣n có tục
bẻ lấy một cành lộc để mang về
nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái
lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành
đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi
tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi
đền, chùa ngụ ư xin hưởng chút lộc
của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành
lộc thường đem về cắm ở bàn
thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có
tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây
cối trong các đền chùa ở miền Trung
vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa
xuân. Chúc
Tết: Sáng
mồng Một Tết c̣n gọi là ngày Chính đán,
con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng
để lễ Tổ Tiên, chúc Tết ông bà, "chúc
thọ" các bậc cao niên, các bậc huynh trưởng. Tục
thăm viếng: Thăm
viếng họ hàng là để gắn kết t́nh
cảm gia đ́nh họ hàng. Lời chúc Tết thường
là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp
nhiều may mắn, mọi ước muốn đều
thành công. Đến thăm những người hàng
xóm, những gia đ́nh sống gần với gia đ́nh
ḿnh, chúc họ những câu tốt lành, giúp gắn
kết mọi người với nhau, xóa hết
những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ
đón chào năm mới. Đến thăm những
bạn bè, đồng nghiệp và những người
thân thiết với ḿnh, chúc họ những câu
tốt lành giúp t́nh cảm bạn bè gần gũi hơn. Mừng
tuổi: Ĺ
x́: người lớn thường tặng trẻ em
tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay
"hồng bao", gọi là "ĺ x́" với
những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo
cổ tích Trung Quốc th́ trong "hồng bao" có
8 đồng tiền, là Bát Tiên hóa than, được
đặt dưới gối đứa trẻ để
xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, v́
ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Theo truyền
thuyết: Ngày xưa có một con yêu quái thường
xuất hiện vào đêm Giao thừa khiến trẻ
con giật ḿnh khóc thét lên. Hôm sau đứa trẻ
nhức đầu, sốt cao, làm cho bố mẹ không
dám ngủ, phải thức canh pḥng yêu quái. Có
một cặp vợ chồng nọ mới sinh
được một mụn con trai kháu khỉnh.
Tết năm đó, có 8 vị tiên dạo qua,
biết trước cậu bé sẽ gặp nạn
liền hóa thành 8 đồng tiền ngày đêm túc
trực bên cậu bé. Sau khi cậu bé ngủ say, hai
vợ chồng lấy giấy đỏ gói những
đồng tiền này lại và đặt lên
gối con rồi ngủ. Nửa đêm, con yêu quái
xuất hiện định làm hại đứa
trẻ th́ từ chiếc gối loé lên những tia vàng
sáng rực, khiến nó khiếp vía bỏ chạy.
Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày
Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa c̣n
có lệ cho tiền phong bao với số tiền
lẻ không phải là tiền chẵn, ngụ ư
tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều. Hóa
vàng: Ngày
mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước.
theo truyền thống cũ người Việt làm cơm,
làm lễ cúng tổ tiên đă về ăn Tết
với con cháu, đốt vàng mă gửi người
thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm
mới nhiều may mắn, phù hộ độ tŕ cho
con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại
nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ,
người Việt có tục hát chèo đ̣ đưa
tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
Tục hóa vàng theo nhà sử học Dương Trung
Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường
gắn với đời sống thường
nhật, để thấy con người ở
thế giới vô h́nh bên kia sống gần với dương
gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người
ta kiêng xuất hành v́ đây là ngày không tốt. Khai
hạ: Ngày
mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của
chuỗi lễ hội Tết, trong ngày này, người
Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai
hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và
bắt đầu bước vào việc làm ăn
trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng
9 tháng Giêng. Sắm
Tết/Chợ
Tết: Chợ
Tết là những phiên chợ họp vào trước
Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng
Chạp, bán nhiều mặt hang nhất là các mặt
hàng dùng cho Tết Nguyên đán như lá dong, gạo
nếp, gà trống, hoa Tết các loại trái cây như
măng cầu, dừa, đu đủ, xoài, dưa
hấu. Những ngày đầu năm mới không
họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến
khi họp chợ trở lại. Người Việt có
câu "mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ
người" nên chợ được
họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày
3 tháng 1 âm lịch). Chợ Tết chấm dứt vào
trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày
này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm. Mâm
ngũ quả: Mâm
ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm
thứ trái cây khác nhau. Các loại trái cây bày lên
thể hiện nguyện ước của gia chủ
qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của
chúng. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người
xưa là ngũ hành. Chọn số lẻ tượng
trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ
quả của người miền Bắc gồm:
Chuối, bưởi, đào, hồng, quưt hay là
chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể
thay thế bằng cam, lê, táo, măng cầu. Người
miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm
ngũ quả, các loại quả đều có thể
bày được miễn là nhiều màu sắc.Mâm
ngũ quả của người miền Nam thường
gồm măng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ,
xoài với ngụ ư cầu sung vừa đủ xài.
Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng
trái có tên mang ư nghĩa xấu như chuối (chúi
nhủi), cam (cam chịu), lê (lê lết), sầu riêng (ưu
buồn), bom (táo), lựu (lựu đạn) và trái cây
có vị đắng, cay. Cây
nêu ngày Tết: Là
một cây tre cao khoảng 5, 6 mét. Ở ngọn thường
treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương)
như vàng mă, bùa trừ tà, cành xương rồng,
bầu rượu bện bằng rơm, h́nh cá chép
bằng giấy (để táo quân dùng làm phương
tiện về trời), giải cờ vải tây,
điều (màu đỏ), đôi khi người ta c̣n
cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ
bằng đất nung. Sách Gia Định Thành Thông
Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép
rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày
cuối năm) mọi nhà ở trước cửa
lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái
giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi,
ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là
"lên nêu"... có ư nghĩa là để làm tiêu
biểu cho năm mới mà tảo trừ những
xấu xa trong năm cũ". Người
ta tin rằng những vật treo ở cây nêu là để
báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây
là nhà có chủ, không được tới quấy
nhiễu...Vào buổi tối, người ta treo
một chiếc đèn lồng ở cây nêu để
tổ tiên biết đường về nhà ăn
Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch c̣n
cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm
mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc
những điều không maỵ. Cây nêu thường
được dựng vào ngày 23 tháng chạp cho
tới đêm Giao thừa. Ngày 7 tháng Giêng triệt
hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những
khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết
ấy không được đ̣i hỏi, đợi
ngày hạ nêu rồi mới được đ̣i
hỏi". Tranh
Tết: Tranh
Đông Hồ trang trí ngày Tết Nguyên Đán,
tranh "Đàn gà" hoặc "Sân gà" cầu
chúc cho sự sung túc, đông con, Tranh dân gian Việt
Nam, Tranh Đông Hồ, Tranh Hàng Trống, và Tranh
Kim Hoàng. Phía trên bàn thờ thường treo một
tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư...
có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...).
Tranh Tết từ lâu đă trở thành một
tập quán, một thú chơi của người dân
Việt Nam và không chỉ người có tiền
mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có
thể chơi tranh. Nó là một phần không thể
thiếu trong không gian của ngày Tết cổ
truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ
như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ
ấm cúng rộn ră sắc xuân trong mỗi gia đ́nh
của người Việt. Câu
đối Tết: Để
trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước
đây từ các nho học cho tới những người
b́nh dân "tồn cổ" vẫn c̣n trọng
tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày
Tết. Những câu đối này được
viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên
những tấm giấy đỏ hay hồng đào
cho nên c̣n được gọi là câu đối
đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ"
cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: "Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng
pháo, bánh chưng xanh." Câu
đối )
ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành
một đôi. Câu đối là một trong những
thể loại của Văn học Trung Quốc và
Việt Nam. Ngày nay vẫn c̣n tồn tại tục
"xin chữ" lấy hên đầu năm,
với việc mua những tấm thư pháp viết
chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt, với mục
đích ấy, nhiều phố ông đồ với
những ông đồ viết những tấm thư
pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt
đă được tái lập tại Sài G̣n và Hà
Nội. Những năm gần đây, để
chấn chỉnh t́nh trạng lộn xộn và kinh
doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội
đă có những kỳ thi sát hạch các ông đồ
trước Tết. Ẩm
thực ngày Tết: Thành
ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba
ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến
đâu th́ người ta cũng cố vay mượn,
xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày
Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có
manh áo mới". Bữa ăn ngày Tết thường
có nhiều món, đủ chất và sang trọng hơn
bữa ăn ngày thường. V́ vậy mà người
ta cũng thường gọi là "ăn
Tết". Ngoài cơm, ngày Tết c̣n có: Bánh chưng,
bánh dầy, bánh tét, mứt Tết, trái cây, kẹo bánh,
hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương,
hạt điều, hạt dẻ. Thức uống ngày
Tết: Các loại rượu, rượu nếp thơm,
nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương
(người Thái), nếp cẩm (người Mường),
rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mông,
người Dao), rượu Mẫu sơn (người
Tày, người Nùng), rượu Bàu đá (Trung
bộ), rượu đế (Nam Bộ). Cỗ
Tết: Gà luộc, bóng b́, canh măng, chân gị có
nấm hương, miến nấu ḷng gà, nem rán, xôi
gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món
xào, gị lụa, gị mỡ, nộm, dưa hành muối. Trong
văn hóa-nghệ thuật: Tết,
và các tục lệ, được nhắc đến
rất nhiều trong ca dao Việt Nam: Mùng
Một th́ ở nhà cha, Mùng
Một Tết cha, Cu
kêu ba tiếng cu kêu Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Tết
cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ: Mỗi
năm hoa đào nở ...Đ́ đẹt
ngoài sân tràng pháo chuột Hay
câu đối Tết như: Chiều
ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp
thằng Bần ra cửa Khánh
Lan tham khảo. |
||