Nguồn
gốc tên họ Việt Nam |
Thưa
quư vị, Trước
khi t́m hiểu về các ḍng họ ở Việt Nam,
chúng ta phải hiểu rơ nguồn gốc dân tộc
Việt Nam. Trước đây các sử gia, các nhà
nghiên cứu viết sử thiếu tài liệu khoa
học,hoặc do bị Hán hóa nô dịch văn hóa
cả ngàn năm nên chưa hiểu rơ về nguồn
gốc dân tộc nên một số cho rằng người
Việt chúng ta từ người Tầu (Trung
Quốc) mà ra, cái ǵ hay đẹp cũng nói là
của Tầu (Hán, TQ)... Cuối thế kỷ 20,
kết quả khoa học mới nhất của Khoa di
truyền học cho chúng ta biết Genome Mă di truyền
DNA của chúng ta hoàn toàn khác người Tầu (người
TQ, Hán Tộc) và Hơn nửa dân số người
Trung Quốc ở Miền Đông (Hoa Đông) và
miền Nam (Hoa Nam) của TQ là người Trung
Quốc gốc Việt cổ chúng ta. Chính v́ vậy nên
mới có sự hiểu lầm là chúng ta lấy
họ từ người Tầu (TQ). Cuối
thế kỷ 20 nhân loại đă có những kết
quả khoa học vượt bậc về di
truyền học và Đại Dương học nên
chúng ta có điều kiện phục hồi sự
thật của lịch sử, trả lại cho
lịch sử những ǵ của lịch sử. Trong
đường hướng đó, chúng tôi là thế
hệ sau may mắn tiếp nhận được
những tri thức kết quả khoa học nên cá nhân
chúng tôi đă dành hết cuộc đời sau hơn
20 lao tù để hoàn tất bộ LƯỢC SỬ
VIỆT NAM 1.200 trang để sáng tỏ nguồn
gốc dân tộc, cội nguồn văn hóa Việt
Nam. Chúng tôi nhờ diễn đàn phổ biến
dùm để chúng ta hiểu rơ về nguồn cội
của chúng ta. Lần sau chúng tôi sẽ viết
về Cội nguồn Trăm họ của Việt
Nam. Chân thành cám ơn quư vị và các bạn. Phạm
Trần Anh. DÂN
TỘC VIỆT NAM
Sự h́nh thành nhân chủng Việt Nam hiện nay
phải trải qua cả một tŕnh tự phức
tạp lâu dài. Trước đây các nhà Nhân
Chủng Học, Khảo Tiền Sử cho rằng người
Việt là người Indonesian thuộc chủng Mông
Cổ phương Nam (Nam Mongoloid). Các nhà Nhân Loại
Học và Giải Phẫu Học t́m thấy một
số đặc điểm Indonesian trong cơ thể
người Việt Nam hiện nay như về
chiều cao, về cấu tạo máu cũng như
sự xuất hiện của sọ tṛn. Đặc
biệt là nhà khảo cổ Pháp E. Patte đă t́m
thấy đặc điểm Indonesian c̣n bảo lưu
ở xương sọ.
Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận yếu tố
Indonesian không những có ở đồng bào Thượng
trên Tây nguyên mà c̣n t́m thấy ở đồng bào Mường,
Thổ, Mán ở thượng du Bắc Việt.
Mặt khác, khoa Khảo Tiền Sử cũng xác
nhận là giống Indonesian có mặt trên đất nước
ta ngay từ thời đồ đá và họ là
chủ thể đóng vai tṛ quan trọng trong việc
h́nh thành nền văn hoá cổ từ văn hoá Hoà
B́nh, Bắc Sơn đến Hà Mỗ Độ, Nguyên
Mưu, Phùng Nguyên, Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo.
Ngày nay, các nhà Di Truyền Học đă t́m ra lộ
tŕnh di chuyển của nhánh Halogroup O-M175 của người
tiền sử từ châu Phi di chuyển tới vùng
Đông Nam Á nhưng tập trung nhiều nhất
ở Ḥa B́nh miền Bắc Việt Nam. Ngay từ
thời đồ đá giữa, những người
tiền sử này sau một thời gian tiến hóa
đă h́nh thành Hoabinhian thuộc nhân chủng Nam Á mà
chúng tôi gọi là chủng Hoabinhoid, người
Tiền Việt Protoviets.
Sau một thời gian tiến hóa lâu dài, người
Việt là điển h́nh cho các dân tộc Đông
Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo
với những đặc tính sau: tóc đen, thẳng
và cứng, thân mao kém phát triển, mũi hơi
thấp, chỉ số mũi rộng, mắt đen,
một số mắt một mí gọi là mí mắt Mông
Cổ Epicanthus, hai g̣ má hơi cao, mặt rộng có
chỉ số 49,9 h́nh trái xoan vóc dáng tầm thước,
nhanh nhẹn, da vàng nói chung. Người Việt Nam
hiện đại đầu ngắn sọ tṛn cũng
như cư dân vùng Đông Nam Á gọi chung là
loại h́nh nhân chủng Đông Nam Á Hoabinhoid.
Các nhà Khảo Tiền sử đă đo chỉ
số sọ của cư dân mà họ gọi là
Indonesian xuất phát từ cao nguyên cao nguyên chân núi
Malaya nên chúng tôi gọi là Malaysian cho chính xác. Cách ngày
nay khoảng 5.500 năm nước biển rút dần,
cư dân Malaysian di cư từ cao nguyên Malaya xuống
miền lưu vực 2 con sông Hoàng Hà Dương
Tử mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách
Việt (Bai Yue) nên chúng tôi gọi là Malayo-Viets.
Năm 1962, J Coedès Giám đốc trường
Viễn Đông Bác cổ công bố kết quả
đo chỉ số sọ, dung lượng sọ
của người Việt như sau: Sọ Việt
thuộc loại sọ tṛn, có chỉ số sọ
trung b́nh là 82,13 và dung lượng sọ là 1341,48.
Chỉ số sọ người miền Bắc là
82,49, chỉ số sọ của đồng bào thượng
du Bắc Việt là 82,85, chỉ số sọ người
miền Trung là 82,14 và chỉ số sọ người
miền Nam là 81,76. Kết quả đo chỉ số
sọ của đồng bào thiểu số thượng
du Bắc Việt như Thái, Mường, Mán, Tày, Nùng,
Thổ và đồng bào Thượng ở cao nguyên
Trung Việt so với người Việt chỉ
số sọ không cách biệt quá 2 đơn vị nên
thuộc cùng chủng tộc.
Các nhà Khảo Tiền sử đă kết luận
rằng tất cả người Việt Nam, người
ở miền Đông Bắc Trung Quốc (Hoa Đông),
người ở miền Nam Trung Quốc (Hoa Nam) cũng
như các dân tộc ở vùng Đông Nam Á lục
địa và hải đảo như Thái, Lào, Miên,
Miến Điện, Mă Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân,
Tân Gia Ba đều cùng một chủng tộc v́ có
chung một chỉ số sọ trung b́nh là 82,48 và
thuộc loại sọ tṛn.
Khoa Khảo Tiền Sử cho biết sọ của người
Trung Quốc là sọ dài, dung lượng sọ là
1440 có chỉ số sọ trung b́nh là 76,51 và người
Hoa Đông, Hoa Nam là 81,22. Theo các nhà nhân chủng th́
nếu chỉ số sọ cách biệt quá 2 đơn
vị th́ thuộc 2 chủng tộc khác nhau.[1]
Như vậy, Việt tộc hoàn toàn khác biệt
với người Trung Quốc và cùng chủng
tộc với người Trung Quốc ở miền
Đông Bắc và miền Nam Trung Quốc. Người
miền Đông và miền Nam Trung Quốc chính là người
Việt cổ bị Hán tộc thống trị đồng
hóa hàng ngàn năm lịch sử. NGƯỜI
VIỆT NAM
Người Việt là cư dân sống về
nghề nông, trồng lúa nước, dùng đũa
ăn cơm nên ḿnh thon chắc, vóc dáng nhỏ, đời
sống thiên về t́nh cảm, văn hóa. Hán tộc
du mục ở phương Bắc, sống trên lưng
ngựa nên dùng tay ăn thịt, ăn bánh bao làm
bằng lúa mạch.
Vóc dáng người Việt thon nhỏ nhưng hết
sức rắn chắc nhanh nhẹn, mặt xương
xương có nét sắc sảo, trán cao và rộng,
đôi mắt tinh anh đen láy, râu tóc đen, mũi
vừa phải, da vàng nhưng ở gần xích đạo
nên hơi nám đen v́ nắng, phụ nữ có nước
da trắng đẹp hơn đàn ông.
Vào đầu thời Hùng Vương, người
Việt cổ ở nhà sàn để tránh thú dữ.
Đàn ông tóc cắt ngắn hoặc búi tó lại,
đóng khố để dễ đi lại trong
rừng. Người Việt cổ ở miền đồng
bằng duyên hải gắn bó với cuộc sống
trên sông nước. Phụ nữ th́ mặc váy, áo
trùng qua đầu.
Người Việt mặc áo cài nút bên trái (Tả
nhậm) là bản sắc riêng biệt của người
Việt khác với người Trung Quốc. Sau này, người
phụ nữ mặc áo tứ thân, đội nón quai
thao, khăn mỏ quạ c̣n nam giới th́ mặc áo
dài thâm, đội khăn và làm nhà ở kiểu
chữ Đinh.
Ngày nay th́ người Việt mặc Âu phục,
phụ nữ theo đúng thời trang hiện đại
nhưng vẫn giữ chiếc áo dài truyền
thống, đàn ông vẫn mặc quốc phục “Áo
dài Khăn đóng” trong những dịp lễ
tết hội hè theo đúng truyền thống
Việt. TÂM
TÍNH NGƯỜI VIỆT
Người Việt vốn hiền ḥa, luôn luôn
lạc quan yêu đời, có ḷng hiếu thảo
với cha mẹ, t́nh chung thủy vợ chồng, thành
tín với bạn bè và đặc biệt biết
trọng t́nh nghĩa thầy tṛ “Tôn Sư Trọng
Đạo”, trọng lễ nghĩa liêm sỉ. Tính t́nh
cởi mở, siêng năng cần kiệm, hiếu khách,
có ḷng nhân ái yêu thương đùm bọc người
hoạn nạn, giúp đỡ kẻ khốn cùng. Người
Việt Nam hiếu học, thông minh, có óc sáng tạo,
khéo léo tay chân, có ư chí tiến thủ cao, có đức
tính trầm tĩnh, chín chắn, thành thật trung tín.
Tuy vậy, người Việt lại có nhiều tham
vọng hơn người, bản tính hà tiện, thường
hay đố kỵ và ham thích lợi lộc. Người
Việt thông minh trí tuệ nhưng lại có tính
tự măn nên không thành công nhiều trên các lănh
vực.
Dân tộc Việt là cư dân nông nghiệp sống
ở vùng đồng bằng ven biển Đông nên có
một đời sống tâm linh cao, cuộc sống
thiên về t́nh cảm lăng mạn, thích văn chương,
ưa chuộng lễ tết hội hè. Người
Việt vốn bản tính hồn nhiên tươi
trẻ, lạc quan yêu đời, lúc nào cũng
nở nụ cười trên môi nên được người
ngoại quốc trân trọng đức tính niềm
nở hiếu khách của người Việt.
Nếu so sánh một người Việt Nam với các
dân tộc khác th́ người Việt không thua kém ǵ
người bất cứ nước nào nhưng do có
tính tự cao tự đại, “anh hùng” cá nhân, không
có tinh thần đoàn kết trong thời b́nh.
Bản tính xấu của người Việt là ghen
ghét, đố kỵ, tinh ranh, láu lỉnh, ranh mănh, thích
khoe khoang phô trương hay trêu ghẹo người khác.
Trong suốt ḍng lịch sử phải thường
xuyên đương đầu với Hán tộc xâm lược
để sống c̣n nên người Việt Nam có ḷng
yêu nước cao độ “Xem cái chết nhẹ như
lông hồng”, sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài
sản để chống lại kẻ thù xâm lược.
Sách cổ Việt Tuyệt Thư chép: “Người
Việt sống trên sông nước mà ở trên núi,
lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa. Đi
như gió thổi mà về th́ khó theo. Đă đánh
là quyết đánh không sợ chết, ấy là thường
tánh của người Việt…”.
Sách “Tùy Thư Địa Lư Chí” của Trung
Quốc chép: “Từ Ngũ Lĩnh trở về
Nam, Nam Hải (Quảng Đông), Giao Chỉ mới là
nơi đô hội, sinh sống ở gần biển
nên có nhiều tê giác, voi, đồi mồi, vàng
ngọc, trân châu quư báu nên người dân buôn bán giàu
có. Tính khí người dân chánh trực thượng
tín, khinh hăn, dễ gây chuyện làm loạn, búi tóc
sau gáy, ngồi chàng hảng (ngồi xổm) đó là
phong tục xưa của người họ Lư
(Việt Cổ). Các bọn mọi th́ dũng cảm
tự lập, đều ưa của coi thường
cái chết, chỉ lấy sự giàu có làm hùng,
ở tổ (nhà sàn) bên sườn núi, làm việc siêng
năng cày cấy, khắc gỗ làm phù khế,
lời đă hứa th́ đến chết cũng không
thay đổi. Đó là thường tính của người
Việt.
Cha con làm nghề khác nhau. Cha nghèo th́ sống với các
con, các bọn Lư Lào cũng thế. Họ đúc
đồng làm trống lớn, khi đúc xong treo
trống ở trong sân nhà rồi tổ chức
tiệc rượu mời gần xa đến dự,
mời người con gái nhà giàu quyền thế
cầm dùi, đánh trống xong để lại cho
chủ nhân đặt tên là cái Thoa (dùi trống),
tục ưa đánh nhau gây nhiều thù oán. Muốn
đánh nhau th́ cho trống dấy lên người
tới như mây, kẻ có trống được
đặt hiệu là Đô lăo, mọi người
trong làng xa gần đều suy phục. Truyền
thống này bắt nguồn từ xa xưa từ khi
Úy Đà (Triệu Đà) xưng là Man Di đại trưởng
lăo phu v́ vậy người Lư vẫn gọi
những người họ tôn trọng là Đà lăo
về sau đọc chệch ra là Đô lăo” .
Đặc biệt, người Việt Nam đối
xử với nhau trong t́nh ruột thịt nghĩa
đồng bào cùng chung một bào thai của mẹ Âu
Cơ nên thường xưng hô với bà con hàng xóm
như người thân thương ruột thịt qua
cách gọi là bà Tư, bác Tám, cô Ba, chú Hai và xưng
là con. Chính v́ cùng chung một bào thai mẹ nên ḷng
“Yêu nước Việt Nam” luôn gắn liền
với “Thương ṇi giống Rồng Tiên” hơn
các dân tộc khác. TÂM
LINH VIỆT
Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một
triết lư văn hoá cao đẹp không những
thấm đậm tính nhân đạo, chan chứa
vẻ nhân văn, tràn đầy t́nh đồng bào,
nghĩa ruột thịt qua h́nh tượng “Bọc
điều trăm trứng nở trăm con.” Từ
ư niệm đồng bào dẫn đến ḷng yêu nước,
thương ṇi, yêu quê cha đất tổ, tất
cả đă trở thành giá trị đạo lư
truyền thống của nền văn minh đạo
đức Việt Nam. Henri Bernard Maitre đă ca tụng
nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua
đền thờ gọi là “Văn miếu”: “Văn
Miếu không phải để cầu kinh hay làm bùa phép
mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân
tộc, các danh nhân văn hoá, các vị Tiến sĩ
với những chuẩn mực đạo đức
để con cháu đời sau ghi sâu vào tâm khảm bài
học về đạo làm người Việt Nam”.
Đối với người Việt, việc thờ
cúng ông bà tiên tổ là đạo lư làm người
trong đời sống tâm linh của người
Việt. Từ xa xưa người Việt coi
trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ
tới ngày giỗ của người thân hơn là chú
trọng đến ngày sinh nhật của ḿnh. Ngày
nay, dù giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày
sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày
kỵ giỗ người thân trong gia đ́nh. Đạo
thờ cúng ông bà là một “Việt đạo”
thể hiện đạo lư làm người của
Việt tộc. Linh mục Cadière một thừa sai
ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo
phải thốt lên “Việt Nam là một dân
tộc có tinh thần tôn giáo cao độ”.
Học giả P. Mus nghiên cứu về Việt Nam
cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt
có một đời sống tâm linh cao, người
Việt không làm việc, họ tế tự”.
Thật vậy, người ngoại quốc ngạc
nhiên khi thấy: “Mỗi
gia đ́nh Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng
có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà. Trong đời
sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động,
việc ǵ cũng tràn đầy tính chất thiêng liêng,
thờ phượng, tế lễ, cúng giỗ với
tất cả tấm ḷng chí thành. Thật vậy,
trong đời sống tâm linh Việt không chỉ
hiển hiện trên bàn thờ Gia Tiên mà đền
thờ ở ngay trong tâm thức mỗi người.
Người Việt không tham dự vào các buổi
lễ để được ban phát ân sủng, mà
họ hiệp thông cầu nguyện như một người
Tư tế, với tất cả tính chất thiêng liêng
của một tôn giáo”.
Đây chính là điểm độc đáo thấm
đậm bản sắc dân tộc, tràn đầy
vẻ nhân văn của triết lư văn hoá nhân
chủ của Việt Nam biểu trưng giá trị
cao đẹp trong đời sống tinh thần
của người Việt cổ.
Thờ cúng tổ tiên chính là đạo lư làm người
cao đẹp truyền từ đời này sang đời
khác. Chính ḍng sống tâm linh này đă góp phần
bảo tồn ḍng giống Việt. Truyền thống
thờ cúng ông bà không c̣n là một tập tục,
một tín ngưỡng đơn thuần mà đă
trở thành đạo lư của dân tộc. Đạo
thờ cúng ông bà được xem như Tổ Tiên
chính giáo của đạo làm người Việt Nam
mà Nguyễn Đ́nh Chiểu một sĩ phu yêu nước
thế kỷ XIX đă ân cần nhắc nhở: “Thà
đui mà giữ đạo nhà, C̣n hơn sáng mắt
ông cha không thờ”... “Công
cha như núi Thái Sơn,
Đây chính là điểm độc đáo của ḍng
sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối
truyền lưu trong mỗi con người Việt Nam
chúng ta hôm nay và măi măi về sau. Thật vậy bên
cạnh đời sống thực tế khổ đau
trước mắt, vẫn hiển hiện một
đời sống tâm linh sâu thẳm thấm đậm
tính nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính ḍng
sống tâm linh đó đă tạo cho mỗi người
Việt Nam một quan niệm sống lạc quan yêu
đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn
sẵn sàng hy sinh mạng sống cho nền độc
lập thực sự, quyền tự do thực sự
và sự ấm no hạnh phúc thực sự cho
mỗi con dân đất Việt.
Ngay tự thuở xa xưa, khi tiền nhân
Việt chúng ta chọn vật Tổ biểu trưng là
Rồng-Tiên th́ người Việt cổ đă có
một ư thức chung về cộng đồng. Người
Việt gắn bó sống chết với nhau trên
một niềm tin tâm linh thiêng liêng rằng họ là
con của bố Lạc mẹ Âu, mang trong người
giọt máu của ḍng giống Rồng Tiên. Chính cái
ư thức chung về Quốc Tổ mang tính tâm linh thiêng
liêng cao cả để con dân của Tổ Quốc
Việt Nam, dân tộc Việt Nam cùng chung sống trong
t́nh thương yêu đùm bọc lẫn nhau đời
này nối tiếp đời khác. Trải dài theo ḍng
thời gian, tất cả đă trở thành một
biểu tượng thiêng liêng của con dân nước
Việt. Đó chính là hồn nước, là
“Hồn thiêng sông núi”.
Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc cho chúng ta
thấy rằng chúng ta cùng một mẹ sinh ra nên chúng
ta mới gọi nhau là “Đồng Bào” v́ chúng ta là
anh em cùng trong bào thai mẹ sinh ra. Chúng ta có chung
một ông Tổ là Quốc Tổ Hùng Vương và
cũng từ ư niệm này tiền nhân chỉ đảo
ngược thành lại để thăng hoa thành
“Tổ Quốc”, một biểu tượng tinh
thần của cả dân tộc hằn sâu trong tâm
khảm của mọi con dân đất Việt mà các
dân tộc khác không thể nào có được.
Trong khi các nước khác chỉ có 1, 2 chữ
để chỉ quốc gia và tổ quốc th́
Việt Nam chúng ta có rất nhiều chữ để
diễn tả ư niệm này. Quốc gia là nước
nhà nghe rất là thân thương tŕu mến, tự
thân chữ nước nhà đă nói lên ư niệm
của riêng chúng ta và khi đảo lại th́ chỉ
cơ quan chính quyền của đất nước là
nhà nước. Chúng ta c̣n dùng chữ nước non
(Giang Sơn), sông núi (sơn hà) để diễn
tả ư niệm quốc gia và diễn tả một ư
niệm đặc thù riêng biệt của một nước
nông nghiệp, chúng ta thường gắn liền
"Sơn hà" với "Xă tắc" là
miếu thờ Thần Nông, vị thần nông
nghiệp…
Từ ư niệm đồng bào mà người
Việt Nam khi nói tới yêu nước thường
gắn liền với thương ṇi v́ chúng ta là
một quốc gia, một dân tộc cùng chung một ṇi
giống “Tiên Rồng”. Chúng ta cùng chung một ông
Tổ là “Quốc Tổ Hùng Vương” và dĩ
nhiên cùng chung một “Tổ Quốc Việt Nam”.
Đây chính là lư do giải thích cho người
ngoại quốc, tại sao người Việt Nam là
một dân tộc yêu nước nồng nàn, một dân
tộc đă liên tục chiến đấu để
giành độc lập dân tộc sau gần một ngàn
năm bị người Trung Quốc thống trị.
Ḷng yêu nước thương ṇi của người
Việt Nam thể hiện xuyên suốt tiến tŕnh
lịch sử khởi từ thời lập quốc
cho đến ngày nay. Trải qua hàng ngàn năm
lịch sử, đối đầu với kẻ thù
truyền kiếp hung hăn bạo tàn, thâm độc
quỷ quyệt, biết bao thế hệ đă
chiến đấu anh dũng để bảo vệ
đất nước cho tổ quốc Việt Nam trường
tồn, dân tộc Việt Nam bất diệt. [1].
G Coedès: Les Peuples de la peninsula Indochinoise, Paris 1962. B́nh
Nguyên Lộc “Nguồn gốc Mă lai của dân
tộc ta”, NXB Bách Bộc Sài G̣n, tr 446-449. [2].
Núi Thái Sơn ở miền Hoa Dương cao nguyên Tây
Tạng sau khi người Việt cổ thiên cư
xuống bán đảo Sơn Đông cũng lấy tên
Thái Sơn để đặt cho ngọn núi cao
nhất Sơn Đông. Khi bị Hán tộc đánh
chiếm địa bàn cư trú này, Bách Việt
phải thiên cư xuống miền Nam đem theo tên
ngọn núi cao Thái Sơn vào tâm thức Việt nên ví
von công cha như núi Thái Sơn để nhớ
về quê cha đất Tổ thuở xa xưa. On
Tue, Feb 16, 2021 at 9:07 PM 'Tle8464953' via DiễnĐànDânTộc
<diendandantoc@googlegroups.com>
wrote: Có thể những họ của dân thiểu
số thượng du Bắc Việt - người
Mường, Mán, Thái, Mông, và tiếng
nói của họ... là tương đối gần
với người Lạc Việt, Giao Chỉ
nhất? Chúng ta không thấy ai họ Lạc, Âu (Cơ,)
Hùng, Trưng, họ Thi, ... nữa? Nguồn gốc tên
họ Việt Nam
Nguồn
gốc tên họ Việt Nam (thietkegiapha.vn) Không có sử liệu nào nói về
nguồn gốc tên họ tại Việt Nam. Do
vậy, ta phải nghiên cứu các vấn đề: (1)người Việt có tên họ từ bao
giờ (2) sự du nhập tên họ người Tàu vào
xă hội Việt Nam (3) tên họ do người Việt tự đặt (4) người Việt bị bắt buộc hay
bắt chước nhận tên họ (5)
sơ lược nguồn gốc những tên họ
phổ biến nhất Việt Nam.
a. Thời bị đô hộ: Trong hơn 1000 năm Việt Nam bị Trung
Quốc đô hộ, sử cũ cho chúng ta nhiều
bằng chứng những người Tàu như quan
lại, binh lính, quư tộc, thương gia, nho sĩ,
tội nhân bị đi đầy, dân nghèo, đă
sang nước ta. Họ và gia thuộc đă ở
lại, thông hôn với người Việt và
biến thành người bản xứ. Chính những
lớp người này đă đem đến đa
số họ mà người Việt Nam có hiện nay.
Xin trích ba ví dụ điển h́nh để chứng
minh:
In
ấn gia phả |