NGƯỜI
MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU
VONG
Trần Trúc-Lâm |
Qua cuộc chiến Đông Dương và
Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc
miền núi đă đóng một vai tṛ không kém
phần quan trọng, thường được báo
chí Tây phương nhắc đến, nhất là
ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với
sự thắng thế của phe cộng sản vào
giữa thập niên 70, đă có một làn sóng di dân
tị nạn ồ ạt kéo dài nhiều năm sau
đó.
Phần lớn dân
thiểu số ở Lào sau khi vượt sông Mêkông lánh
nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi
núi Bắc Thái; một số khác được định
cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng
lớn lao người đồng bằng của 3 nước
Việt, Miên Lào. Với hơn hai
thập niên đầu định cư, v́ những
nhu cầu và dịch vụ xă hội, đă có sự
giao tiếp ḥa đồng của các sắc dân Đông
Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đă làm
quen với những người miền núi của thượng
Lào với y phục cổ truyền có màu sắc
sặc sỡ khác lạ mắt mà những người
lớn tuổi vẫn c̣n mặc khi đi khám
bệnh, đi chợ, đi xe buưt hoặc đến
sở welfare vv... So với người
Việt, th́ người Miên và người Hmong
chỉ có một số ít họ tộc rất dễ
nhận: Đối với người Miên th́ thường
là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; c̣n người
Hmong th́ có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao vv...
Với chúng ta th́ tên Vang Pao lại cũng rất là
quen thuộc. Nhóm sắc tộc Lào,
vốn thích nghi với miền núi và canh tác, khi đến
Mỹ đă tụ tập với nhau ở một
số địa phương như Minesota, Fresno,
Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle...Và theo đà tiến
triển, các thế hệ trẻ đă chóng thích nghi
với đời sống mới và đạt lắm
thành công rực rỡ trong nhiều mặt như
học vấn và kinh doanh. Riêng với sắc
tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người
Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6
triệu dân trên thế giới, mà đại đa
số lại sống ở Trung quốc. Số c̣n
lại sống răi rác ở miền bắc các nước
Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng
80 ngàn người đă được định cư
tại Hoa Kỳ. Đă có khá nhiều sách báo Tây phương,
nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng
t́m hiểu th́ chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về
lịch sử hùng tráng và lâu đời của
một dân tộc kém may mắn, đă bị suy vong
mai một mà trở thành một sắc tộc
miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu
lục với tṛ dâu biển ngậm ngùi.
Người Trung hoa xưa phân biệt sắc tộc
Hmong ra làm hai loại: loại đă thuần (shu) và
loại hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đă
được đồng hóa với người Hoa,
c̣n loại hoang là nhóm sống biệt lập trong
rừng, thoát ngoài ṿng kiềm tỏa của chính
quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương
lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong sống
hoang dă ở vùng Tứ- xuyên, Vân-nam vào thế kỷ
17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét
thuần Á châu mà lại phảng phất giống
caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung
hoặc bạch kim, và vài người lại có
mắt xanh. Có thể là v́ thế mà người Hoa
gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Số người
giống caucasian này c̣n lại tương đối
ít v́ các chính quyền liên tiếp của
Trung-quốc luôn luôn t́m cách sát hại họ, dù
họ đă trốn sang Lào, không nương tay, ngay
cả đến thời Dân quốc và Trung cộng ngày
nay. Sự kiện này
đă làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công
t́m hiểu thêm về nguồn gốc của người
Hmong. Nhưng sử sách của người Hoa lại
hầu như muốn bỏ quên giống dân này,
chẳng có mấy sách cổ nhắc đến
một cách rơ ràng, không khác ǵ khi nói về nguồn
gốc của Việt tộc. Ngay cả các nhà sử
học người Hoa vẫn cho rằng người
Hmong là kẻ thù đầu tiên của Hoa tộc, và
xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại
đầu tiên cho đến nhà Măn Thanh, người
Hmong đă không ngừng nổi dậy và bị truy
diệt bởi quan quân Trung quốc. Cuốn sách đầu
tiên đề cập tương đối đầy
đủ về giống Hmong là cuốn "Histoire des
Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà
truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo
hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris,
cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung
sống với nhiều bộ tộc Hmong ở
Bắc kỳ và Lào. Nguồn
gốc Miêu tộc Về sau, nhiều nhà sử học
đồng ư rằng trong thời cổ đại
giống Hmong xuất phát từ châu Âu, di dân dần
đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á),
rồi mới đến định cư ở lưu
vực sông Hoàng-hà vài ngàn năm trước.
Huyền thoại của dân tộc Hmong c̣n lưu
truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của
họ vốn đă sống ở một vùng quanh năm
tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài
đến cả 6 tháng. Với người Hmong
sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á,
chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ
họ dùng để kể chuyện là "nước
cứng" và "cát trắng mịn". Số phận dân
Hmong bắt đầu gắn liền với sử
Trung quốc có thể vào khoảng từ 3000 trước
TL đến 1200 trước TL. Nhiều truyền
thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu
tộc ở vào thời tiền sử của Trung hoa,
đưa đến chỗ xung đột không
thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc
bấy giờ. Theo người Hoa th́ Hiên-Viên
(Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người
Hoa (khoảng 2697 trước TL), liền t́m cách tiêu
diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc
dể chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào
bản bộ của Trung quốc. Sau khi toàn thắng,
Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti)
mở đầu thời Ngũ đế, đồng
thời với Họ Hồng Bàng của Việt
sử. Người ta lại gán cho thời Hoàng đế
kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người
Hoa đă phát minh ra được thuyền bè, xe kéo,
cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng
bằng gỗ và đất nung, biết xây nhà
cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu
kỳ 60 năm để đoán ngày tháng gieo
trồng vv... Hẳn nhiên Hoàng
đế chỉ là một nhân vật huyền
thoại của người Tầu, bởi cho đến
nay các cuộc khảo sát vẫn không t́m ra được
bằng chứng ǵ về triều đại này. Tuy
nhiên huyền thoại này đă nói lên được
sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu
đă xảy ra rất sớm, và từ đó cứ
kéo dài măi suốt lịch sử Trung quốc. Cuộc
sống mái với Hoa tộc qua các triều đại Năm 1576 trước TL, vua Thang,
thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc
bộ lạc tộc Thương, lôi kéo được
các bộ lạc khác diệt được vua
Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập ra Nhà Thương
(Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh
một giải đất thuộc tỉnh Hà-nam và Sơn-tây
bây giờ. Đến đời vua thứ 8 là Bàn
Canh dời đô về đất Ân, nên c̣n gọi là
đời Ân. Dưới đời này thị
tộc phụ hệ, định canh, mục súc,
tằm tang và chế độ tư hữu bắt
đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất
hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc
khác để chiếm thêm đất đai. Quân
địch bại trận bị bắt làm nô lệ,
và c̣n dùng làm vật hy sinh để tế thần
nữa.Vào năm 1930, trong một cuộc đào
xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở
đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương,
người ta t́m thấy có nhiều hài cốt
của tộc phi-mông-cổ (có nghĩa là gốc
caucasian) lẫn lộn. Đến đời
Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước TL) th́ ngay sau khi
diệt được vua Trụ của nhà Thương,
Vũ vương liền đày một số tộc
Miêu lên vùng biên cương Cam-túc (Kansu), tịch thu
hết ruộng đất của họ. Nhà Chu c̣n
bắt họ canh tác dưới sự kiểm soát
của các đội biên pḥng, nhưng người
Hmong, quen sống tự do bơ trốn vào rừng và
bắt đầu cuộc sống kham khổ của
miền núi. Đến thế kỷ thứ 7 trước
TL, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như
Tây Nhung, Khuyển Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông
Vị nổi lên đánh phá các trú pḥng của quân
nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không c̣n nghe nói
đến trong sử Trung quốc. Có truyền
thuyết cho rằng một phần đă bị đồng
hóa trước TL, và một phần theo gịng sông
Vệ vào vùng Tứ-xuyên, rồi trốn vào Tây-tạng
yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc. Số tộc Miêu
ở nội địa cũng bị đàn áp không kém
bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ luôn
nổi dậy. Năm 826 trước TL, Miêu tộc
bị thảm bại phải tẩu táng khắp phương;
một số chạy đến bờ biển theo
thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến
Quảng-tây, Hồ-nam; số lớn di tản vào vùng
thượng du Tứ-xuyên và Quế-châu, xa khỏi ṿng
kiềm chế của nhà Chu. Tiếp sau đó, nước
Tầu bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước
TL), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước TL.),
số phận Miêu tộc không nghe nhắc đến
trong giai đoạn này của sử Tầu. Cùng
thời xin nhớ rằng, ở nước Văn Lang
khoảng 275 trước TL, Thục Phán dành được
ngôi từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương
Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây
thành Cổ loa. Măi đến đời
Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước TL), sau khi
nhất thống Trung quốc Tần Thỉ Hoàng (Shih
Huang-ti) dời đô về Hàm dương, quyết tâm
đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây
Vạn lư trường thành để ngăn cản
sự xâm lăng của rợ phương Bắc.
Tần Thỉ Hoàng đă ra lệnh cho tướng
Đồ-Thư đánh chiếm các xứ Bách
Việt ở phương nam (khoảng các tỉnh
Hồ-nam. Quảng đông và Quảng tây bây giờ),
rồi cho di dân hơn 50 vạn người đến
khai khẩn, đặt quan úy quận Nam-hải là
Triệu Đà cai quản. An dương vương
xin thần phục nhà Tần. Khi nước
Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán)
và Hạng Vơ (Sở) tranh hùng th́ năm 208 trước
TL, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu
lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm
Quế lâm, Nam hải và Tượng quận). Khi nhà Hán tiếp ngôi
(206 trước CN - 220 TL), nhờ yên ổn với các
rợ, họ đă chú tâm mở rộng bờ cơi thêm.
Đời Vũ Đế (134 - 88 trước TL), quân
Hán đă đánh chiếm Triều tiên và chia ra làm 4
quận. Năm 111 trước TL lại sai Lộ-bác-Đức
chiếm nước Nam Việt, đổi thành
Giao-chỉ bộ (Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận. Quân
Hán c̣n chiếm các đất của rợ Di, phía Tây
nam như Vân-nam, Quế-châu và Tứ-xuyên bây giờ,
trong đó có Miêu tộc ở Quảng-tây. Năm 41
vua Quang-vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mă
Viện (Ma-yuan) sang đánh dẹp cuộc nổi
loạn của Hai bà Trưng ở quận Giao-chỉ,
rồi dựng cột đồng ở biên giới.
Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một
trận càn quét cuộc nổi loạn của Miêu
tộc ở phía nam Hồ-nam, và tướng già Mă
Viện đă chết cùng với trên 2 vạn quân v́
bệnh ôn dịch trong khi hành quân. Nhà Đông Hán đă
trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát
mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng
mạc người Hmong trong vùng liên tục tṛn 3 năm
cho đến đời Chiêu-đế mới nới
lỏng, nhưng đă không tiêu diệt được
tinh thần tự cường của Miêu tộc.
Đến thời
Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei, Shu Han, Wu) th́ người
Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần
lớn đất Hồ-nam và Quế-châu, lại c̣n
có ảnh hưởng đến tận mạn nam
của Hồ-bắc, rồi theo sông Hán đến
tận mạn bắc. Họ c̣n cố quay về
chốn cũ ở Hà-nam, Sơn-tây và lan đến
phía đông An-huy. Sau đời
Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) th́ nước Tầu suy
yếu, rơi vào hỗn loạn của thời Nam
Bắc triều (Nan Bei) (hay c̣n gọi là Lục
triều: 317 - 589) th́ khoảng từ 403 đến 561
đă có đến hơn 40 lần người Hmong
nổi dậy để đ̣i độc lập, cùng
với những sắc tộc khác ở khắp nơi
mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ hồ (Hung-nô,
Yết, Tiên-ti, Chi, Khương). Đến giữa
thế kỷ thứ 6, người Hmong đă
thiết lập được một vương
quốc tạm bợ khá rộng ở phía tây
Trung quốc kéo dài từ Hà-nam, qua Hồ-bắc,
Hồ-nam xuống đến Quảng-tây, có thể
lẫn lộn biên cương giữa các nước
Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc
Tề luôn thay đổi. Họ được các
thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều
mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ
được tiến cử vào các triều. Nhưng
thời gian vui hưởng này không kéo dài được
lâu v́ đến khi Lư Uyên thiết lập nhà
Đường (T'ang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui:
589 - 618), th́ bắt đầu đánh dẹp và thu
hồi đất đai đă mất vào tay các
rợ, trong đó có Hmong. Đổi lại, nhà
Đường cho các vùng ấy được
tự trị và phải đóng thuế cho triều
đ́nh. Chấm
dứt một thời oanh liệt Đến năm 907, nước Tầu
lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ
đại (Lương, Đường, Tấn, Hán,
Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố
đánh lấy vương quốc Hmong. Đến khi
nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung:
960-1279), lại cử binh giành lại các đất vùng
Hồ-bắc và Hồ-nam. Trong các cuộc giao tranh toàn
bộ vương triều của Hmong bị tiêu
diệt, và đây cũng là bước ngoặc
lịch sử chấm dứt thời vàng son của
bộ tộc Miêu. Truyền kỳ c̣n
được kể lại giữa người Miêu
về những ngày bi thảm đó như sau: Hang Tchu
là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đă già
và mệt mỏi v́ chiến trận, giàn quân kháng
cự quân Tống. Con gái duy nhất của Hang
Tchu là Ngao Shing cũng cùng xông pha trận tuyến
với cha. Nàng không những xinh đẹp mà c̣n
học được phép lạ với lá cờ
thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến
phá tan quân Tống. Tướng nhà
Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu ḥa với điều
kiện là Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho
họ. Triều thần người Miêu họp bàn và
sợ rằng người Hoa bày quỉ kế, nên
trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá
cờ cho vua Tống, nhưng khi thử với lửa
th́ biết là không phải lá cờ thật. Tỷ
Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử h́nh
nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công
chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ
giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho
thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận nhưng
Ngao Shing th́ nhất định cự tuyệt,
liền bị vua cha bạc đăi đến chết.
Nàng qua đời th́ cờ phép cũng trở nên vô
hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu
diệt được triều thần Hang Tchu. Người Hmong
lại phải chạy trốn vào vùng Quế-châu và
Tứ-xuyên; số khác lại tẩu táng xuống
Quảng-đông và Quảng-tây, trở thành những
bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người
Hoa lại c̣n chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và
buộc họ phải ăn mặc y phục có màu khác
nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu
đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi nhóm
lại cử lên một tộc trưởng, một
chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy
vậy họ vẫn luôn t́m cách liên kết với
nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là Hoa
tộc. Có một bài phóng
sự trong nước mới đây mô tả về
trang phục của phụ nữ Mông một cách khá
thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn
như sau: "Họ cư trú
trên các thung lũng của miền núi phía Bắc
(Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi
dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt
gặp những bản làng của người Mông,
bốn mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh những
bản làng là những vạt rừng thưa,
những trảng cỏ, những dăy đồi
trọc trơ sỏi đá, với những con
đường ṃn vừa đủ cho người
địu gùi, cho ngựa thồ nằm vắt ḿnh
qua các triền núi cheo leo. Trở lại câu
chuyện gốc gác người Hmong ở Tầu th́
sau khi bị phân tán vào các vùng cao nguyên và rừng
rậm, người Miêu tạm sống yên ổn
bởi nhà Tống bận rộn trong việc chấn
hưng nền kinh tế và giao thương của
Trung quốc mà xao lăng quân sự đưa đến
việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước
Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên-ti
(Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia)
ở vùng Giang bắc, Ninh-hạ và Cam-túc. Từ đó
nước Tầu lại can qua giữa 3 nước.
Những năm
về sau ở nước Liêu, Măn-tộc bắt
đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước
Đại-Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy-tông
liên kết với Đại-Kim để diệt Liêu,
rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải
triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông-cổ
phát triển hùng mạnh với Thành-cát-tư-hản
(Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước
Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á
và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương
lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm
1224, chọn Yên-kinh (Yenkin: về sau trở thành
Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng là Nguyên-thái-tổ. Khoảng từ năm
1267 đến 1279 Hốt-tất-liệt, diệt
được nhà Tống vừa khi Mông-kha mất,
liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên-thế-tổ,
lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279 - 1368) ở Trung- quốc.
Vua Tống Cung-đế và các đại thần
phải nhảy xuống biển tự vận. Đến năm
1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là
một nhà sư nổi lên đánh đuổi
được quân Mông-cổ lập nên nhà Minh (Ming:
1368 - 1644). Nhà Minh lại nhắm vào Miến-điện
như là cửa ngơ buôn bán với vùng Đông-nam Á,
nên quyết b́nh định vùng Vân-nam. Trước tiên
họ đặt ra hệ-thống thổ-ty (Tu Si
system) và ưu đăi nhóm người Lô-lô mà đàn
áp người Miêu đẫn đến việc người
Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan quân
nhà Minh đă thiết lập hơn 2 ngàn đồn
biên pḥng tại Quế-châu, Tứ-xuyên, để
từ đó liên tục mở các cuộc hành quân
đánh phá làng mạc và căn cứ địa
của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40
ngàn người. Từ đó cho
đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm
nào mà người Miêu không vùng lên đ̣i độc
lập, và tung hoành một cơi từ Quế-châu đến
tận Hồ-nam. Để ngăn chận họ, nhà
Minh cho xây một trường thành nhỏ giống
Vạn-lư trường-thành gọi là Miêu Thành cao 8
bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên
giới Hồ-nam và Quế-châu. Số phận vẫn c̣n bi
đát Năm 1616, người Măn-châu là
hậu duệ của nước Kim lại bắt
đầu cường thịnh, Nỗ-nhỉ-cáp-xích
quật khởi ở miền Liêu-ninh xưng là Thái-tổ
và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt
đô ở Thẩm-dương chống lại nhà
Minh. Năm 1636, Hoàng-thái-cực kế vị vua cha,
đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh
phục Triều-tiên, Nội Mông-cổ và miền
Đông-bắc của Minh triều và đến năm
1644 th́ Thuận-trị dứt được nhà Minh,
thiết lập Thanh triều ở Trung-quốc (Ch'ing
hay Qing: 1644 - 1911). Tàn quân nhà Minh kéo
nhau tị nạn sang Nhật-bản và Việt-nam.
Một số khác do Hoàng Minh và Mă Báo bỏ
Quảng-tây trốn vào Quế-châu cốt t́m
đường sang Vân-nam. Để đền ơn
cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho
họ toàn bộ vũ khí và c̣n bày cho cách chế
tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu
vẫn c̣n sử dụng. Sự kiện này
đă làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân
vương Oa-đài (Ortai), thống đốc
Quế-châu mở chiến dịch càn quét, sai tướng
Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào Quí-dương
(Guiyang) là thủ phủ rồi vào Liễu-b́nh
(Lip'ing). Quân Hmong đông đến hơn 10 ngàn người
trang bị đầy đủ vũ khí với súng
hỏa mai và đại bác nghênh chiến. Tổn
thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân Thanh
thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí
của người Miêu đúc thành một trụ tượng
kỷ niệm chiến thắng bằng sắt cao 11
bộ dựng ở một ḥn đảo trên sông Liên,
cửa vào Quí-dương. Để trả thù,
quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4
thị trấn ven sông. Nhà Thanh phải đem viện
binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công
vào cứ điểm của người Hmong từ ba
mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng
đều bị giết sạch. Điều này làm
cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên
kết dựng những hỏa đài báo hiệu
sự tiến công của quân Thanh trên các sườn
núi. Di tích của những hỏa đài này hiện
vẩn c̣n. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn
thề kháng cự đến chết. Họ c̣n
giết hết vợ con để khỏi phải
bận tâm luyến ái. Họ phản công điên
cuồng chẹn các đèo vào núi, làm cho cả
Bắc-kinh lo lắng. Dương Quang Sĩ
được cử thay Oa-đài ra sức giải
tỏa hết các chốt và cắt đường
tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ
đói khát phải mở đường máu. Hai mươi
ngàn quân Miêu bị giết trên chiến trường.
Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và
một nửa số bị sát hại sau đó.
Tổng số súng dài tịch thu lên đến
gần 50 ngàn khẩu. Dương Quang Sĩ c̣n
khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng
mạc của người Hmong, tước đoạt
đất đai của họ. Dân Miêu lại
phải trốn chạy vào các vùng lân cận để
thoát thân, một số vượt biên giới vào
miền bắc Việt-nam, định cư ở
Đông Quan và núi Hoàng Su-Phi. Tuy vậy số người
Hmong c̣n ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn
khuất phục, thỉnh thoảng vẫn t́m cách
nổi dậy. Đến năm
1740, đời Ung-chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp
bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan
trực tiếp cai trị vùng Tứ-xuyên, Quế-châu,
Vân-nam, Quảng-tây cốt để đồng hóa
họ và khai thác các quặng than, bạc và đồng
cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng
thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu
điêu đứng, khiến họ nổi dậy không
ngừng. Năm 1796 người
Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới
sự lănh đạo của 2 tù trưởng là
Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và
Shih Liu-teng) ở biên giới Quế-châu, Hồ-nam
để khủng bố nông dân người Hoa
vốn do Thanh triều di dân đến dưới
mỹ danh là "khách trú" và được quân
đội bảo vệ. Bắc-kinh phải vội tăng
viện để dập tắt cuộc bạo
loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm
mới xong. Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành
từ lâu đă bị bỏ hoang và tăng cường
thêm quân bố pḥng để kiểm soát chặt
chẽ những hoạt động của người
Hmong và quyết tâm đồng hóa họ. Người
Thanh c̣n bắt trẻ con Miêu phải theo học
chữ Hán và Hoa tộc được quyền cưới
phụ nữ Miêu. Nhiều nhóm Miêu không
chịu đựng được sự áp bức
đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở
những tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo
xuống vùng nam của Hồ-nam và bắc của
Quảng-tây, Miêu trắng dời về phía bắc vào
vùng Tứ-xuyên, và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng
Vân-nam. Lúc bấy giờ
ở vùng Vân-nam, vốn xưa là nước Đại
Lư đă có giống người Hản (Haw) cư
ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có
liên hệ với người Panthay ở Miến-điện,
chuyên về buôn bán thương măi. Họ thường
bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ thị
cho nên cũng đă nổi dậy nhiều lần
đ̣i độc lập, như vào các năm 1818, 1826
và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn
bạo. Nhưng từ năm 1855 cho đến 1873
người Hản vùng dậy và làm chủ được
toàn vùng dưới sự lănh đạo của
Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) v́ nhà Thanh c̣n bận
đương đầu với loạn Thái-b́nh
(Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu tuyên bố
Vân-nam là một nước Hồi giáo độc
lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay quay lại
tái chiếm. Người Hmong cùng tham gia với người
Hản nổi dậy nên cũng chịu chung số
phận bị tàn sát dă man. Người ta ước
tính có đến cả triệu người Vân-nam
thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế
là người Hản và người Miêu lại kéo
nhau tràn vào Miến-điện và Đông dương
lánh nạn. Nhóm đến Việt-nam lần này đông
khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng Văn
ở gần biên giới. Miêu
tộc vào Việt Nam Trước đấy từ năm 1815
đến 1818 đă có người Miêu chạy thoát
đến cư ngụ ở Đồng Văn. Sau
đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc
của ngọn núi Fan Si Pan, rồi bỗng dưng vài
năm sau không ai t́m thấy dấu vết của
họ đâu nữa, làng mạc bị bỏ hoang. Câu chuyện
thật ra rất ly kỳ có liên quan đến
một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn
Mă. Nhân một chuyến ghé qua Fan Si Pan để thu
mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về
một vùng đất hoang mầu mỡ ở dăy núi
Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra th́
y chỉ muốn thủ lợi riêng bởi v́ người
Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến
để bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp
y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên
phong được "tiểu vương"
(kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu, t́m đến
vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là ph́
nhiêu, thế là trong ṿng vài năm, họ di dân đến
đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong
Het và để tri ân kẻ chỉ đường,
họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mă. Họ sống yên
ổn ở vùng đất mới được vài
năm th́ Lo See Pa bị bọn cướp người
Hoa giết chết trong một trận tấn công vào
làng không thành cốt để đoạt nha
phiến. Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn
thuộc gịng họ Lo. Truyền thống này vẫn
được duy tŕ vài thập niên măi đến
khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm
họ Lư và nhóm họ Moua xuất hiện. Nhóm người Miêu
họ Lư, lănh đạo bởi Lư Nghia Vue vốn
ở nước Đại Lư xưa kia bị quân
Thanh truy kích trong vụ nổi dậy cùng với người
Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm
họ Moua cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ
nhiên là họ không chịu thần phục gịng
họ Lo, và vẫn giữ nguyên tiểu vương
của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được
tôn kính hơn cả. Lúc bấy giờ t́nh
h́nh nước ta thật điêu đứng với
giặc ngoại xâm, trong nam th́ đă bị quân
Pháp chiếm, mà chúng c̣n đang hăm he đặt
nền bảo hộ và đánh Bắc kỳ. Ngoài
bắc th́ đám giặc khách uy hiếp làm quan quân
ta chống đỡ không nổi. Riêng giặc ở
thượng du đă có lúc tràn xuống tận Yên Bái
vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức
phong cho Nguyễn Tri Phương làm Tây-bắc
tổng-thống quân-vụ đại-thần đốc
thúc việc tảo trừ, năm 1863 quân ta tái
chiếm thành Tuyên-Quang. Miêu tộc rút lui về
Quảng Bá. Tại núi Phước
ở Quảng Bá lại xuất hiện một
thủ lănh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào
lộn và phi thân rất giỏi, tự xưng là tân
vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu
số khác trong vùng như Mán và Nùng cũng thần
phục y, gây một thế lực rất lớn.
Chỉ trừ giống Thổ là chống đối.
Y xây lâu đài, dựng triều đ́nh, lập quân
đội, làm vũ khí với súng hỏa mai. Xiong
liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng
cư dân lớn hơn khác của người Thổ
gần Quảng Bá. Chiến thắng này làm tăng
thêm uy danh của Xiong. Trong ṿng 12 năm sau, y giao
việc hành quân cướp phá các vùng lân cận cho
thuộc hạ, c̣n y th́ chỉ vui hưởng tại
cung điện mà thôi. Sau khi Xiong chết v́
ám sát th́ vương quốc của y cũng tan ră,
kẻ kế vị là Cha Shue, một tù trưởng
ở dăy núi Hoàng Su Phi. Vùng y tự trị nằm
vắt qua hai biên giới Việt-Hoa, và vào năm 1894
y c̣n được Thanh triều phong cho chức
thổ-ty. Người Pháp lúc bấy giờ đă
chiếm Việt-nam làm thuộc địa cũng
để yên cho Cha Shue, v́ họ cần người
Miêu cung cấp gỗ độc quyền cho họ.
Về sau Cha Shue c̣n gây thế lực bằng cánh
đánh thuế trên số gỗ bán cho người Pháp.
Uy tín của Cha Shue c̣n được truyền
tụng ở Nong Het. Người
Hmong ở Lào và thuốc phiện Sau khi định cư ở Lào, người
Hmong lại phải ác chiến với người
Khạ ở vùng Xiêng Khoảng vào nửa cuối
thế kỷ thứ 19. Người Khạ hay c̣n
gọi là người Kh'mu vốn là cư dân lâu
đời tại Lào, có thể từ thế kỷ
thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của nước
Phù-nam (Funan), sau lại lệ thuộc vương
quốc Chân-lạp (Chenla), và rồi Khmer. Vào thế kỷ 13
và 14, khi nước Nam-chiếu bị người Mông-cổ
diệt, bộ tộc Lào và Tày di dân qua đất
hạ Lào trở nên đa số và thiết lập vương
quốc độc lập Luang Prabang. Từ đó người
Khạ bị người Lào khinh miệt và bị
bạc đăi tàn tệ, phải sống ở vùng thượng
du. Khi người Hmong
định cư ở Xieng Khoảng, người
Khạ bắt họ phải cống nạp nông
sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người
Hmong c̣n sống sung túc bằng nghề trồng
trọt nha phiến người Khạ lại đ̣i
hỏi thêm thuốc phiện. Điều này đă
đưa đến chiến tranh và người
Khạ bị thua trận phải kéo chạy về vùng
núi gần Luang Prabang. Thị trường
nha phiến trên thế giới khởi phát từ Á-châu
bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu
thế kỷ 19 đă giúp cho người Hmong đóng
một vai tṛ quan trọng trong việc sản xuất
chất thô. Bọn đế quốc lại dùng
số lợi nhuận khổng lồ để tái tài
trợ cho những âm mưu bành trướng thế
lực và cai trị thuộc địa. Cuối
thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông qua đạo
luật ngăn cấm chính phủ tham gia th́ Pháp độc
quyền thị trường ma túy. Chính v́ nguồn
lợi này mà Pháp đă thôn tính luôn cả Cam Bốt
và Lào để có đường thông thương
với thượng du Vân-nam. Ngay cả sau khi Pháp
bị đánh bật ra khỏi Đông Dương vào
1954, ảnh hưởng của họ trên thị trường
ma túy vẫn không giảm, và chính tập đoàn buôn
lậu đă mua chuộc và làm thối nát chính
quyền miền Nam để bọn họ dễ dàng
làm ăn, và chắc chắn là bọn họ cũng lũng
đoạn chế độ hiện nay tại
Việt-nam. Cuối năm 1960, người ta ước
tính là nông dân người Hmong ở Lào đă cung
cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị trường
ma túy của thế giới. Khi người Pháp
đô hộ Lào từ năm 1893, họ dùng người
Lào và Tày cai trị dân miền núi cho nên đă
xảy ra khá nhiều chuyện bóc lột hà hiếp dân
Miêu với thuế khóa nặng nề trên nông sản
nha phiến. Năm 1896 người Pháp lại tăng
thuế và đ̣i trả một phần bằng
thuốc phiện, làm cho Miêu tộc nổi loạn,
họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của người
Tầu là Pháp quỉ (Fa kouie). Lần đầu
họ thành công khi tấn công đồn lính tây
ở Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại
ở lần thứ hai khi đánh vào tiểu khu Xieng
Khoảng. V́ vậy tiểu vương họ Lo
bị truất phế và được thay vào
bởi họ Moua, tên Tong Ger. Tân tiểu vương
liền xin ḥa đàm với nhà cầm quyền
thuộc địa tại Bản Ban để
được giảm bớt thuế, và sự giao
thiệp giữa Pháp và người Hmong bớt căng
thẳng. Quân
Cờ Đen và Miêu tộc Năm 1870, dư đảng của
giặc Thái-b́nh ở Trung-quốc sau khi tràn vào
Việt-nam, chia làm hai phe Cờ vàng ở Tuyên-quang và
Cờ đen ở Lào-kay chống chọi nhau ở
mạn thượng du. Đến năm 1875 giặc
cờ vàng bị dẹp tan. C̣n Lưu hữu Phúc
đầu đảng Cờ đen xin thần phục
triều đ́nh nhà Nguyễn rất sớm. Vua
Tự-Đức phong cho Phúc làm đề đốc,
và khi quân Pháp dưới quyền của Đại
úy Hải quân Francis Garnier đánh thành Hà-nội,
Garnier đă bị quân của Lưu hữu Phúc
phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm
1873. Âm mưu của Pháp
muốn chiếm Bắc-kỳ vẫn không phai, nên
đầu năm 1882 Đại-tá Hải-quân Henri
Riviere được lệnh đem tàu chiến ra
đánh chiếm thành Hà-nội lần thứ hai,
thừa thắng hạ luôn thành Nam-định vào tháng
ba, năm 1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng
5 th́ Riviere lại bị quân cờ đen phục
ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen
c̣n bêu đầu của Riviere từ làng này qua làng
khác. Nhiều cánh quân
cờ đen khác thường đem quân sang Lào, đánh
cướp nha phiến của người Hmong để
mua lương thực và vũ khí, và bắt đi
đàn bà con gái cho nên Miêu tộc phải nhờ người
Pháp bảo vệ. Tháng 11, 1914 quân cờ đen
tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau
đấy tiến đánh Phong Saly và đă đụng
độ đến mấy tháng với lực lượng
Hmong và Pháp, trước khi bị bại phải tháo
chạy trở về Trung-quốc. Một thủ lănh
Miêu ở Hà Giang, Việt-nam tên Yang Yilong được
tin bèn xin nhà cầm quyền địa phương Pháp
trang bị vũ khí để mở những trận
du kích đuổi quân cờ đen. Từ đó
mở đầu cuộc hợp tác quân sự
giữa người Miêu và Pháp, và kéo dài cho măi
về sau. Để trả thù quân cờ đen đốt
phá các buôn làng của người Miêu mà họ đi
qua. Cuộc hợp tác
giữa người Miêu và Pháp cũng chẳng
mấy êm trôi khi chính quyền thuộc địa
lại tăng thuế vào năm 1914, gánh nặng
bất công đè trĩu trên vai người Hmong.
Đă vậy thực dân Pháp lại quyết định
mở những trục lộ giao thông giữa
Việt-nam và Lào chạy qua Xiêng Khoảng và Phong Saly,
và bắt dân Hmong đi làm phu, làm cho việc mùa màng
bị đ́nh trệ càng thiếu tiền đóng
thuế. Nhiều làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.
Năm 1917, phụ tá
của kiatong Moua Tong già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng
bóc lột phu phen người Miêu đă đưa
đến sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào
quân địa phương của Pháp để đàn
áp. Lănh
tụ Chay Pa Trong khi đó
ở buôn làng người Miêu trong vùng Điện-biên-phủ
xuất hiện một thủ lănh tên là Chay Pa,
gốc gác từ Vân-nam, biết nói và viết ba
thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật,
cầm đầu người Miêu chống lại ngươi
Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người
Miêu không đóng thuế. Quân Pháp được
gởi từ Sơn La đến để truy lùng
Chay Pa, nhưng thường bị tập kích. Nhưng
đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút
quân sang Xieng Khoảng và hô hào người Hmong đứng
lên chống Pháp để lập một vương
quốc độc lập với kinh đô là Điện-biên-phủ.
Chay Pa được sự hưởng ứng của
người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh
phá các căn cứ của lính thuộc địa.
Họ c̣n ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng
hợp tác với Pháp chặt chẻ hơn. Nhà
cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính
qui từ Việt-nam sang, và áp dụng kế sách
ấp chiến lược cô lập quân nổi
dậy. Chiến lược này lần hồi thành công
và khiến loạn quân tan ră, nhưng quân Pháp vẫn
treo giải cho đầu của Chay Pa. Y rút vào
rừng sâu sống với vài bộ hạ thân tín nhưng
lại bị theo dơi và bị ám sát vào tháng 11, năm
1922. Lănh tụ Lư Foung Touby Sau
vụ nổi dậy bất thành của Trịnh
Chiếu ở Vân-nam, Tứ-xuyên, người Hản
và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có
một người họ Lư đến được
Nong Het năm 1865. Y lập gia đ́nh và có 3 con; trong
số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái
của Lo Bliayao tên May. Hai người có 2 đứa
con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm
vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều
này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lư trở nên
căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ
quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối
nhà cầm quyền liền chia cho họ Lư cai quản
Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm
1935 Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế
chức kiatong. Cùng năm này người Hmong lần đầu theo
học trường tiểu học của Pháp mở
tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lư và Moua
đều cho con đi học để hy vọng tranh
dành ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian,
Touby Lư đỗ xong trung học và theo học trường
Hành chánh mở tại Vientiane. Lo Tou Song ít học
lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ
rất phật ḷng quan cai trị người Pháp. Nhưng
Lư Foung lại khôn khéo đem tiền của ḿnh đền
bù giùm nên được ḷng tin của quan bảo
hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai
tṛ chính trị xán lạn của đứa con trai Lư
Touby đă được dọn sẳn. Đến
khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức
kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay
thế. Nhưng người em của Tou Song là Faydang
rất lấy làm bất b́nh sinh oán hận Touby,
khiếu nại đến hoàng thân Phetsarath ở
Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn
át. Sau khi ra trường
Hành chánh, với chỗ đứng vững chăi trong
guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia
tăng. Y đă dùng sản lượng nha phiến do
người Hmong trồng trọt để làm áp
lực với người Pháp, v́ Pháp đang muốn
chiếm độc quyền thị trường
thế giới lúc bấy giờ. Y c̣n thuyết
phục người Pháp nâng cao vai tṛ của người
Hmong trong xă hội Lào. Đến năm
1949 Trung-quốc hoàn toàn do đảng Cộng sản
thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến
ở Vân-nam và biên giới Miến điện vốn
nằm dưới sự cai quản của tàn dư
quân đội Quốc dân đảng bị cắt
đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản
lại quá đắt, cho nên Pháp tận dụng
nguồn nha phiến của người Hmong để
chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên
hiệp quốc kư công hàm chấm dứt việc các
chính phủ tham gia buôn bán nha phiến, dẫn đến
thị trường chợ đen. Sản lượng
càng gia tăng và lợi nhuận càng cần thiết
cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương
v́ chiến tranh leo thang. Hợp
tác với Pháp chống Nhật Khi nước Pháp bị Đức
Quốc Xă cai trị vào năm 1940, quân Nhật
liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn
quyền Decoux được Nhật để yên
tiếp tục phụ trách hành chánh, đă ra lệnh
quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8 năm
1944, khi Paris được giải phóng th́ cuộc
diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành
kế hoạch phản công ở Đông Dương.
Tháng 11, quân biệt động Pháp được
thả dù xuống Cánh đồng Chum để
lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại
dội bom các hải cảng ở Việt-nam. Tháng 3, 1945 Nhật
liền đảo chánh và ra lệnh tước khí
giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy
vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy
dù từ Ấn-độ vào thượng Lào với
sự bao che của người Hmong. Khi Nhật
biết có sự dính líu của người Hmong vào
kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền
bắt Lư Touby và định đem xử bắn, nhưng
nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên
được tha. Chẳng sờn ḷng, Touby liền liên
lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân
biệt động Pháp để hợp tác chống
Nhật. Việc này làm cho quân
Nhật điên cuồng, họ liên tục tàn phá các
bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác
với Pháp, và vô t́nh làm cho Miêu tộc càng ủng
hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người
Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái
lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác với người
Nhật truy diệt lính Pháp. Tháng 3, 1945 người
Nhật bắt giam tất cả viên chức chính
quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong
Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân
Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự
do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng
10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay
tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào
tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước
hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla
cầu cứu với Việt minh, cùng với nhóm Hmong
của Faydang để chống Pháp, thế là bộ
đội Việt minh được chính thức
mời vào lănh thổ Lào cùng với một khối cư
dân Việt. Việt minh lại c̣n tuyên bố Xieng
Khoảng là một căn cứ của Việt-nam. Tháng
11, lực lượng biệt động Pháp
phối hợp với dân quân Hmong của Touby đánh
bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp
kết án Faydang là cộng sản, và đến mùa hè
năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào
(Cộng đảng Lào). Lúc bấy giờ
Hoa Kỳ, là đồng minh với Liên Xô chống phe
trục, lại âm thàm liên lạc và trang bị vũ
khí cho du kích quân Việt minh để quấy phá quân
Nhật ở Đông dương làm cho thế lực
của Việt minh gia tăng thêm. Đến khi
Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945,
Hồ-chí-Minh cướp thời cơ dành lấy chính
quyền ở Hà-nội, thành lập chánh phủ liên
hiệp và tuyên bố Việt-nam độc lập.
Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại
không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho
Việt minh. Pháp không chịu công
nhận Việt-nam độc lập, nhưng lại
mời Hồ chí Minh sang Pháp để thương
thảo điều kiện để Pháp ở
lại Đông dương, và dời chuyện trao
trả độc lập đến 1947 sau khi trưng
cầu ư dân. Đồng thời Pháp lại hổ
trợ cho một nội các chống Việt minh
được dựng lên ở Sàig̣n, và c̣n có ư
định lập một nước Nam Kỳ độc
lập. Nhưng cuộc sống ḥa b́nh gượng
gạo với Việt minh không kéo dài được
lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc đụng độ vơ
trang Việt Pháp ở Hải Pḥng dẫn đến
cuộc chiến tranh toàn Đông dương. Năm 1946, Pháp
thuận cho Lào được độc lập trong
Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân
biểu quốc hội. Một người trong gia
đ́nh Touby đắc cử vùng Xiang Khoảng, đó
là Lư Foung Toulia. Họ tranh đấu để
được đối xử b́nh đẳng như
công dân Lào, và có đại diện trong hội đồng
tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha
phiến Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng
Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng
của người Hmong trong chính quyền Lào. Việt minh cũng
chú ư đến nguồn lợi nha phiến để
mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng
thuốc phiện của một tỉnh có thể trang
bị vũ khí cho một sư đoàn. Người
ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá
của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400
triệu đồng bạc Đông dương,
gần bằng với trị giá tổng số
gạo xuất cảng của toàn Đông dương
cùng năm. V́ thế Pháp đă bằng mọi giá
phải kiểm soát được nguồn tài nguyên
này, năm 1948, một nghị định của Cao
ủy Đông dương cho phép người Hmong
hầu như độc quyền trồng nha phiến
ở Lào. Cùng năm, Touby
được đưa về Sàig̣n để
Phủ cao ủy giao công tác thành lập một
lực lượng biệt động địa phương
chống Việt minh. Từ năm 1951 cho đến
1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho
thi hành "chiến dịch X" để tài
trợ trang bị các lực lượng người
thiểu số. Phi cơ quân sự được
lệnh chở thuốc phiện cuả người
Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sàig̣n, giao cho
Lê văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy
giờ là Giám đốc Cảnh sát phân phối. Qua
một thời gian ngắn đó, Touby đă nhận
được khoảng 4 triệu đô-la cho lực
lượng người Hmong. G.C.M.A. Cuối năm 1950, quân Pháp không c̣n
kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau
những trận đánh đẫm máu với
Việt-minh. Việt-minh quyết làm chủ mạn
bắc là cốt mở rộng đường bộ
để dễ dàng tiếp nhận viện trợ vũ
khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước
đây chỉ nhờ dân công chuyển qua đường
rừng núi. Việt-minh
mở những trận phản công lại trùng
với chiến cuộc Cao-ly, nên trước những
đe dọa phối hợp của Cộng sản
quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra
lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông
dương trong ṿng 4 năm lên đến 3 tỷ
đô-la để tiếp tục ngăn chận
Việt cộng. Đầu năm
1950, đại tá Grall được Pháp bổ
nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động
bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes
Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ
quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang
bị cho nhiều toán du kích người sắc
tộc thiểu số Đông dương, đặc
biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần
Việt nam và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách
khu Lào. GCMA lại được điều khiển
bởi Cơ quan T́nh báo và Phản gián của Pháp
ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là
qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như
vậy!). Toán du kích tân tuyển được
đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để
huấn luyện. Touby cũng đă được
huấn luyện tại đây để về lănh
đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly,
Xieng Khoảng và Sầm Nứa. Trinquiner
quyết gấp rút thành lập một lực lượng
du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn
khu của Việt-minh tại Sip Song Chau Thai, phía tây
Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y
chọn Lo Quang Chao, tù trưởng Hmong ở Lào Kay
sức vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la.
Đến tháng 4 năm 1952, GCMA ở Hà nội
đă thả dù cho Lo 2,500 cây súng trường để
đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi.
Trinquiner hài ḷng với những chiến công của
Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân
viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội
tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn
cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng biên giới
Việt-Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc
bị giết chết vào tháng 8 năm 1953, và nhóm du lích
của y tan ră Tháng 4 năm 1953,
Việt minh và Pathet Lào phối hợp chia thành hai
gọng ḱm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang,
Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội
xây dựng phi trường dă chiến tại Cánh
đồng Chum để tăng phái quân cơ động.
Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm
Hmong thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá
trẻ Vang Pao. Pháp đă đẩy lui được
các cuộc tấn công của địch tại Lào,
và Việt minh rút quân về lại Việt nam để
tập trung vào chiến dịch Điện biên
phủ. Vang
Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam Pháp bị đại bại tại
Điện biên phủ vào tháng 5 năm 1954, đưa
đến hiệp định Geneva. Pháp rút lui
dần khỏi địa bàn Đông dương.
Việt nam bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ
tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower cương
quyết chận đứng sự lan tràn cộng
sản ở Đông Nam Á nên gia tăng viện
trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước
Thái lan, Nam Việt và Lào. Hoạt động của
CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để
khuynh đảo các chính quyền địa phương,
và đă đi vào con đường mà GCMA đă
vẽ ra. Quân Bắc Việt
chỉ rút về một số, nhưng phần
lớn ở lại Lào để gây dựng quân
đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến
việc tranh dành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm
1957, Lào cộng được tham gia vào chính phủ
liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài
được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh
và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân
độ Bắc Việt liền chiếm hết
những tỉnh của Lào chạy dọc theo
đường ṃn Hồ-chí-Minh, và yểm trợ cho
quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ
hậu thuẩn phe Hoàng gia. Cuối năm 1960,
đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia,
tự cho ḿnh là trung lập, làm đảo chánh
với kỳ vọng chấm dứt được
cuộc nội chiến, đă ra lệnh cho các
lực lượng ngoại quốc phải rút ra
khỏi lănh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh
hữu được CIA ủng hộ lật đổ
Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với
Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh. Dù phe hữu nắm
quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại
ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm
1962, một chính phủ liên hiệp khác được
thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana
Phouma lănh đạo. Phe cộng không chịu đựng
được sự khuynh đảo trắng trợn
của Hoa Kỳ vào chính trường Lào, bất
lợi cho họ nên đă rút vào rừng tiến hành
vũ trang với sự tiếp tay của quân Bắc
Việt. Cuộc chiến giằng co măi làm Hoa kỳ
sốt ruột, quyết định dội bom ồ
ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho
đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng được
cán cân. Đến cuối năm
1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và
cả Đông dương. Thủ tướng Souvana
Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để
thành lập chính phủ liên hiệp trong thế
yếu vào ngày 21 tháng 2 năm 1973. Phe Pathet Lào t́m
mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh
lại bộc phát từ 1974 cho đến 1975. Tháng 3
năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các
cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm
của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến
thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8. Tháng 12,
nước Cộng ḥa Dân chủ Nhân dân Lào
được thành lập do Souvanouvong làm chủ
tịch, và bải bơ chế độ quân chủ
ở Lào. Trong cuộc
chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là
người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu
tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đă
bị hy sinh. Số phận của họ đều
nằm trong tay một người phụ tá của Ly
Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy
cho lính biệt động Tây, rồi lên chức
đội c̣ và theo thời gian với chiến
cuộc gia tăng đă leo lên đến cấp tướng
trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao. Suy
Ngẫm Đọc lịch sử nổi trôi
của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm,
đă từng một thời chen vai thích cánh với các
sắc dân khác ở Trung quốc. Nhưng đă không
may thất thổ rồi mai một trước tham
vọng bành trướng của Hoa tộc mà trở nên
một sắc tộc miền núi, sống đậu vào
các nước khác ở Đông Nam Á. Luật đào
thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lư. Mạnh
được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước
lớn luôn t́m cách thôn tính nước bé. Một khi
sức tự cường của một dân tộc không
c̣n th́ sự tồn vong chắc là chóng mai một.
T́m hiểu
lịch sử để chúng ta phải thấm sâu
ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng
Lạc, qua bao đời đă không chịu khuất
phục trước mọi kẻ thù của dân
tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh
vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo
vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để
xâu xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam
khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua
bao đời đă kiên cường liên tục đánh
đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm
lần để cho con cháu vui hưởng độc
lập. Hậu duệ có quên được điều
đó chăng? Trần Trúc-Lâm Tài
liệu tham khảo 1. Cultural Atlas of China, Caroline Blunden, Mark Elvin - Facts on File,
Inc. N.Y. 1983. |