Một
vài nét về văn hóa Việt Nam Ts.
Lê Thiện Phúc |
Mặc
dù "văn hóa" là ư niệm rất trừu tượng
mặc dù hàng ngày chúng ta vẫn thường đề
cặp tới trong sinh hoạt đời sống cũng
như trong các lănh vực văn học nghệ
thuật. Sau
năm 1975, ở Việt Nam không hiếm xảy ra
những lạm dụng cụm từ "văn hóa"
trong nhiều t́nh huống chẳng hạn như
"gia đ́nh văn hóa" hay "lời nói
thiếu văn hóa", nhưng ít ai để ư
tới cái ư nghĩa của "văn hóa" là ǵ
cả! Văn hóa, theo định nghĩa
của một từ ngữ tương đương
trong tiếng Anh "culture" là một tổng hợp đặc
tính của một nhóm người nào đó trong xă
hội. Theo
một nghiên cứu khoa học, văn hóa được ăn sâu trong mỗi cá nhân (Mey
2004: 32); nhưng
nó thường được bàn thảo như
là thực thể dựa theo sự hiểu
biết chung của một
xă hội, quốc gia hay dân tộc, chẳng hạn như
văn hóa Trung Quốc, văn
hóa Nhật Bản hay văn
hóa Việt Nam. Nói khác đi, khi nói đến văn hóa
Việt Thí dụ, trong
một nghiên cứu về ngôn ngữ xă hội, văn hóa Việt
Nam được phân biệt xa hơn đó là nền văn hóa
dựa trên nền tảng Nho giáo và văn hóa theo định hướng chủ nghĩa
Cộng sản (Nguyen
2008: 275). Nếu văn hóa Việt Nam được áp dụng hay định nghĩa
dựa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản th́
một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt
Nam là lá
cờ đỏ ngôi sao vàng, là "nhân dân làm
chủ, nhà nước quản lư và đảng lănh
đạo". Liệu cộng đồng người
Việt tỵ nạn hải ngoại có chấp
nhận những nét văn hóa Việt Như
vậy cái ư nghĩa đích thực của văn hóa
Việt Muốn
quán triệt cái ư nghĩa đích thực của văn
hóa Việt Nam là ǵ th́ ta nên tách rời mọi ư
niệm hay thành kiến chính trị để quay
về nguồn gốc văn hóa Việt Nam dựa trên
tinh thần nhân bản tự nhiên chứ không
phải bị áp chế bởi bất cứ h́nh
thức chính trị nào. Lẽ tất nhiên muốn
được độc lập trong tư duy hay cách
suy nghĩ của ḿnh th́ người suy nghĩ
phải được sống trong một môi trường
tự do, nơi đó nhân quyền được
triệt để tôn trọng. Dù sao,
văn hóa Việt Do
đó , khi bàn về văn hóa Việt Nhân
là cách đối nhân xử thế, là tấm ḷng yêu
thương con người, yêu quê hương đất
nước, là thái độ biết gắn cái riêng
của ḿnh vào cái chung của xă hội, với
sự ràng buộc giữa người và người,
bằng những mối liên quan gắn kết với
nhau. Nó c̣n được gọi
chung là luân thường đạo lư: Vua – tôi, cha
– con, vợ - chồng, anh – em và bằng hữu. Lễ
là nghi thức thể hiện qua cách hành xử,
ứng xử hợp ḷng người trong cuộc
sống; qua đó, xă hội hay người khác đánh
giá sự hiểu biết của một cá nhân.
Chữ lễ v́ vậy là lễ phép, đức độ
kính trên nhường dưới trong đạo vua –
tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em. Nó
c̣n thể hiện qua những h́nh thức lễ nghi
theo các truyền thống để rồi trở thành
một nét văn hóa của dân tộc. Nghĩa
thể hiện vai tṛ, trách nhiệm của con người
với con người, giữa người với
đời, với xă hội. Cũng chính v́ vậy mà
ở đời trong thời nào cũng cần có nghĩa,
hay có trách nhiệm với quê hương đất nước,
với gia đ́nh ḍng họ, ông bà cha mẹ, vợ
con, anh em bằng hữu. Biết ơn khi ḿnh đă
nhận được những điều may mắn
trong cuộc sống. Nhiều người biết quan
tâm giúp đỡ mọi người trong xă hội, làm
từ thiện, chính là để tỏ ḷng tri ân
với đời. Nghĩa cũng là biết sống
cho mọi người chứ không chỉ sống cho
riêng cá nhân ḿnh. Tuy
nhiên, nếu muốn làm được việc nghĩa
th́ phải có trí, phải có một sự hiểu
biết căn bản: Biết khi nào cho, cho như
thế nào. Có nhân, có nghĩa mà không có trí th́
nhiều khi cái nghĩa cử cao đẹp của ḿnh
trở thành vô nghĩa; cái hành động đạo
đức của ḿnh có thể trở thành vô đạo
đức; bởi v́ vô h́nh chung ta lại đi
tiếp giáo cho giặc, và rốt cuộc ta gây ra
thảm họa cho nhiều người hiền lương
vô tội. Tóm lại, trí là một sự hiểu
biết, người không trí tức là không có sự
hiểu biết th́ không làm được ǵ hữu
ích cả. Ngày xưa đánh giá chữ trí của
một con người qua sự hiểu biết về
đạo quân tử; ngày nay, ngoài sự hiểu
biết về lĩnh vực văn hóa xă hội,
triết học th́ cần có một sự hiểu
biết về khoa học tự nhiên cần thiết
cho cuộc sống hiện đại. Hiểu biết
nhiều có thể làm được nhiều việc
có ích với đời nếu người đó có
nhân, có nghĩa trong tâm. Có
có đủ bốn yếu tố: nhân, lễ, nghĩa,
trí, mà không có tín th́ cũng chưa vẹn toàn.
Một người không có uy tín hay không có ḷng tin
đối với người khác th́ cũng chẳng
được ai tôn trọng. Chữ tín trong
cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, bởi v́
sống ở đời ai cũng cần có một uy
tín nhất định trong quan hệ với mọi người
xung quanh. Có được uy tín với bạn bè,
với người chung quanh th́ sẽ tạo
được sự tin tưởng của họ, và
nhờ đó sẽ dễ dàng được họ
giúp đỡ, hỗ trợ trong cuộc sống. Uy tín
là giữ lời hứa - nói th́ phải làm. Có
được nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chính là có
được năm yếu tố kết hợp thành
nhân cách của con người để có được
sự hài ḥa trong mối quan hệ giữa
các cá nhân trong xă hội, hay trong gia đ́nh. Theo
truyền thống Việt Nam th́ đơn vị cơ bản của xă hội là gia đ́nh chứ
không phải là cá nhân. Do đó, sự hài ḥa
trong mối quan hệ giữa
các cá nhân được đánh giá cao hơn thành
tích cá nhân (Phạm 2008:
79). Vẻ đẹp
thể chất và dáng
điệu bề ngoài được coi là quan
trọng đối với cả nam giới và phụ
nữ, nhưng đức hạnh của người phụ nữ luôn luôn được ca
ngợi. Hiếu nghĩa, t́nh huynh
đệ, và ḷng trung thành vợ
chồng cũng được
đánh giá cao. Người
Việt Nam có khuynh hướng nội tâm.
Đức hạnh của một người thường
được giữ kín trong ḷng; do đó sự mong muốn
của họ được thể hiện gián
tiếp bằng cách nói
gợi ư, ṿng vo, và họ suy nghĩ cẩn
thận trước khi nói (Nguyễn
1987: 103). Các khái niệm về gia
đ́nh, sự ḥa hợp, đạo
đức, hiếu nghĩa, t́nh huynh đệ, và
ḷng trung thành vợ chồng được
ăn sâu trong văn hóa và ngôn
ngữ Việt Nam. Hầu
hết các giá trị văn hóa
cho thấy Nho giáo có mặt trong xă hội Việt Nam từ hàng
ngàn năm (Marr 1981:
101-135; Duiker 1995:
81). Văn hóa Việt
Nam đă bị ảnh hưởng
chủ yếu của
Trung Quốc trong nhiều thế
kỷ v́ sự gần gũi về
địa lư và liên
lạc phát sinh từ xung
đột chính trị và kinh tế
(Nguyễn 1995: 56).
Theo ông Dương Quảng Hàm (1968: 1) th́ xă
hội Việt Nam đă trải qua sự
thống trị của Trung Quốc
trong hơn một ngàn
năm, giữa 207
TCN và 939 AD.
Trước
khi giành được độc lập
vào năm 939 AD, người
dân Việt Nam đă bị ảnh
hưởng sâu sắc của Trung
Quốc trong mọi khía cạnh
của cuộc sống từ thời gian đó. Ví
dụ, trong giáo dục, người
Việt Nam đă học chữ
Trung Quốc, theo lời dạy
của Khổng Tử và
thông qua tư tưởng và văn
hóa Trung Quốc. Trong gần một
ngàn năm độc
lập đến cuối thế
kỷ XIX, qua nhiều vương
quốc trong đó có Ngô,
Đinh, tiền Lê, Lư,
Trần, Hậu Lê và
Nguyễn, kư tự Trung Quốc
vẫn c̣n được
sử dụng bởi tất cả
các tổ chức chính
phủ (Dương 1968,1-2).
Khi hệ thống giáo
dục Việt Nam chủ yếu
dựa vào Nho giáo, hệ
thống chữ viết Trung Quốc
được dùng để giảng dạy và dần dần được biết đến như
chữ nho (kịch bản Nho giáo),
và các học giả trong
Nho giáo được gọi
là Nhà nho hoặc Thầy nho
(giáo viên Nho giáo).
Sự
ảnh hưởng của Nho giáo đă đạt
đỉnh cao trong
xă hội Việt Nam vào năm
1075, khi vua Lư Nhân
Tôn tuyển dụng viên
chức trong những người
có học (Dao 1951:
254, Dương 1968:
81, Defrancis 1977:
14). Theo Jamieson
(1993: 11), bắt
đầu vào cuối thế kỷ
mười lăm, Nho giáo đă
trở thành một ảnh
hưởng lớn, chi phối xă
hội Việt Nam. Từ
quan điểm này, Jamieson (1993:
16-17) cho rằng, trước
hết, trẻ em Việt Nam được
giảng dạy ḷng hiếu thảo
(Hiếu), vâng lời và kính trọng cha
mẹ, không chỉ trong
hành vi, mà c̣n trong
ngôn ngữ. Trọng tâm của Nho giáo
là dạy về sự áp dụng cho đúng
danh vị của đối tượng bằng phương
tiện ngôn ngữ. Theo đó, mỗi người cần chọn
những từ thích hợp để làm hài ḷng, thuyết phục hoặc
ảnh hưởng đến người
khác (Vũ 1997:
58). Những ǵ Khổng
Tử gọi là "chính danh" cũng theo ư niệm nầy, chủ yếu có tác
dụng đạo đức để
các cá nhân duy tŕ
một trật tự xă hội
tốt (Lương 1988: 241).
Theo Khổng Tử th́ một trật tự xă
hội tốt có nghĩa
là duy tất cả các tầng lớp xă hội
đúng theo vị trí thích hợp của họ (Feibleman 1976: 95).
Theo ông
Nguyễn Xuân Thu (1986: 67) th́ những người có học thức cao
th́ được đánh
giá cao trong xă hội Việt Nam.
Trong quá khứ có nhiều học
giả từng là các nhà lănh đạo trong xă hội, là động
lực phát triển xă hội
và tấm
gương luân
lư để
mọi người noi theo. Các phân
tầng xă hội cũ được xếp theo thứ tự giá trị
từ cao: sĩ, nông, công, thương, và sự đáng
giá như vậy vẫn c̣n ăn sâu trong tâm trí của nhiều
người Việt Nam, đặc biệt là những người
trong thế hệ cũ,
tức những người lớn tuổi. Tuy nhiên,
mặc dù "sĩ" đứng
ở vị trí đầu tiên trong phân
tầng xă hội, trong giáo dục truyền
thống Việt Nam, "lễ" vẫn được
xếp ưu tiên thứ
nhất. Như vậy, trước khi được
xếp hàng "sĩ", hay "học giả", người ta phải được
giáo dục tốt về "lễ",
với trọng tâm có thể được liên
kết với lịch sự, một đặc tính văn
hóa được nhiều người quí trọng. Từ một góc độ khác, Wangdao
(1997: 75) cho rằng một
trong những ưu điểm lớn
của Khổng Tử là
"phép tắc" (một
thuật ngữ thay thế cho "nghi
lễ" hoặc "lễ" bằng
tiếng Việt) được áp
dụng trong các nghi thức nhằm hướng
dẫn và hạn chế trong mối quan hệ giữa những người trong
gia đ́nh và xă hội, thí dụ như quan hệ giữa hoàng tử và các
bộ trưởng,
giữa người cha và con cái, và sự minh định thứ bậc
giai cấp như vậy là nhằm bảo đảm trật tự và ổn định xă
hội. Theo
truyền thống, trong xă hội có thứ bậc của
Việt Nam, sự diễn tả ḷng biết ơn hay sự xin lỗi thường
không được thể hiện
qua lời nói như
"cảm ơn" hay
"Tôi xin lỗi", nhưng nó được thể hiện qua hành vi phi ngôn
ngữ (ví dụ như sự
im lặng hoặc một
nụ cười). Người trong một địa vị xă
hội cao hơn, chẳng
hạn như cha mẹ và
giáo viên, thường không trực tiếp nói ra lời cảm ơn với người ở cấp thấp hơn họ (như trẻ em hoặc
học sinh) để tỏ ḷng biết ơn
về một việc nhỏ, chẳng
hạn như đóng cửa sổ
hoặc đưa
hộ một cuốn
sách (Huỳnh 1987:
30). V́ vậy, khi trong
văn hóa Âu Tây, việc
sử dụng các cụm từ "xin vui ḷng"
và "cảm ơn" được
coi là qui ước thực dụng xă hội, thích
hợp với ngôn
ngữ lịch sự trong các t́nh
huống khác nhau. Trong văn hóa Việt Tóm
lại, trọng tâm
của văn hóa Nho giáo Việt
Nam là những ư niệm chính danh qua ngôn
ngữ để xác nhận vị
trí của một cá nhân trong xă hội và
gia đ́nh
nhằm để làm xin vui ḷng và thuyết phục hoặc
gây ảnh hưởng đến người
khác. Cần nói thêm, ư niệm
chính danh khuyến khích mọi người hành xử
thích hợp với vai tṛ hay vị thế của
họ theo từng thời điểm và t́nh huống
liên hệ. Điều nầy rất cần thiết
để không gay ra xung đột với người
khác, nhưng không dễ dàng áp dụng bởi v́ người
ta thường hay lầm lẫn vai tṛ và trách
nhiệm của ḿnh trong từng thời điểm và
t́nh huống; thí dụ một người đàn ông
có thể là cha, là anh, là em, là bạn, là thầy hay
là học tṛ v.v. (Những
bài kế tiếp tôi sẽ tŕnh bày về Ngôn
Ngữ Việt Tài
liệu tham khảo Dao,
Duy Anh (1951). Việt DeFrancis,
John (1977). Colonialism and Language Policy in Duiker,
William J. (1995). Duong,
Quang Ham (1968). Việt Nam Văn
Học Sử Yếu [Vietnamese Literary Brief History], 10th
edition, Trung Tam Hoc Lieu (in Vietnamese). Dai Feibleman,
J. K. (1976). Understanding Oriental
Philosophy: A Popular Account for the Western World. Holmes,
Janet (1992). An
Introduction to Sociolinguistics. Huynh,
Dinh Te (1987). Vietnamese Culture. California State Department of
Education Jamieson,
N. (1993). Understanding Luong,
Hy V. (1988). Discursive Practices and Power Structure: Person-Referring
Forms and Sociopolitical Struggles in Colonial Marr,
D. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Mey,
Jacob L. (2004). Between Culture and Pragmatics: Scylla and Charybdis? The
Precarious Condition of Intercultural Pragmatics. Intercultural
Pragmatics 1, 1; 27–48 Nguyen
Dang Liem (1987). Cross-Cultural Adjustment of the Vietnamese in the Nguyen
Xuan Thu (1986). Vietnamese Refugees in Nguyen,
Duc Hoat (1995). Politeness markers in Vietnamese Requests
(manuscript). Thesis (PhD). Nguyen,
Ngoc Tuan (2008). Socialist Realism
in Vietnamese Literature: An Analysis of the relationship between
literature and politics. VMD Verlag Dr. Muller Aktiengesellschaft
& Co. KG. Pham,
Thi Hong Nhung (2008). Vietnamese
Politeness in Vietnamese - Anglo-Cultural Intactions: A Confucian
Perspective. A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy
at The University of Quensland in Ausgust, 2008. Vu
Thi Thanh Huong (1997). Politeness
in Modern Vietnamese: A Sociolinguistic Study of a Wangdao,
D. (1997). Understanding Confucius.
Yates,
Lynda (2004). The ‘secret rules of language’:Tackling Pragmatics in
the Classroom. Prospect Vol.
19, No. 1 (April 2004)
|