Đồng
tiền cổ với bốn chữ “Duy Tân thông
bảo”
Bài
đọc suy gẫm:
“Nước dơ lấy ǵ mà rửa? “vua Duy Tân,
tuy nhỏ tuổi nhưng là người có chí
lớn, có tinh thần dân tộc, trước
cảnh nước mất nhà tan đă trả
lời:” nước dơ, phải lấy máu mà
rửa”.
Bài
viết về vua Duy Tân đă hy sinh mối t́nh đầu
cho đại cuộc ra sao (Lịch sử dân tộc
Việt Nam cận đại) và triều Nguyễn do tác
giả Cao Văn Tâm (Công Binh) sưu tầm và tóm lược.
H́nh ảnh chỉ là minh họa.
Ảnh chụp vua Duy Tân năm19
Vua Duy Tân 1899 -1945, trị v́
1907 – 1916.
Vua Duy-Tân c̣n rất
trẻ, nhưng rất thông minh và có khí khái của
một ông vua. Sau ngày đăng quang, Duy-Tân đă hoàn
toàn thay đổi, nên một nhà báo Pháp đă phát
biểu: “Un jour de trône a complètement changé la figure d’un
enfant de 8 ans” (Một ngày lên ngôi đă thay đổi
hoàn toàn bộ mặt của một cậu bé 8
tuổi). Duy-Tân, ”Một Anh Hùng Dân Tộc!” Năm
17 tuổi, Ngài đă hy sinh mối t́nh đầu,
rồi hy sinh ngai vàng để dấn thân vào cuộc
khởi nghĩa ngày 3 tháng 5, 1916; Cuộc khởi nghĩa
bị tiết lộ nên thất bại, Ngài phải
chịu cảnh lưu đầy đi đảo La Réunion,
gần Phi-Châu. Duy-Tân cũng là 1 trong 3 vị vua (Hàm-Nghi,
Thành-Thái, Duy-Tân) đă nối tiếp nhau nổi lên
chống ngoại xâm để nhận lấy cảnh
lưu đầy! Thế mà sự nghiệp của các
vị vua này lại không mấy chúng ta biết đến.
Có lẽ v́ trong thời kỳ đô hộ, những
tài liệu liên quan đến cách mạng, liên quan
đến chống ngoại xâm không mấy ai giám lưu
giữ để truyền bá về sau.
DUY-TÂN VỚI NHỮNG CHÍ
KHÍ CỦA MỘT ÔNG VUA:
Duy-Tân là một ông vua
rất thương dân và được ḷng dân.
- Năm 1908, miền Trung thường
hay có loạn, chống thuế . . . Vua lúc ấy
mới 9 tuổi mà đă biết phán với triều
thần rằng: Nếu trong nước hay có loạn
là v́ dân thiếu thốn và đói. Ta phải có
kế hoạch “tăng gia sản xuất” để
có thêm lương thực. Riêng ta, lương của
ta mỗi tháng 500$. Từ nay ta chỉ nhận 200$ thôi,
c̣n 300$, ta giao cho các thầy tùy nghi giúp cho đồng
bào đang đói.
-Thượng thư
Hồ-Đắc-Trung là người thường hay
gần bên vua. Có lần vua tỏ ra không vui hỏi: Thày
nghĩ sao về người Pháp cai trị chúng ta?
Hồ-Đắc-Trung tâu: chúng ta là người
bị trị c̣n biết nói sao! Xin Hoàng-Thượng
hăy thận trọng, cố gắng học hành,
đường c̣n dài, c̣n nhiều vận hội sau
này.
- Năm 1912, nghe tin khâm
sứ Joseph Mahé mở chiến dịch t́m vàng. Ông
lấy tượng vàng đặt trên lầu chùa Thiên-Mụ
và đem người tới đào mả vua Tự-Đức
để lấy vàng bạc, châu bắu. Duy-Tân đă
thân hành tới để ngăn chặn, nhưng không
kịp. Duy-Tân rất giận và gửi thư cho chính
phủ Pháp yêu cầu khiển phạt viên chức
lộng hành này. Thơ nhờ viên toàn quyền
chuyển qua Pháp. Nhưng viên toàn quyền đă không
chuyển mà đích thân đem thơ vào hoàng cung
đưa cho hoàng-thái-hậu, mẹ lớn của vua
coi (Bà là con gái cần-chánh đại-học-sĩ
Nguyễn-Thân. Tuy bà không có con, nhưng bà vẫn có
một thế lực lớn trong triều). Bà đ̣i
vua tới, la rầy và bắt vua phải xin lỗi viên
toàn-quyền. Dù không có lỗi, nhưng là một ông
vua có hiếu nên phải nghe theo lời mẹ.
- Đầu năm 1914,
Duy-Tân họp các quần thần để chọn người
đi Pháp, tŕnh bầy và cùng chính phủ Pháp sửa
đổi bản hiệp ước Patenôtre kư ngày 6
tháng 6, 1884 mà Ngài cho là bất công và Pháp đă vi
phạm nhiều. Nhưng không ai dám nhận sứ
mạng này. Việc này cũng tới tai hoàng-thái-hậu,
bà lại gọi và la rầy nhà vua.
- Một hôm khác vua phàn nàn:
Không có một ông thượng thư nào chịu nghe
ta cả, ta là vua chỉ “làm v́” thôi! Trong khi ấy
có thượng thư Nguyễn-Hữu-Bài nghe
được liền tâu: Tâu Hoàng-Thượng, có
phải Ngài muốn đánh Pháp ư? Nhưng Ngài
lấy ǵ mà đánh? Ngài không có quân đội! Ngài
cũng không có tài chánh! Ngài đánh bằng ǵ? Vua
Duy-Tân suy nghĩ một lúc rồi nói lớn: Lúc này
nước Pháp đang có chiến tranh với Đức
(Từ 1914), đây là lúc ta phải khuyến khích dân
cùng đứng dậy đ̣i độc lập cho nước
nhà.
- Năm nhà vua 15 tuổi,
Ngài triệu tập tất cả 6 đại thần
trong phụ-chánh, đ̣i các vị phải kư vào biên
bản về những sai trái của Pháp để
đích thân nhà vua đem qua ṭa khâm sứ, nhưng các
đại thần sợ Pháp kiếm chuyện làm khó
dễ nên không ai dám kư, và phải cầu cứu hoàng-thái-hậu
can gián nhà vua. Từ đó nhà vua không những có ác
cảm với Pháp, mà c̣n có ác cảm với
triều thần của Ngài.
VUA DUY-TÂN VỚI MỐI
T̀NH ĐẦU DANG DỞ:
Sư bà Diệu-Không, ái
nử út của thượng thư Hồ-Đắc-Trung
kể trong hồi kư rằng: Năm 1914, vua Duy-Tân ra
nghỉ mát ở Cửa-Tùng, Quảng-Trị. Thân sinh
tôi là Hồ-Đăc-Trung theo hầu. Nhà vua lúc ấy
khoảng 15 tuổi, muốn có bạn trẻ cùng
lứa chơi, nên truyền thân sinh tôi dẫn anh
chị em chúng tôi theo. Hai anh tôi 15 và 16 tuổi,
chị tôi 13 tuổi, tôi 10 tuổi. Thân sinh tôi căn
giặn chúng tôi phải giữ phép “vua tôi”. Không
được cười đùa nhiều như đối
với người dân thường. Nhưng nhà vua
lại rất dung dị, b́nh dân. Ngài gọi 2 anh tôi
bằng “anh”, gọi tôi bằng “em”. Ngài ít nói
chuyện với chị tôi. Mỗi khi vui đùa
với 2 anh tôi và tôi, Ngài chỉ nh́n chị tôi mà không
nói ǵ. Khi nào Ngài cũng tỏ ra vui vẻ. Chúng tôi
rất mến Ngài, nhưng vẫn không dám cười
đùa nhiều, sợ thân sinh chúng tôi quở
mắng.
Tôi nhớ một hôm chơi
bắt c̣ng (dạ tràng), thi xem ai bắt được
nhiều. Nhưng Ngài bắt được con nào, Ngài
thả ngay con ấy. Chúng tôi ngạc nhiên hỏi, Ngài
bảo: bắt chúng lên cạn chúng sẽ chết. Chi
bằng thả chúng tự do bơi lội, ta nh́n xem cũng
vui rồi. Thế là chúng tôi cũng đua nhau thả
hết. Ngài lấy làm thích thú khi thấy những con
c̣ng tự do bơi lội. Ngài nói với 2 anh tôi:
Nếu có ai bắt nhốt chúng ta, chắc chúng ta
sẽ khổ lắm! V́ khi mất tự do là mất
tất cả! Nói vậy rồi Ngài thở dài, kém
vui. Nhưng ngay sau đó Ngài lại vui đùa lại.
Mùa nghỉ hè măn, “vua tôi” bịn rịn lúc chía
tay. Chị tôi nh́n Ngài ứa lệ. Ngài bảo
nhỏ tôi: Em ra dỗ chị đi, rồi sang năm
chúng ta lại gặp nhau mà!
Năm sau hè đến,
chị tôi không được đi. Thân sinh tôi
bảo: con gái đă lớn, con phải ở nhà
với mẹ. Thế là chị tôi phải ở nhà,
chị khóc sưng cả mắt. Khi ra đến
Cửa-Tùng, gặp lại chúng tôi Ngài hỏi: Sao
thiếu mất một người? Tôi tâu: Mẹ tôi
bắt chị tôi ở nhà, chị khóc sưng cả
mắt . . . Ngài nói: Thật là tội nghiệp cho
chị ấy!
Măn hè ít ngày, một hôm có
một quan thị vệ đến nhà xin ảnh
chị tôi đem vào cung cho 2 ngài thái-hậu (Mẹ
lớn và mẹ đẻ) xem mặt. Sau một
tuần, 2 ngài thái-hậu đ̣i thầy mẹ tôi vào
hầu. Sau đó tôi thấy kiệu vua tới nhà tôi,
mang theo đôi bông tai và đôi ṿng vàng – đó lá
lễ hỏi của nhà vua dành cho chị tôi. Thầy
mẹ tôi qùy lễ bái lănh. Chị tôi cũng ra
lậy tạ ân vua hạ cố.
Nhưng chuyện bất
ngờ sẩy ra: Một hôm thầy tôi ở triều
về, gọi mẹ tôi vào pḥng, nói chuyện
thật nhỏ. Nghe tiếng nói ngập ngừng như
cố nén một nỗi buồn trong ḷng. Năm
ấy tôi 12 tuổi, cũng đă có ư, giả bộ
không biết ǵ, xô cửa bước vào. Thấy
thầy mẹ tôi mắt đỏ hoe. Thầy tôi
bảo tôi ra gọi chị tôi vào. Thấy chị tôi
thầy tôi bảo: Con đi lấy đôi ṿng vàng và
đôi bông tai ra đây để mẹ con đem vào
cung dâng lại cho nhà vua, v́ Ngài muốn từ hôn.
Chị tôi nghe chết điếng cả người,
mặc dù chỉ c̣n 2 tháng nữa là lễ nạp phi
(lễ cưới). Chị đứng lúc lâu mới
chạy đi lấy đồ vàng và đưa cho tôi
đem vào cho thầy tôi, chứ chị không vào.
Thân sinh tôi c̣n nói, vua ban
rằng: Thày hăy an ủi con gái thày và gả ngay cho người
khác, đừng để cô ấy buồn tội
nghiệp! Thày nên hiểu v́ tôi thương gia đ́nh
thày nên tôi mới từ hôn với người mà tôi
đă thương mến từ mấy năm nay. Thân
sinh tôi nói thêm: Ngài c̣n bảo tôi t́m cho Ngài một
thiếu nữ khác mà do tôi chọn. Bà xem có ai đáng
giới thiệu không? Mẹ tôi đáp: Có con gái ông
phụ-đạo Mai-Khắc-Đôn. Tuy không đẹp
lắm, nhưng có đức hạnh tốt. Ông vào tâu
thử xem.
Một tuần sau, lễ
hỏi của nhà vua lại đem đến nhà ông
phụ-đạo Mai-Khắc-Đôn và ngày 30 tháng 1,
1916; là lễ nạp-phi (lễ cưới) được
tổ chức trọng thể tại bộ lễ.
VUA DUY-TÂN VỚI CUỘC
KHỞI NGHĨA NGÀY 3 THÁNG 5, 1916:
NHỮNG LỰC LƯỢNG
THAM DỰ:
1/ Mười mấy ngàn lính
Việt do Pháp tuyển mộ và huấn luyện để
gửi qua Pháp cho chiến tranh Pháp-Đức, phần
lớn đă được ta kết nạp. Họ
sẵn sàng tiếp ứng cho cách mạng.
2/ Viên đại tá lính Lê-Dương
(Légion Étrangère) gốc người Đức, đang
chỉ huy hơn 3,000 lính mộ. Ông ta đă được
Trần-Quang-Trứ (thư kư ṭa khâm-sứ Pháp),
thuyết phục và lôi cuốn. Ông ta sẵn sàng
hợp tác với cách mạng (V́ Đức đang có
chlến tranh với Pháp, nên lúc này người Đức
ở đâu cũng không thích Pháp).
3/ Trần-Đại-Tŕnh
ở ṭa khâm sứ Pháp, đang chỉ huy mấy
chục lính gác ở đây sẽ quay súng và hiệp
với cách mạng.
4/ Một đội quân
Nam-Ngăi hiệp cùng dân quân vùng phụ cận kinh thành,
bao vây ṭa khâm sứ Pháp và bắt tay với Trần-Đại-Tŕnh
ở bên trong.
5/ Các tỉnh:
Quảng-trị, Quảng-Nam, Quảng-Ngăi, Đà-Nẵng,
Hội-An, Tam-Kỳ, B́nh-Định, ngoài lực lượng
lính mộ của Pháp mà ta đă kết nạp, c̣n có
nghĩa quân được vơ trang bằng vũ khí
từ ṭa lănh sự Đức ở Bangkok đưa
vào.
6/ Tôn Thất Đệ,
Nguyễn Quang Siêu chỉ huy các đội thị
vệ bảo vệ nhà vua.
7/ Phan-Bội-Châu (Người
đă đề xướng phong trào “Đông-Du” và
tổ chức “V.N. Quang Phục Hội”), đang
ở Trung-Hoa đă bí mật gửi mai-sơn
Nguyễn-Thượng-Hiền sang Thái-Lan, liên lạc
với ṭa lănh sự Đức. Ṭa lănh sự Đức
ở đây ủng hộ cho cách mạng 10,000
tiền Thái-Lan, và khuyến khích, nếu hoạt động
mạnh, có tiếng vang mà chính phủ Đức nghe
tới sẽ có viện trợ chính thức nhiều
hơn.
8/ Kỳ Bộ
Quang-Phục-Hội của Phan-Bội-châu do Thái-Phiên
phụ trách đă hoạt động mạnh, và
từ năm 1914 Pháp có chiến tranh với Đức.
Đây là cơ hội thuận lợi để dân
ta vùng lên tranh đấu dành độc lập.
9/ Cờ khởi nghĩa,
nền đỏ với 5 ngôi sao trắng, ư nghĩa
“Ngũ Tinh Tụ Tĩnh” lấy ở Kinh-Dịch
ra.
Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên
thuộc Việt-Nam Quang-Phục-Hội, giả người
đi câu, vào Thành-Nội, bí mật gặp vua để
tŕnh bầy kế hoạch. Vua Duy-Tân chấp thuận
toàn bộ kế hoach. Ngài chỉ lo nếu Pháp
sớm đưa 3,000 lính mộ ở đồn Mang-Cá
mà cách mạng đă kết nạp, xuống tầu
qua Pháp, nên Ngài hối thúc hành sự sớm. Ngày
khởi nghĩa định vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng
5, 1916. Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên hiệp với Tôn-Thất-Đệ
và Nguyễn-Quang-Siêu đưa vua tạm rời
khỏi hoàng thành.
Nhưng chẳng may, trước
đó một ngày, một tên lính khố xanh tên Vơ-An,
là lính ở dinh án sát Quảng-Ngăi, có người
anh cũng là lính và đă được cách mạng
kết nạp nên biết ngày khởi nghĩa. Hắn
căn giặn người em phải cẩn thận ngày
đó. Rồi người em (Vơ-An) tỏ ra bối
rối, lo sợ lộ ra mặt. Án sát
Phạm-Liễu thấy khác thường nên gạn
hỏi. Hắn sợ nên đă khai ra. Phạm-Liễu
báo cáo cho công sứ De Tastes. De Tastes mật điện
cho khâm sứ ở Huế bấy giờ là Francois
Charles (Là cha nuôi của Bảo-Đại sau này).
Francois Charles ra lệnh thu hết súng và cấm
trại lính người Việt. Mặt khác điện
cho các tỉnh đề pḥng.
Trần-Quang-Trứ, người
có công chiêu dụ được viên đại tá
gốc Đức, và lính đồn Mang-Cá, thấy thâu
súng và cấm trại lính người Việt, đoán
việc đă bại lộ. Đêm khuya Trứ t́m
đến bến Thương-Bạc, ở đây
Trứ gặp Trần-Cao-Vân và thấy nhà vua đă
cải dạng thành thường dân. Trứ thấy
chuyện thực sự bại lộ nên t́m cách lo cho
bản thân. Trứ trở về, lén vào toà khâm
sứ tố cáo và chỉ đường đi
của nhà vua.
Trong khi Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên
. . . định đưa vua tới một địa
điểm bí mật, nhưng phải nghỉ khuya
ở một ngôi chùa bên núi Ngũ-Phong gần Nam-Giao.
Đến sáng, khi nhà vua và đoàn tùy tùng sửa
soạn lên đường th́ có sự xuất
hiện của Le Fol, đổng lư văn pḥng ṭa khâm
sứ. Có Sogny, chánh mật thám Huế. Có Lanneluc là giám
binh với mấy chục lính khố xanh, có
Trần-Quang-Trứ – tất cả tới bắt nhà
vua. Bên triều đ́nh có Vơ-Liêm, thuộc bộ
lễ. Có Hồ-Hành là đội cơ với
gần chục lính tới đón vua về.
Le Fol (nói giỏi tiếng
Việt) thấy vua trịnh trọng ngả mũ: Tâu
Hoàng-Thượng, ngài ngự gíá dạo chơi
xong rồi chứ? Duy-Tân b́nh thản, nhún vai đáp:
Các ông chả hiểu được đâu!
Trần-Quang-Trứ cũng tiến tới: Tâu Hoàng-Thượng,
tôi là người cùng Trần-Cao-Vân hội kiến
Hoàng-Thượng tối qua ở bến Thương-Bạc,
chẳng hay Hoàng-Thượng có nhớ không? Duy-Tân nh́n
Trứ một cách khinh bỉ và nói: Phải, ta
nhớ ngươi, đồ phản bội! Rồi
vua quay mặt đi.
Bên triều thần
gặp vua mừng mừng, tủi tủi và năn
nỉ vua trở về hoàng cung. Vua từ chối nói:
Thà bị bắt, chứ không trở lại Hoàng cung.
Lính hầu dương lọng rước, vua gạt
đi và Ngài đi bộ thẳng tới chiếc xe
của Pháp để chịu bắt. Pháp đưa
Duy-Tân về giữ ở đồn Mang-Cá. Khâm
sứ Pháp ở Huế và toàn quyền Pháp của
Đông-Dương, thuyết phục vua trở
lại ngai vàng, nhưng nhà vua từ chối, nói: Các
ông bắt tôi phải làm vua, nhưng các ông lại không
coi tôi như một ông vua.
Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn
Thất Đệ và Nguyễn Quang Siêu bị c̣ng tay
dẫn về Huế tống giam. Cả 4 vị bị
chém ngày 16 tháng 5, 1916 tại An-Hoà, gần Huế.
Tại các tỉnh cũng xẩy ra nhiều vụ
xử tử và tù tội. Hàng mấy trăm người
bị đầy đi Côn-Đảo và Lao-Bảo. Các
tỉnh khác hưởng ứng chậm th́ ít bị
đàn áp.
VUA DUY-TÂN VỚI BẢN
ÁN LƯU ĐẦY:
Pháp buộc triều đ́nh
phải xử án vua Duy-Tân, và triều đ́nh đă
ủy nhiệm Hồ-Đắc-Trung thảo bản án.
Mặt khác, lúc trong
ngục, Trần-Cao-Vân lo cho vua bị sát hại. Ông
viết thư (Trên giấy cuộn thuốc hút),
trần t́nh với Hồ-Đắc-Trung, ông nhận
lănh hết công việc bạo động và khẩn
khoản Hồ-Đác-Trung t́m cách cứu vua. cuối
thư ông viết: Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai vơng
lọng là ai? Thà để cô thân tử biệt!
Trời c̣n đó, đất c̣n đó, xă tắc sơn
hà c̣n đó, mong cho thánh thượng sinh toàn!
Sư bà Diệu-Không
thuật lại lời khai của vua Duy-Tân khi bị
Pháp chất vấn:
Trần-Cao-Vân: 1866 – 1016
:
Một trong những lănh tụ của VN
Quang-Phục-Hội
Hỏi: Ngài nghĩ sao
về mảnh giấy này của ông Trần-Cao-Vân?
Đáp: ông Trần-Cao-Vân
làm chuyện lớn không thành, sợ tội tử h́nh,
nên thư cầu cứu ông Hồ-Đắc-Trung (Lúc
này Duy-Tân cũng không biết mảnh giấy
Trần-Cao-Vân đă viết ǵ).
Hỏi: V́ lẽ ǵ ông
Trần-Cao-Vân lại tin cậy Hồ-Đắc-Trung
mà chuyển thư này cho ông ấy?
Đáp: V́ ông Hồ-Đắc-Trung
hay thương người, cứu người, như
ông đă cứu 42 nhà cách mạng ở tỉnh
Quảng-Nam năm 1908, lúc ông đang làm tổng đốc
ở đây.
Hỏi: V́ lẽ ǵ trước
kia ngài lại từ hôn với tiểu thơ nhà
họ Hồ?
Đáp: V́ tôi thương
gia đ́nh ông ấy, sợ gia đ́nh ông ấy
bị liên lụy. Hơn nữa các đồng chí
của tôi khuyên tôi nên tránh xa gia đ́nh ấy để
bảo mật cho đại cuộc.
Hỏi: Ngài có bảo
đảm là ông Hồ-Đắc-Trung vô tội trong
vụ bạo loạn này không?
Đáp: Tôi hoàn toàn
bảo Đảm cho ông ấy.
Thế là mấy ngày sau thân
sinh tôi được Pháp trả tự do. Triều
đinh tiếp tục ủy nhiệm thân sinh tôi
thảo bản án nhà vua.
Nội dung bản án:
Vua Duy-Tân c̣n nhỏ
tuổi, tuy rất thông minh, nhưng c̣n cạn nghĩ.
Bị những người mưu phản khích thích ḷng
ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng
thành th́ tội ngài là nặng. Song Ngài c̣n vị thành
niên, tưởng không đáng trách mà nên thương
t́nh! Về phía chính phủ bảo hộ th́ Ngài có
tội phản nghịch, nhưng về phía chính
phủ Nam Triều, ngài là một ông vua rất thương
dân và được ḷng dân. Như vậy xét về
tội th́ Ngài có tội với chính phủ bảo
hộ. C̣n đối với nhân dân Việt-Nam th́ Ngài
không có tội ǵ cả. Vậy nên xét t́nh mà
truất phế Ngài và để Ngài được
trở về với ngôi vị hoàng tử như trước.
Như vậy ḷng dân mới không oán than chinh phủ
Pháp là khắc nghiệt.
Bản án được
Pháp đồng ư, nên tuy bị đi đầy ở
đảo La Réunion, gần Phi-Châu, Ngài vẫn giữ
tước vị hoàng tử. Ở đảo La Réunion,
Duy-Tân học vô tuyến điện, mở tiệm bán
và sửa radio. Ngài cũng học văn hóa và thi tú tài
ở đây. Ngài đă viết nhiều bài cho tờ
Le Peuple (Nhân Dân) và tờ Le Progrés (Tiến Bộ).
Trong bài “Varíations Sure Une Lyre Briées” (Những Biến
Tấu Của Một Cây Thất-Huyền-Cầm
Gẫy Vỡ) đă được giải nhất văn
chương của Hàn-Lâm-Viện khoa học và văn
chương La Réunion năm 1924.
Vua Duy Tân lúc ở đảo
re’union
Đi đầy, Ngài
đưa theo đệ nhất vương phi
Mai-Thị-Vàng khi bà có thai 3 tháng, nhưng rồi hư
thai. Ở đây được 2 năm, bà đ̣i
về Việt-Nam, v́ không chịu khí hậu ở
đây. Sau nhiều năm xa cách hoàng phi, năm 1925,
Duy-Tân gửi về Việt-nam một đơn xin ly
dị và một thơ cho hội đồng hoàng
tộc xin chấp thuận để bà Vàng đi
lấy chồng khác, khi bà ở tuổi 27. Nhưng bà
Vàng không chịu ly hôn và nhất định thủ
tiết cho đến khi mất ở tuổi 75.
Khi c̣n sống bà thường
ngâm:
Ǵn vàng giữ ngọc cho trong, cho vừa ḷng Kẻ chân
mây cuối trời!. Hay:
Dù đá có nát, nhưng vàng chẳng phai. Thủy
trung, trung thủy, vẫn giữ lấy lời
thủy trung!
Sau khi hoàng phi về
Việt-Nam, Duy-Tân lần lượt sống với 3
phụ nữ Pháp không hôn thú (V́ bà Vàng không chịu
ly hôn). Bà thứ nhất hơn Ngài 10 tuổi, có 1 con
trai. Bà thứ 2 kém Ngài 13 tuổi, có 4 trai, 4 gái. Bà
thứ 3 kém Ngài 24 tuổi có 1 con gái. Như vậy
Duy-Tân có tất cả 10 con – 5 trai, 5 gái. Một trong
những người con trai có tên là Yves Claude /
Bảo-Vang. Vào tháng 4, 1987, Bảo-Vang đă mang di hài
vua cha Duy-Tân từ Trung-Phi về Huế, và an táng
tại An-Lăng, cạnh vua cha Thành-Thái. Bảo-Vang cưới
bà Jessy Tarby, có 10 con – 7 trai, 3 gái, hiện đang sinh
sống tại Nha-Trang, Khánh-Hoà, VN.
DUY-TÂN TRỞ THÀNH QUÂN BÀI
LỚN CỦA DE GAULLE:
Tướng
Charles De Gaulle
1890 – 1970
Tổng Thống Pháp: 1958 – 1969
Khi De Gaulle c̣n ở cấp
tướng, ông đă quyết định nhiều
vấn đề quan trọng của nước Pháp.
Sau khi đắc cử tổng thống năm 1958, De
Gaulle đă trao trả độc lập cho 13 thuộc
địa của Pháp ở Phi-Châu. Năm 1969 ông
từ chức tổng thống khi có những cuộc
biểu t́nh của sinh viên chống chính phủ ông, và
ông qua đời năm 1970.
Khi quân Anh vào Việt-Nam (dưới
vĩ tuyến 16) để giải giới quân
Nhật, và lúc này cũng là lúc Pháp đă thành công
việc đánh đuổi Đức-Quốc-Xă ra
khỏi nước Pháp, De Gaulle liền nghĩ ngay
đến Đông-Dương, một cựu thuộc
địa của Pháp. Lợi dụng lúc này, De Gaulle
đă gửi quân Pháp theo chân quân Anh để
trở lại Đông-Dương. Khi Pháp đă vào
được Đông-Dương, Duy-Tân trở thành
quân bài lớn của De Gaulle. De Gaulle gặp Duy-Tân, và
đă yêu cầu Ngài trở lại ngôi hoàng đế
Việt-Nam, ba miền Trung, Nam, Bắc thống nhất
dưới một chính phủ độc-lập,
tự-do, và tự tổ chức nền kinh tế
của ḿnh. Pháp tạm đảm trách việc pḥng
thủ biên cương cho Việt-Nam trong một
thời hạn nào đó. Như vậy để
bớt gánh nặng cho VN phải tạo lập một
quân đội khi mà Việt-Nam chưa đủ
khả năng để duy tŕ và tăng trưởng
nó.
Ở đây, tưởng
cũng nên nhắc qua sự “thành công” của tướng
De Gaulle, việc ông chống lại chính phủ Vichy
đă đầu hàng và cam làm tay sai cho phát xit Đức.
Nhân Lúc này, đă có nhiều thanh niên Pháp và tàn binh
của chính phủ Vichy chạy ra nước ngoài. Riêng
tại Anh quốc đă có gần 10 ngàn người
chạy sang đây. De Gaulle cũng sang đây, ông
nhờ đài phát thanh BBC London để kêu gọi
tất cả thanh niên Pháp đang ở ngoài nước
và trong nước hăy đoàn kết cùng ông thành
“Lực Lượng Giải Phóng Quốc Gia”
(National Libération Force”. Và ông đă thành công ngoạn
mục. Lời kêu gọi hữu hiệu nhất
của De Gaulle là: Nous avons perdu une bataille, mais nous
n’avons pas perdu la guerre (chúng ta đă thua một
trận đánh, nhưng chúng ta chưa thua cuộc
chiến).
Lúc này, De Gaulle trở thành
“thần tượng”, và là “h́nh mẫu” cho
hoạt động cứu nước của Duy-Tân.
Duy-Tân cũng đă ủng hộ De Gaulle bằng cách
dùng vô tuyến điện của ḿnh để thâu
thập tin tức từ bên ngoài rồi chuyển cho
lực-lượng giải-phóng Quôc-Gia của De
Gaulle. Vụ này bị tiết lộ, Duy-Tân bị tù
6 tuần lễ. V́ chinh quyền La Réunion lúc đó
thuộc chính quyền Vichy (đang là tay sai của Đức).
Sau khi gặp De Gaulle, Duy-Tân
nói chuyện với một số Việt kiều và
du học sinh tại Pháp: Người Pháp đă công
nhận chúng ta là một quốc gia độc lập
trong Liên-Hiệp-Pháp. Điều này không trái với
quyền lợi hiện tại của quốc gia.
Dần dà ta sẽ đ̣i thêm quyền hạn. Chúng ta
biết làm ǵ hơn trước binh lực hùng
mạnh của Pháp. Chúng ta đă thấy gương
chống Pháp, mà tôi đây là nạn nhân của
một lối chống nóng nẩy, vụng về.
Tôi nghĩ rằng tôi
sẽ làm tṛn bổn phận khi mà tôi có thể làm
cho người nông dân ở Lạng-Sơn, người
nông dân ở Huế và người nông dân ở Cà-Mâu,
ư thức được t́nh huynh-đệ của
họ. T́nh huynh-đệ ấy, nghĩa
hợp-quần ấy được thực hiện dưới
bất cứ thể chế nào: tự-do,
cộng-sản hay bảo-hoàng . . . điều đó
không quan trọng. Điêu quan trọng là phải
cứu được dân tộc Viêt-Nam khỏi cái
họa phân chia.
Tướng Charles De Gaulle
đă gặp Duy-Tân và quyết định sẽ
đích thân đưa Duy-Tân hồi loan vào đầu
tháng 3, 1946. Nhưng chẳng may Duy-Tân tử nạn máy
bay ngày 26 tháng 12, 1945 (Tức 12 ngày sau khi gặp De
Gaulle). Câu hỏi: tử nạn hay mưu sát? V́ người
bạn thân của Duy-Tân tên Thébault cho biết, 10 ngày
trước khi rời Paris về thăm vợ con
ở đảo La Réunion, Duy-Tân có tiết lộ: Tôi
có linh cảm tính mạng bị đe dọa. V́ nước
Anh chống lại việc tôi trở về
Việt-Nam. Họ sợ các thuộc địa Anh
sẽ nổi lên đ̣i quyền độc lập và
tự trị. Họ đề nghị tặng tôi 30
triệu quan, nếu tôi từ bỏ ư định này.
Thời gian ở đảo
La Réunion, Duy-Tân đă nhiêu lần xin qua cư ngự
tại Pháp, nhưng đều bị từ chối.
Sau này khi hồ sơ lư lịch của Duy-Tân
được giải mật mới biết, bộ
trưởng bộ thuộc địa Pháp đă ghi
trong hồ sơ Duy-Tân rằng: . . parait difficile à
acheter, extrêmement indépendent . . . intrigue pour quitter La Réunion
et rétablissement trône l’annam. ( . . . Có vẻ khó
thuyết phục, hết sức đôc lập . . . có
mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion và
để tái lập ngôi báu ở Viêt-Nam).
Vua
Hàm-Nghi: 1872 – 1943
Trị V́: 1884 – 1885
BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI PHÁP ĐÔ
HỘ:
Vua Kiến-Phúc mất năm
1884, triều đ́nh đưa em là hoàng tử Ưng-Lịch
12 tuổi lên ngôi, vương hiệu Hàm-Nghi. Khâm
sứ Pháp ở Huế bấy giờ là Rheinart,
khiển trách triều đ́nh ta đă tự ư đứa
Hàm-Nghi lên ngôi mà không xin phép người Pháp trước.
Pháp cử đại tá Guerrier đem 600 quân và đội
pháo binh hùng hậu vào Huế bắn thị uy.
Triều đ́nh ta phải thương lượng
để làm lễ tân phong Hàm-Nghi lại và mời
Rheinart cùng Guerrier tới dự, Pháp mới bằng ḷng
và rút quân cùng đội pháo binh ra Hà-Nội.
Điều này khiến
triều đ́nh ta rất bất măn, muốn tổ
chức kháng chiến chống chống Pháp. Nhưng
nội bộ lại chia rẽ: bên “hoà”, bên
“chiến”. Bên muốn “hoà” để được
yên ổn có Trần-Tiến-Thành, Nguyễn-Hữu-Độ
. . . Bên muốn “chiến” để giữ chủ
quyền có Tôn-Thất-Thuyết, Nguyễn-Văn-Tường
. . .
Bên “chủ chiến”
với danh nghĩa “phù chánh kháng Pháp” đă hạ
nhóm “chủ hoà”. Từ đó những phong trào kháng
Pháp do Tôn-Thất-Thuyết cổ vơ và ngầm
yểm trợ đă nổi lên nhiều nơi.
Tướng De Courcy từ
Hà-Nội đem 1,000 quân vào Huế, nói để
hội thảo với triều đ́nh ta, nhưng
ngụ ư để bắt Tôn-Thất-Thuyết.
T.T.Thuyết biết ngầm ư của Pháp nên nói
ốm không đi dự hội nghị. Tướng De
Courcy ra lệnh: “Ốm cũng phải nằm cáng mà
tới!” Tôn-Thất-Thuyết vẫn không tới, tướng
De Courcy quyết định sẽ vây bắt
T.T.Thuyết vào sáng ngày 6 tháng 7, 1885. Nhưng
T.T.Thuyết biết trước nên đă ra lệnh
cho nghĩa binh ta tấn công đồn Mang-Cá và
sứ quán Pháp ở Huế lúc 1 giờ sáng hôm
ấy. Cuộc tấn công quá gấp rút, thiếu
chuẩn bị nên thất bạI dễ dàng!
Tôn-Thất-Thuyết
đưa vua Hàm-Nghi rời khỏi hoàng thành,
xuống “Hịch” cần vương, dựng
cờ kháng Pháp. Văn nhân, nghĩa sĩ nhiều nơi
hưởng ứng. Nhưng những hoạt động
của ta rời rạc, không thống nhất, không
đồng loạt, nên từng nhóm, từng nhóm,
đều bị tiêu diệt! Cuộc kháng chiến
bị tan ră và chấm dứt khi tướng Phan-Đ́nh-Phùng
chết lúc ông đang lănh đạo cuộc nổi
dậy ở Hương-Khê, tỉnh Hà-Tĩnh năm
1895.
Khi vua Hàm-Nghi ra khỏi hoàng
thành, 3 năm sau Pháp mua chuộc được Trương-
Quang-Ngọc và Nguyễn-Đ́nh-Tŕnh (cựu cận
vệ của vua Hàm-Nghi), Pháp đă bắt được
vua Hàm-Nghi ngày 1 tháng 11, 1888 và đầy đi Algérie.
Ở Algérie, Pháp dành cho Ngài một biệt thự khá
tiện nghi, tên “Villa Des Pins” (Biệt Thự Đồi
Thông). Ở đây, cũng v́ mang nặng t́nh cố
quốc nên mỗi khi có các viên chức chính quyền
hay văn nhân địa phương tới thăm
viếng, Ngài luôn khăn đống áo dài thâm ra
tiếp khách.
Sau một thời gían lưu
đầy, Hàm-Nghi nhận ra người Pháp ở
đây không đáng ghét như người Pháp
thực dân ở quê nhà. Hàm-Nghi thay đổi quan
điểm. Ngài bắt đầu học tiếng Pháp
và Ngài học rất mau.
Năm 1904, Hàm-Nghi ở
tuổi 32 cưới bà Marcelle Laloe 20 tuổi gốc
Pháp, con gái chánh án toà Alger (Alger là thủ-đô
của Algérie) Ngày Cưới, Hàm-Nghi cũng khăn
đống áo dài thâm đóng vai chú rể. Bà Laloe
lần lượt sanh cho Ngài 3 người con 2 gái, 1
trai đều mang tên Việt-Nam: Như-Mai, Như-Ly và
Minh-Đức. Lớn lên đều được giáo
dục tại Pháp. Sau này công chúa Như-Lư kết hôn
với một quư tộc Pháp, trở thành bà bá tước
De La Besse, cùng chồng sống tại lâu đài De La
Nauche, làng Chabrignac, Hoàng tử Minh Đức th́ vào trường
vơ bị “Saint Cyr” – một trường sĩ quan
nổi tiếng của Pháp (Tương tự như
trường “West Point“ của Hoa Kỳ). Minh-Đức
đă phục vụ trong quân đội Pháp 10 năm.
(Thời Pháp đô hộ VN, nhiều sĩ quan ngườI
Việt đă tốt nghiệp tại trường này).
Vua Đồng-Khánh: 1864 – 1889
Trị
V́: 1885 – 1889
Khi vua Hàm-Nghi ra khỏi hoàng-thành
năm 1885, Pháp đưa hoàng tử Ưng-Kỷ lên
ngôi vương hiệu Đồng-Khánh.
Việt-Nam đă bị
chia làm 3 mảnh có đời sống và thể
chế riêng biệt, như: Nam-Kỳ là “thuộc
địa”, mọi thể chế và đời
sống giống như mẫu quốc Pháp.
Bắc-Kỳ “gần như là thuộc địa”
và Trung-Kỳ là “bảo-hộ” (V́ nơi đây có
nhà vua). Nhưng người Pháp đă áp dụng
chế độ “thuộc-địa” và
“bảo-hộ” bằng một chế độ
“trực-trị” rất hà khắc.
Đồng-Khánh lên ngôi c̣n
phải kư nhượng cho Pháp mọi quyền hành
ở 3 thành phố quan trọng là Hà-Nội,
Hải-Pḥng và Đà-Nẵng, nên 3 thành phố này cũng
trở thành 3 thành phố có thể chế như
Nam-Kỳ và mẫu quốc Pháp. Sau khi Nhật đảo
chánh Pháp, Ba thành phố này đă được toàn
quyền Tsuchihashi (Nhật) trao trả cho chính quyền
Trần-Trọng-Kim ngày 20 tháng 7, 1945 và trao trả
Nam-Kỳ ngày 8 tháng 8, 1945.
Bốn năm sau Đồng-Khánh
mất, Pháp đưa hoàng tử Bửu-Lân 10
tuổi lên ngôi, vương hiệu Thành-Thái.
Vua
Thành-Thái: 1879 – 1955
Trị V́: 1889 – 1907
Lớn lên, Thành-Thái có
nhiều bất măn và hay chống đối người
Pháp. Có lần Ngài không chịu phê chuẩn một
danh sách các quan chức Việt-Nam do khâm sứ Pháp Lévêque
chọn. Từ đó Pháp càng khó khăn và kiểm soát
Thành-Thái nhiều hơn, làm cho Thành-Thái càng bất măn
nhiêu hơn. Trước mặt người Pháp, Thành-Thái
hay nóng giận, lớn tiếng. Lúc khác lại tỏ
ra bất cần và thờ ơ như người
đăng trí, mất trí. Dịp này Pháp đổ
cớ nhà vua điên và buộc các quan trong triều dâng
“Biểu” yêu cầu vua thoái vi. Tất cả các
quan đều kư “Biểu”, riêng Ngô-Đinh-Khả
(Thân sinh Ngô-Đ́nh-Diệm) không chịu kư, Pháp
lại áp lực triều đ́nh cho Ngô-Đinh-Khả
nghỉ hưu sớm không lương, viện cớ
ngài xây thánh đường không xin phép. Ngô- Đ́nh-Khả
về sống ẩn tại nguyên quán xă Đại
Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh.
Sau này Thành Thái cũng
bị đi đầy cùng với Duy-Tân ở đảo
La Réunion, khi Pháp biết Ngài đă liên lạc với
VN Quang Phục hội.
Khi Duy-Tân và Thành-Thái đi
đầy, Pháp đưa hoàng tử Bửu-Đảo
lên ngôi, vương hiệu Khải-Định.
Vua
Khải-Định: 1885 – 1925
(Và toàn-quyền Albert Sarraut)
Trị V́: 1916 – 1925
Sư bà Diệu-Không
tiếp: Sau này thân sinh tôi gả chị tôi cho vua
Khải-Định nên vẫn được tin dùng
như trước. Tuy được gả cho vua
mới , nhưng t́nh người con gái vẫn c̣n lưu
luyến mối t́nh đầu với vua cũ không
nguôi!
Năm 1922, Khải-Định
và hoàng tử Vinh-Thụy qua Pháp để thưởng
ngoạn cuộc triển lăm hàng hóa tại Marseille.
Dịp này, Khải Định có đ̣i hỏi Pháp
phải cho người Việt được tham gia
chính trị nhiều hơn. Nhưng không kết
quả ǵ!. Chuyến đi này, hoàng-tử Vĩnh-Thụy
(Bảo-Đại) được cựu khâm-sứ
Francois Charles nhận là con nuôi cho ăn học tại
một trường trung học (Lycée Condorcet) và 2 năm
trường Khoa-Học Chính-Trị (École des Sciences
Politiques) ở Paris.
Năm 1925, vua khải Định
mất, Duy-Tân từ đảo La Réunion gửi về
2 câu điếu: Ông vội bỏ đi đâu?
Bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bổ con,
bỏ thày tu hát bội, bỏ tất cả trần
duyên trong một lúc! Tôi may c̣n lại đây! C̣n
trời, c̣n đất, c̣n nước, c̣n non, c̣n anh
hùng hào kiệt, c̣n nhiều “vận-hội”
giữa năm châu!
Khải Định
mất, Pháp đưa hoàng tử Vĩnh-Thụy 12
tuổi (Đang học ở Pháp) lên ngôi, vương
hiệu Bảo-Đại. Sau khi lên ngôi, Bảo-Đại
trở lại Pháp tiếp tục học. Cho đến
năm 1932, khi Bảo-Đại 19 tuổi mới
trở về Việt-Nam và chính thức làm việc
với tư cách một ông vua.
Vua
Bảo- Đại: 1913 – 1997
Trị V́ lần thứ I: 1926 – 1945
Và lần thứ 2: 1949 – 1955
Bảo-Đại đă
sắp xếp lại việc triều chính, thay đổi
một số thượng thư già yếu. Hủy
bỏ một số tạp tục, như thần dân
không phải quỳ lậy mà được ngước
nh́n khi nhà vua đi tới, quan Ta không phải qú
lạy, mà chắp tay vái. Quan Tây không phải chắp
tay vái mà bắt tay nhà vua. Các địa phương
không phải dâng hiến gái đẹp cho nhà vua.
THẾ CHIẾN 2 VỚI
NHIỀU BIẾN ĐỔI:
- Nhật đảo chánh
Pháp ở Đông Dương. Mặc dù quân Nhật
đă đổ bộ vào Việt-Nam từ năm
1940, nhưng cuộc đảo chánh măi đến 7
giờ tối ngày 9 tháng 3, 1945; mới bắt đầu
(tức lúc dân Hà-Nội bắt đầu nghe
tiếng súng), đến 7 giờ sáng ngày 10 tháng 3,
1945 (tức lúc hết nghe tiếng súng), do đô đốc
Decoux, toàn quyền Pháp ở Đông- Dương
chịu đầu hàng. Cuộc đảo chánh kéo dài
12 tiếng đồng hồ, nhưng không ai biết
về “tử thương” và “bị thương”
của hai bên.
- Lăm tháng sau, tức 15
tháng 8, 1945; Nhật-Hoàng tuyên bố đầu hàng
Đồng-Minh, sau khi bị 2 trái bom nguyên tử lên
đảo Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945; và đảo
Nagasaki ngày 9 tháng 8, 1945.
- Việt-Minh thành công
cuộc cách mạng 19 tháng 8, 1945; Cuộc cách mạng
không đổ một giọt máu, v́ một bên không
chống lại và vua Bảo-Đại, cùng thủ tướng
Trần-Trọng-Kim đă từ chối đề
nghị của tư lệnh quân đội Nhật giúp
chống lại Việt-Minh. Và ngày này trở thành
một trong những ngày lễ lớn của đảng
Cộng Sản VN (Coi thêm*).
- Hoàng đế Bảo-Đại
bị ép thoái vị ngày 25 tháng 8, 1945. Lễ chính
thức thoái vị và trao quốc ấn cùng thanh
kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện chính
phủ Việt-Minh ngày 30 tháng 8, 1945. Sau khi thoái
vị, Bảo-Đại mới biết Hồ-Chí-Minh
là Nguyễn-Áí-Quốc, và Bảo-Đại đă
thốt lên câu: ”Ca vaut biên le coup alors” (như
thế th́ củng đáng thoái vị). Phải chăng
do lời nói “đẹp” này của Bảo-Đại
mà ít ngày sau ông được mời làm cố
vấn tối cao cho chính phủ lâm thời?
- Tháng 3, 1946; nhân dịp
tham dự phái đoàn thăm viếng Trung-Hoa, nhưng
sau đó Bảo-Đại không về nước, và
Ngài bắt đầu sống lưu vong ở Côn-Minh,
Hương-Cảng rồi Hồng-Kông. Ở nơi
đây có nhiều giới chức chính trị Pháp,
Mỹ và Việt gặp Ngài để rồi có ngày
Ngài lên ngôi lần thứ hai.
- Duy-Tân tử nạn, nên
tướng De Gaulle cũng thất bại việc
đưa Duy-Tân trở lại ngôi hoàng đế
Việt-Nam vào đầu tháng 3, 1946. Cho đến 3 năm
sau, tức tháng 3, 1949; tổng thống Pháp Vincent Auriol
cùng cựu hoàng Bảo-Đại đă kư một
hiệp ước ở điện Elysée (dinh tổng
thống Pháp) việc thành lập một chính phủ
Việt-Nam trong Liên-Hiệp-Pháp gọi là
“Quốc-Gia Việt-Nam” (État Du Việt-Nam).
*Nói thêm về ngày 19 tháng
8, 1945: Tôi (Người viết) ngày ấy c̣n nhỏ,
không biết ǵ về chính trị, và các đảng
phái. Nhưng những năm sau, ông Thân-Sinh tôi kể
chuyện với bạn bè ông, mà tôi nghe được.
Ông kể: Ngày 19 tháng 8, 1945; là ngày Quốc-Dân-Đảng
tổ chức và mời đảng Cộng-Sản
tham dự với t́nh ‘’Huynh Đệ’’ trong cùng
một nước. V́ trước đó cả hai
đảng: Quốc-Dân-Đảng và Cộng-Sản-Đảng
đều biết đến sự hiện diện
của nhau trong cùng một nước, và có cùng
một mục đích chống ngoại xâm.
Ngày ấy, người
của Quốc-Dân-Đảng chuẩn bị không
nhiều. Chỉ thực hiện một khán đài và
bài diễn văn để tuyên bố ngày “Độc-Lập
của Việt-Nam“. Nhưng đảng
Cộng-Sản (được mời) th́ chuẩn
bị nhiều và rất chu đáo. Khi cuộc mit ting
bắt đầu, người của đảng
Cộng-Sản lên ‘’dành’’ khán đài, cờ
đỏ sao vàng dâng cao, biểu ngữ tung ra,
khẩu hiệu hô lớn. Những người
của Quốc-Dân-Đảng bị dành khán đài
quá bất ngờ, nên không kịp có phản ứng ǵ.
Bởi vậy cuộc mit ting trở thành của đảng
Cộng-Sản – mà họ gọi đó là cuộc
‘’Cách-Mạng’’. Dân chúng ngày ấy chỉ
thấy cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ,
khẩu hiệu và diễn văn đều là
những danh từ của đảng Cộng Sản.
Đặc biệt lần đầu tiên, sau 1000 năm
đô hộ bởi người Tầu, 100 năm
đô hộ bởi người Tây, dân chúng VN
được nghe những danh từ: Dân Chủ,
Cộng Ḥa, Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc .
. . là những danh từ rất hấp dẫn và lôi
cuốn sự quan tâm, chú ư của mọi người
dân – mà họ gọi đó là một “Thành Công”.
Gọi tóm tắt là: “Cách-Mạng Thành-Công”.
Khi lớn lên, tôi (người
viết) mới biết ông Thân Sinh tôi là một đảng
viên Quốc-Dân-Đảng. Và nhớ lại từ
sau ngày 19 tháng 8 ấy; ông sống trong trạng thái
bồi hồi, âu lo. Tôi thắc mắc nhưng không
giám hỏi. Sau này tôi được biết, tất
cả đảng viên Quốc Dân Đảng, không thân
thiện với chính quyền mới đều bị
thủ tiêu hay hành hạ. Ông Thân Sinh tôi bị
cảnh cáo (có lẽ nhờ bên ngoại. Nhưng ông
Chú ruột tôi bị làm nhục bằng cách dẫn
trên đường phố và giới thiệu với
đồng bào bằng những lời khó nghe! (nhưng
đồng bào hiểu và thông cảm).
Về những toán OSS (
Office of Strategic Services / Sở Công-Tác-Chiến-Lược
/ Là tiền thân của Trung-Ương-Tỉnh-Báo
CIA). Ngày 16 tháng 7, 1945; một toán OSS 7 người
đă nhẩy dù xuống biên giới Việt-Hoa,
rồi di chuyển xuống Tân-Tạo, tỉnh Thái-Nguyên.
Họ t́m gặp ông Hồ-Chí-Minh, rồi huấn
luyện quân sự và yểm trợ cho những
lực lượng của ông Hồ.
Hai tuần sau ngày “Cách-Mạng
Thành- Công”, một cuộc mit ting ở Vườn-Hoa
Ba-Đ́nh (Sau gọi là Quảng-Trường Ba-Đ́nh),
ông Hồ-Chí-Minh lên diễn đàn đọc bản
“Tuyên Ngôn Độc Lập”. Theo thiếu tá
Archimedes Patti (người chỉ huy nhiều toán OSS),
đă gặp ông Hồ-Chí-Minh nhiều lần, đă
nói chuyện với tướng Vơ-Nguyên-Giáp và tướng
Chu-Văn-Tấn. Và đă giúp cho ông Hồ việc
soạn thảo bản “Tuyên Ngôn Độc
Lập” mà ông Hồ đọc ngày 2 tháng 9, 1945. V́
thế trong bản tuyên ngôn này, đoạn đầu
có những câu đă có trong bản Tuyên-Ngôn Độc-Lập
của Hoa-Kỳ, đọc ngày 4 tháng 7 (Fourth July),
1776 tại Philadelphía. Những câu đó là: Tất
cả mọi người sanh ra đều có quyền
b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được. Trong
những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc.
It ngày, sau khi đọc
bản Tuyên-Ngôn-Độc-Lập, ông Hồ-Chí-Minh
mới xác nhận với thiếu tá Allison Kent Thomas
(Một trong những trưởng toán OSS) rằng, ông
là người của “cộng sản quốc
tế”. Từ đó ông Hồ thay đổi tư tưởng
và hoạt động nghiêng hẳn về công
sản. Nên Mỹ cũng chấm dứt việc
huấn luyện và yểm trợ cho những lực lượng
của ông Hồ, mà Mỹ yểm trợ mạnh
mẽ cho Pháp ở Đông-Dương. Từ đó
người ta thấy rất nhiều quân dụng và
lương thực . . . mà quân đội Pháp dùng
ở Đông-Dương đều có nhăn hiệu
“USA”.
Bảo-Đại lên ngôi
hoàng đế lần thứ 2: Ngài về nước
tháng 4, 1949. Thời gian này, Ngài làm việc tại
một biệt điện ở Đà-Lạt. Xung
quanh nơi Ngài ở và làm việc, có một trung
đoàn ngự-lâm-quân bảo vệ. Từ năm 1949
đến năm 1954, Bảo-Đại đă thay
đổi 6 đời thủ tướng: Thủ tướng
Nguyễn-Văn-Xuân, Nguyễn-Phan-Long, Trần-Văn-Hữu,
Nguyễn-Văn-Tâm, Hoàng-Thân Bửu-Lộc và Ngô-Đ́nh-Diệm.
Thủ tướng Ngô-Đ́nh-Diệm
là người đă chấm dứt Triều
Nguyễn bắt đầu từ năm 1802, thời
vua Gia-Long, và lối tiếp gồm 13 đời vua.
Ngô-Đinh-Diệm thành
lập và cải tổ chinh phủ từ tháng 9, 1954.
Trong thời kỳ đầu, thủ tướng
Diệm không có thực quyền đối với quân
đội do trung tướng Nguyễn-Văn-Hinh,
tổng tư lệnh. Không những tướng Hinh không
chịu dưới quyền thủ tướng
Diệm, mà cả bộ máy quan chức dân sự
của thủ tướng Diệm cũng tỏ ra không
phục tùng ông, v́ các viên chức Pháp c̣n nhiều,
họ
Ngô-Đ́nh-Diệm:
1901 – 1963
Thủ Tướng: 6/1954 – 10/1955
Tổng Thông: 10/1955 – 11/1963
nắm giữ các chức
vụ quan trọng. Trung tướng Nguyễn Văn
Hinh c̣n cấu kết với lực lượng Lê-Văn-Viễn
(Bẩy-Viễn) chống lại chính phủ trung
ương. Tướng Hinh báo cáo cho Bảo-Đại
ở Pháp về những bất phục tùng của ông
đối với Ngô-Đ́nh-Diệm. Bảo Đại
điện gọi ông Diệm sang Pháp tŕnh bầy. Nhưng
thủ tướng Diệm coi tướng Hinh là
vấn đề của Việt-Nam, phải giải
quyết tại Việt-Nam, và ông từ chối đi
Pháp. Bảo-Đại liền điện về cách
chức thủ tướng Diệm. Đáp lại: Ngày
4 tháng 10, 1955; thủ tướng Diệm thành lập
một ủy ban “Trưng Cầu Dân Ư”. Ủy ban này
họp và quyết định tổ chức bỏ
phiếu truất phế Bảo-Đại vào ngày 23,
tháng 10, 1955. Kết quả được công bố
ngày 26 tháng 10, 1955 với gần 6 triệu phiếu
“Truất Phế Bù-Nh́n Bảo-Đại” và suy tôn
Ngô-Đinh-Diệm lên tổng thống của nền
đệ nhất cộng ḥa. Từ đó, ngày 26 tháng
10, gọi là ngày “Quốc-Khánh / Tết Độc-Lập”.
Từ khi vua Bảo-Đại
bị truất phế, Ngài sống lưu vong, nay đây
mai đó trên nước Pháp. Gọi là lưu vong, nhưng
thực sự khi c̣n tại chức, Ngài đă luôn
sống tại Pháp. Lúc này, Ngài sống rất phóng túng,
hoang phí và không đoái hoài ǵ đến gia đ́nh
– vợ con.
Thời kỳ này cũng là
thời kỳ bức xúc nhất của Nam Phương
Hoàng Hậu. Bà muốn xa lánh kinh thành ánh sáng Ba-Lê, và
cũng
Nam-Phương
Hoàng-Hậu
Nguyễn-Hữu-Thi-Lan/Marie Thérèse
1926 – 1963
để tránh mặt
giới báo chí cùng những người quen biết. Năm
1958, bà mua điền trang La Perche 160 mẫu tây,
với ngôi nhà xây đá, lợp ngói, gồm 36 pḥng.
Ở đây bà nuôi thêm 100 con ḅ sữa.
Một chuyện không định
mà sẩy ra. Hai bà hoàng của cuối triều
Nguyễn từ đất nước Annam xa xôi,
lại ngẫu nhiên trở thành “láng giềng”
ở một miền quê hẻo lánh nhưng thơ
mộng của Pháp quốc – điền trang La Perche
(của NPHH) nằm cạnh lâu đài De La Nauche
(của công chúa Như-Lư). Một điều lạ
khác: Công chúa Như-Lư, trên quan hệ bà là cô
chồng của Nam-Phương Hoàng-Hậu (Cô
Bảo-Đại). Là cô cháu, là láng giềng trong
suốt 5 năm, nhưng hai bà không một lần
gặp mặt thăm hỏi! Năm 1963, Nam-Phương
Hoàng-Hậu bị chứng viêm cuống họng
cấp tính, bà nghẹt thở và đột ngột
qua đời ở tuổi 49. Thi hài bà cũng
được an táng tại nghĩa trang của ḍng
họ De La Besse. Lúc sinh tiền, hai cô cháu không một
lần thăm hỏi! Nhưng “nghĩa tử là nghĩa
tận”, nên đám tang của Nam Phương Hoàng
Hậu, cũng có mặt công chúa Như-Lư trong ḍng người
đưa đám.
(Người Viết mong
sau này có dịp sẽ viết về “Cuộc Đời
và Cuộc T́nh” của Nam Phương Hoàng Hậu).
Sau này công chúa Như-Lư
đă cải táng vua cha Hàm-Nghi từ Algérie về nghĩa
trang này. Rồi hài cốt công chúa Như-Mai (Chị
Như-Lư) và hoàng tử Minh-Đức (Em trai Như-Lư)
cũng lần lượt được đưa
về đây. Năm 2000, công chúa Như-Lư đă có
kế hoạch cải táng vua cha Hàm-Nghi và các thành viên
của triều Nguyễn ở đây về Huế,
Việt-Nam, nhưng chưa kịp thực hiện th́
năm 2005, công chúa Như Lư cũng qua đời. Nghĩa
trang của gia đ́nh De La Besse, làng Charbrignac, xa xôi
hẻo lánh, cách Paris 500 km, hướng cực Tây-Nam
Pháp quốc, không định mà trở thành “nơi
an nghỉ” của một bộ phận thuộc hoàng
tộc triều Nguyễn Việt-Nam.
CUỘC ĐỜI DUY-TÂN
ĐĂ BAO LẦN DANG DỞ?
- Dang dở v́ đă hy sinh
mối t́nh đầu để tránh mối họa có
thể sẩy ra cho gia đ́nh người ḿnh yêu!
- Dang dở v́ đă hy sinh
ngai vàng của ḿnh cho tiền đồ đất nước.
- Dang dở v́ một tai
nạn (hay mưu sát) để mất đi cơ
hội trở về phục vụ quốc dân!
Vài Giai-Thọai Về Duy-Tân:
- Một hôm vua Duy-Tân ra
bến Phú-Vân-Lâu câu cá, có thượng thư
Nguyễn-Hữu-Bài đi cùng. Ngồi lâu không có cá
cắn câu. nhà vua buồn, bèn xuất khẩu một
câu đối cho Nguyễn-Hữu-Bài:
- Ngồi trên nước
không cầm được nước, trót buông câu nên
lỡ phải lần”.
Thượng thư
Nguyễn-Hữu-Bài suy nghĩ một hồi lâu
mới đáp:
- Nghẫm việc đời
mà ngán cho đời, đành nhắm mắt tới
đâu hay đó”.
- Duy-Tân có lần phê phán
Nguyễn-Hữu-Bài là người cam chịu số
mệnh. Nhà vua nói, theo ư trẫm sống như
thế buồn lắm! Sống phải có ư chí vượt
khó khăn, gían khổ th́ đời mới có ư nghĩa!
- Ngày 5 tháng 12, 1992; thành
phố Saint Denis, đảo La Réunion (nơi Duy-Tân / Vĩnh-San,
đă bị đầy 29 năm), khánh thành một
đại lộ được mang tên “Đại
Lộ Vĩnh-San”.
Những lời nói đẹp
của Bảo-Đại:
Trong buổi lễ thoái
vị ngày 30 tháng 8, 1945; Bảo-Đại đă tuyên
bố một câu nổi tiếng: “Thà làm dân một
nước độc-lập c̣n hơn làm vua một
nước nô lệ” (Do Phạm Khắc Ḥe viết
trước cho Bảo-Đại).
Năm 1996, bác sĩ Pháp
giải phẫu mắt cho Ngài thành công tốt,
một đoàn thể chính trị tới chúc mừng
cho ngài và mời Ngài tham dự đoàn thể với
tư cách lănh tụ. Nhưng Ngài khua tay nói (tiếng
Pháp) như van nài: “S’il vous plait, laissez-moi vivre et
mourir en paix” (Xin quư vị cho tôi được
sống và chêt trong b́nh yên).
Việt-Nam Cộng-Ḥa
Ngày VN Veterans of America
Tại Raleigh, NC Năm 2007.
Cao Văn Tâm
Sinh-Viên SQ Công-Binh 1961.
Sưu Tầm & Tóm Lược/Cao Văn Tâm/CB
|