HƯƠNG DON Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích |
Don
là món ăn độc đáo của tỉnh Quảng
Ngăi. Một món ăn đă nối kết t́nh yêu trên
đất khách, gắn bó t́nh người với quê
cha đất tổ. Người Quảng Ngăi có lưu
lạc bất cứ nơi đâu vẫn luôn nhớ
về DON
Don là loại ốc sống ở cuối ḍng sông
Trà Khúc gần cửa biển, thường được
gọi là vùng nước
chè hai. Trên toàn cơi Việt Nam chỉ tỉnh Quảng
Ngăi mới có nhiều loại ốc nầy.
Don có mùi thơm như hến nhưng dịu hơn,
nước ngọt hơn. Don không giống hến,
vỏ Don dài như loại “ốc đ̣n xóc”
rất mỏng có sắc nâu hồng. Ruột don dài có
những tua hồng bao quanh.
* * *
Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm cơ
sở làm ăn của gia đ́nh. Nào pḥng mạch nha
sĩ của đứa con trai đầu ḷng, pḥng
dịch vụ về Bảo lănh Di trú của đứa
con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa. Nhà hàng đồ biển có tên Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm uất nhất của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng hơi vắùng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quầy thu tiền. Người bồi bàn trao cho chúng tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người Quảng Ngăi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa biển từ hai ḍng sông Trà Khúc và Sông Vệ nhập vào. Nơi đây thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ.
Trong tờ thực đơn có món “Hến xúc
bánh tráng”. Nh́n thấy hến ḿnh lại nhớ
đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ
thực đơn, tôi gọi ngay cho ḿnh một tô don.
Cô bồi bàn giọng miền Nam nh́n tôi ngạc nhiên
hỏi:
- Don là món ǵ vậy, nghe lạ quá hỡ ông ?
Thực đơn nhà hàng này không có món đó. -
Cái món “Hến xúc bánh tráng” trong thực đơn
có ghi, tại sao lại không có món don ?
Tôi vừa cự nự ( kiểu Quảng Ngăi hay
co) vừa chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột
hến, rồi tiếp: Cô
gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau đó, một
phụ nữ đứng tuổi ăn mặc sang
trọng từ quầy thu tiền đi thẳng đến
bàn chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm nổi bật
khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn
da mịn màng. Thung khều chân tôi nói nhỏ : “Bà
chủ” -
Chào hai anh. Người đàn bà nở nụ cười
thân thiệân . -
Chào bà chủ, Thung đáp lễ. -
Vị nào thích món don ? bà chủ tươi cười
hỏi. -
Thưa bà, tôi ạ.
-
Xin lỗi, anh người
quê Quảng Ngăi ? -
Tại sao bà biết ? - Tôi chỉ đoán thôi, bởi v́
chỉ có dân sống tại Quảng Ngăi mới
thấy thích thú món don.
Thế bà cũng là người Quảng Ngăi,
đúng không? -
Anh nghĩ sao mà đoán ra thế? -
Chỉ nh́n cái tên hiệu Cổ Lũy của nhà
hàng là biết ngay. -
Nầy ông anh , trước kia ở Quảng Ngăi, anh
sống ở huyện nào vậy? -
Tôi ở thị xă, trên đường Quang Trung. Người
đàn bà nh́n tôi một chặp lâu rồi quay vào bên
trong nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng
ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa
ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi
tôi mới nghe lại mùi hến. Hến ở quê nhà
ruột nhỏ, dai và thơm. C̣n hến đóng
hộp nhập cảng con lớn, mềm lại
mất hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần
đi Huế, tôi nhất định phải ăn cho
được một lần cơm hến. Đi
đâu xa trở về Quảng Ngăi, tôi không thể nào
quên ăn một bữa don cho đă cơn ghiền. Cô
bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt đến
bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có kèm theo
một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh
thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng
mời riêng tôi đến nhà vào chiều Thứ
Bảy. Đặc biệt, bà khoản đăi món don
do bà nấu. Phần dưới là số phone và địa
chỉ nhà riêng.
Trên đường về, tôi hỏi Thung.
- Cậu nghĩ
sao cái trường hợp lạ lùng này ?
- Ở quê người,
nhớ cố hương, gặp người Việt
đă mừng rồi huống chi lại là đồng
hương Quảng Ngăi. Bà ấy mời cậu đến
nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con
ở quê nhà. Cứ nh́n dáng dấp bà ấy với cái
cơ ngơi nầy là cậu hiểu ngay bà ta là dân
trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ may
đem đến cho cậu công ăn việc làm
ở thành phố này. Bạn tôi suy luận như
thế. Riêng tôi, v́ lạ đất lạ người
nên có phần bồn chồn, áy náy.
* * *
Hương vị của món hến xúc bánh tráng
làm tôi nhớ đến kỷ niệm ngày mới
lớn nơi quê nhà. Tôi từ trên quê xuống
tỉnh học, ở trọ nhà người chị
thứ Tư trên đường Quang Trung Thị xă
Quảng Ngăi. Anh chị dành cho tôi căn pḥng trên căn
gác lửng. Có ban-công nhô ra làm mái hiên cho tầng dưới.
Thông thường mỗi sáng, tôi thức dậy
học bài rất sớm. Đường phố
vẫn c̣n sương mù vướng mắc đó
đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng
những hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm
trong ṿm lá sum sê. Khi chân trời vừa rựng đỏ
khuất sau hàng tre hướng Đông, là tiếng rao
hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước
đường nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc, cháo
gà, bánh canh, bánh ḿ... đủ các loại hàng ăn
vặt, và cũng đủ các loại âm thanh.
Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn,
giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam... Duy có
tiếng rao : “Ai ăn don ho..o..o.. ông” là khiến tôi
để ư. Tiếng “ho..o..o..ông” sau cùng kéo dài không
đủ hơi chứng tỏ người rao hàng không
phải giọng của người đứng
tuổi. Tiếng rao nghe lánh
lót như chim non mới tập hót, âm điệu
ngây thơ rời rạc. Tôi ngồi học mà
vẫn để ư đến tiếng rao bán don vang lên
trước nhà. Tiếng rao như bị sương
lạnh buổi sáng sớm làm quánh lại không thoát
ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần
rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng tập mấy
động tác hít thở trên ban-công, chợt
tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” quen thuộc vang lên
phía dưới đường. Tôi vạch bức mành
nh́n xuống thấy một người con gái mặc
chiếc áo bà ba trắng thân h́nh mỏng mảnh
với gánh don trên vai. “Ê
don”, tôi gọi cô nàng đứng lại rồi
vộïi vàng xuống thang gác. Gánh
don đă được đặt trước hiên nhà,
nàng đứng đó chờ tôi mở cửa.
-
Anh ăn don ? -
Anh ăn don?
Cô
bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh
trả lời : -
Không ăn don, kêu cô lại làm ǵ?
Cô bé chợt hiểu nở miệng cười
chữa thẹn khoe hàm răng trắng đều như
những hạt bắp nếp. Nụ cười
hồn nhiên khiến người đối diện cũng
thấy ḷng dạt dào, xao xuyến. Cô bé hai tay thoăn
thoắt múc don. Mùi don thơm nồng pha chút hương
biển từ ui don bay lên ngào ngạt. Cô bé trao cho tôi
tô don c̣n bốc hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng
và hai trái ớt xiêm tươi xanh. Ăn don đâu
cần phải bàn ghế. Tôi đặt bát don
xuống nền xi măng, bẻ bánh tráng bỏ vào tô
giằm luôn hai trái ớt. Nước
don ngọt và béo. Cái ngọt độc đáo không
phải vị ngọt của thịt, cá mà vị
ngọt rất đậm đà hương vị quê
hương. Lại thêm vị nồng cay của
ớt, mùi thơm của bánh tráng nướng nó
quyện vào lưỡi, ngấm vào chân răng, kích
thích tận cùng tế bào vị giác. Nước don
nuốt tới đâu ấm tới đó. Trời
lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng th́ mới thưởng
thức được hết cái thú ăn don ở quê
nhà. Miếng don cuối cùng để lại trong
miệng, trong cổ của ta vị ngọt ngọt,
cay cay, nồng nồng, thơm thơm quyến rũ
lạ kỳ. Nó khiến người ăn don không
muốn dừng ở tô thứ nhất.
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà v́ ớt cay. Cái
lưỡi tê tê, mắt mũi xông lên mùi cay nồng
của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho
nước mắt nước mũi tuôn ra.
Nh́n cách ăn rất thật t́nh của tôi, cô
bé cứ che miệng cười. Một tô, hai tô
rồi ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt,
đôi mắt bồ câu đen lay láy. Cô kêu lên : -
Coi chừng bể bụng đó, anh Hai ! - “Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó thành người lớn” . Mẹ
tôi cười, nhỏ nhẹ bảo :
- “Các chị lớn cả rồi c̣n em nó út ít
mà” . Chị tôi bực ḿnh bảo:
-“Chừng đó tuổi mà chưa chịu
dứt sữa. Chẳng lẽ đến khi đi
học, mẹ phải mang vú đến trường
cho Út sao ?”
Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ ṿ đầu
tôi, tóc c̣n ướt nhẹp mồ hôi, âu yếm :
-“ Giàu út ăn, khó út chịu”, “Mẹ có
sữa con nhờ”.
Cái ḥn đá bàn dưới bến sông, nơi
để giặt áo quần là chỗ ngủ của
tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót
gạch trước bàn thờ là giường ngủ
của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị
tôi thường hay đùa cợt: -“
Thằng Út cứ ăn chay nằm đất kiểu
nầy, lớn lên nó trở thành thầy chùa là cái
chắc”. Tôi là đứa
con thứ bảy trong gia đ́nh. Những tá điền,
người làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi
là cậu Bảy Út. Thế mà bác Tám Đang ở xóm
dưới dám đặt cho tôi biệt danh “Bảy
Thưa” chỉ v́ mấy cái răng cửa của tôi
mọc hơi sưa một chút. Cái thân h́nh của tôi
hồi đó mỏng như thân con nhái bén. Da dẻ
sần sùi khô khốc bởi suốt ngày cứ để
lưng trần chạy ngoài nắng. Mỗi lần
bạn bè rủ tôi đá banh trên ruộng lúa mới
cắt, chúng nó cứ la oang oang cái tên “Bảy Thưa”
nghe chẳng đẹp tư nào ấy:
- Nầy cô bé,
sao không múc tiếp một tô nữa?
- Anh à, em chưa hề thấy người nào
ăn đến ba tô don mà c̣n kêu thêm nữa, ăn
no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh,
Tiếng “nghe anh” của cô bé sao mà êm đềm
quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi đập
rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng
cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra
trả. Cô bé đi rồi, tiếng rao “Ai ăn don
ho..o..ông” đă văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn
c̣n đứng nh́n theo thẫn thờø.
Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao hàng rồi
đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi.
Tôi lại vội vàng mở cửa :
Cô bé trao tô don cho tôi, vô t́nh tôi đặt bàn
tay chạm phải tay nàng.
Bé cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng
rựng đỏ, Thuyền bảo :
- Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy là đủ
rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của
cô bé Thuyền. Thỉnh
thoảng chị tôi mua ốc don tươi về
nấu. Thông thường chị thêm vào nồi don
cả thịt bằm, tóp mỡ, nhưng tôi ăn
một cách lơ là chẳng thấy hấp dẫn tư
nào. Chị tôi
chế giễu: “ Thằng Út nó đâu có mê don, chỉ mê con
nhỏ bán don”.
- Người ta thấy ḱa, ăn đi kẻo
nguội .
Thế là suốt mùa don, cô bé Thuyền ít có
buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi đâm
ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt
ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường.
Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn
mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không
về quê lấy cớ học bài thi. Có lẽ
nhờ ăn don mà thân thể tôi đẫy đà. Da
dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị tôi
phát giác sự “thay da đổi thịt” của
thằng em út. Chị chế nhạo:
“Nghèo nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán
don. Mai sau có chết cũng c̣n cặp ui”
Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ
Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho tôi theo người anh
họ vào Sài G̣n tiếp tục học. Tôi từ
biệt Quảng Ngăi mà nghe ḷng ḿnh buồn tê tái. Tôi
ra đi lúc trời chớm Thu, những cơn mưa
đầu mùa đă làm cho nước sông dâng cao. Tôi
c̣n nhớ lời Thuyền dặn: “ Khi nào nước
sông dâng cao th́ don không c̣n nữa. Chừng ấy em
sẽ không c̣n dịp gặp anh, chỉ c̣n biết
hẹn anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm
lịch”.
Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng
trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong gặp nàng
để nói lời từ biệt. Giờ phút chót
ngồi trên xe đ̣ mà tôi vẫn dơi mắt đợi
chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe
chuyển bánh, mẹ và chị tôi mắt rưng rưng
lệ nắm tay tôi từ giă. Tôi không cầm
được xúc động đă ̣a khóc. Lần
đầu tiên tôi xa cha mẹ, xa gia đ́nh cách
gần ngàn cây số. Tôi cảm thấy nỗi cô
đơn như đè nặng lên lồng ngực ḿnh.
Tôi thương mẹ, thương chị. Nhưng t́nh
của tôi đối với Thuyền vừa nồng
nàn vừa xót xa. Tôi xót thương v́ cuộc sốùng
của nàng quá lam lũ. Tuổi vừa lên ba, cha
Thuyền đă tử nạn theo tàu đánh cá ngoài
khơi khi bị cơn băo bất ngờ ập
tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi
Thuyền ăn học hết bậc Tiểu học.
Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giă
ghế nhà trường, lăn lộn vào trường
đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh
bán dạo hàng ngày đi về trên mười cây
số. Những
đêm đầu tiên ở Sài G̣n, tôi nhớ day
dứt nụ cười rạng rỡ của
Thuyền. Nhớ đôi bàn tay nhỏ nhắn của
nàng run run trong bàn tay tôi. Nhớ đến hương
vị thơm lừng của tô don với chất béo
của ruột don trộn mùi cay nồng của
ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành lá tươi.
Nó tổng hợp thành hương vị không có món
ăn nào so sánh được. Don Quảng Ngăi
chiếm lĩnh cương vị độc tôn đối
với người dân Quảng Ngăi bởi nó là món
ăn quê hương. Và đối với riêng tôi có
pha cả mùi hương con gái của Thuyền. Xa
nơi chôn nhau cắt rún lần đầu, tôi
nhớ nhất là những chuyến đi chơi
với bạn bè trên núi Thiên Ấn. Sau một
hồi leo giốc mệt bở hơi tai, khát nước
khô cả cổ chỉ cần uống mấy ngụm
nước giếng của nhà chùa là cơn mệt cùng
mồ hôi tan đi hết. Có người bảo đó
là nước của Tiên Phật độ tŕ.
Một truyền thuyết kể rằng có một
vị sư đến đào giếng này suốt
cả năm trời, khi giếâng có nước th́
vị sư ấy biến mất. Ngôi chùa Thiên
Ấn tọa lạc trên đỉnh núi có mặt
bằng vuông vức, cao hơn mặt nước
biển trên trăm mét, nhưng nước giếng
trong và ngọt cung cấp cho chùa không bao giờ
cạn. Quả là điều rất hiếm.
Đây là “Đệ nhất thắng cảnh”
của quê nhà có tên là “Thiên Ấn Niêm Hà”do quan
Tuần Vũ Nguyễn Cư Trinh đặt tên trong mười
bài thơ Đường Luật. Mỗi bài ca
ngợi một thắng cảnh của tỉnh
Quảng Ngăi. Đứng
trên đỉnh núi nh́n bao quát ta thấy ḍng sông Trà
Khúc óng ánh bạc uốn ḿnh theo những lũy tre
xanh đến tận cùng cửa Cổ Lũy trước
khi nhập vào biển Đông. Nơi đây ta có
thể thưởng ngoạn thêm
“Đệ nhị Thắng cảnh” của quê
hương, đó là “Cổ Lũy Cô Thôn” nằm
im ĺm nơi cửa biển, nước bủa mênh mông.
Nh́n chệch qua bên trái là mũi Ba-Tâng- Gâng phơi ḿnh
với sóng băo đại dương. Để
hồn trải rộng đến cuối chân
trời, ta có cảm tưởng như người
được thoát tục về nơi tiên cảnh.
Kẻ nào có tham vọng, mang ư đồ đen
tối mà đối diện với cảnh sắc
nầy, trong thoáng chốc cũng tạm thời quên
đi.
Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận
được thư của chị tôi : “...Đầu
mùa don năm nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào
nó cũng đặt gánh don trước cửa nhà
chị. Lâu lâu nó rao lên “Ai ăn don hông” rồi
đứng đó đợi chờ. Người ta không
biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, th́
chị đoán biết. Thời gian kéo dài cả tháng
trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh
thoảng kêu don của nó cho cả nhà ăn buổi sáng.
Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nh́n sâu vào
trong nhà mà không dám hỏi. Một hôm, cầm ḷng không
được, chị cho nó biết là em vào Sài G̣n
học đă gần một năm. Sau đó chị không
c̣n thấy con bé bán don trên con đường nầy
nữa...” Đêm
đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng rao: “Ai
ăn don ho..o..ông” như tiếng chim cuốc lẻ
đôi khắc khoải gào khan suốt mùa Hè thương
nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống,
chung t́nh. Thuyền ơi, hăy tha thứ cho tôi.
Những rạo rực t́nh yêu đầu đời
đă làm cho con tim em phải
se thắt v́ phân ly. Rồi
thời gian trôi qua, ba năm miệt mài đèn sách
đă giúp tôi quên h́nh ảnh cô gái bán don ngày nào.
Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần, tôi về
thăm Quảng Ngăi. Vào buổị sáng, tôi dậy
sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm
cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi
nghe tiếâng rao “Ai ăn don ho..o..ông”. Tôi vội vàng
chạy ra ban-công gọi : -
Ê ! Cô bán don. -
Em để gánh xuống đây, múc don cho anh
ăn nhé. -
Không. Don em đă cuối mùa, gặp luồng nước
bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu. Nói
xong, nàng đưa tay
áo quệt nước mắt, trở gánh quay lại
con đường cũ. Tôi đứng nh́n theo nàng mà
nghe hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe
tiếng rao “ai ăn don ho..o..ông” lần cuối cùng
của Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng
khác nhưng tuyệt nhiên im lặng , chỉ c̣n sót
lại hương don thoảng bay trong gió. Chiều
Thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước căn nhà
số 28... trên đường White Forge thành phố
Sugarland. Căn nhà lầu ở khu mới xây khá đồ
sộ. Vách tường áp gạch màu nâu đỏ trông
thật mát mắt. Tôi đứng tần ngần
một hồi lâu mới bấm chuông. Người
phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước
mở cửa, gục đầu chào rồi mời tôi
vào khu pḥng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô-pha
da màu vàng nhạt choán cả một góc pḥng.
Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn karaoke với hệ
thống âm thanh chiếm trọn góc pḥng đối
diện. Bà chủ rót trà : -
Mời anh dùng nước,
nàng trao tôi tách nước rồi tự giới
thiệu:
- Tôi tên là Mary,
chồng tôi là người Mỹ đưa tôi sang
đây từ năm 1972. Xa quê ḿnh lâu quá, nay gặp
người đồng hương tôi mừng
lắm. Và đặc biệt là dân ở Quảng Ngăi
mà lại thích ăn don như anh.
- Bà ở huyện nào ? tôi ṭ ṃ hỏi : -
Huyện Tư Nghĩa xă Tư Nguyên.
Bà
Mary nh́n tôi định hỏi tiếp điều ǵ,
nhưng bà lại đổi thế ngồi, xoay người
sang hướng khác bưng b́nh trà rót thêm nước
vào tách cho tôi. Bà nói : - Thôi, để lát sau ḿnh nói chuyện tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà kẻo nguội mất. Tôi
theo nàng đến pḥng ăn. Mùi don từ trên bếp
bốc hơi thơm lừng. Bà chủ nhà bưng hai
tô don hơi lên nghi ngút đặt trên bàn có cả bánh
tráng nướng, đĩa ớt xiêm và lá hành tươi.
Tôi ăn ngon lành, ăn thật t́nh. Ớt cay, don nóng,
tôi hít hà , nước mắt nước mũi
chảy ra. Bà chủ nhà đưa tissues
cho tôi với ánh mắt đầy xúc động.
Một tô rồi hai tô, bà ngồi nh́n tôi ăn và
khuyến khích thêm tô nữa nhưng tôi vỗ
bụng lắc đầu từ chối. Nàng bảo : -
Anh sợ vỡ bụng đấy à?
Câu nói của bà chủ khiến tôi sực
nhớ đến Thuyền, cô gái bán don thời tôi c̣n
trung học ở Quảng Ngăi. Cô bé đă từ
chối bán cho tôi tô thứ tư với câu : “Coi
chừng bể bụng”. Tôi ngước nh́n bà Mary,
tâm sư ï:
- Ăn don hôm nay
khiến tôi nhớ đến kỷ niệm thời
niên thiếu ơ ûquê nhà. Tôi là khách ăn thường
xuyên của cô gái bán don tên Thuyền. Tôi thương
nàng và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới
mười mấy tuổi đầu đă phải
bỏ học thay Mẹ đi bán don dạo . Buổi sáng
nào Thuyền cũng gánh don đến trước nhà
tôi trọ học và chăm sóc tô don cho tôi như người
chị lo cho em. Sau
nầy tôi vào Sài G̣n học đă quên bẵng cô bé
bán don. Ba năm sau trở về Quảng Ngăi, tôi t́nh
cờ gặp lại nàng cũng với gánh don trên
vai, nhưng cô bé đă trở thành thiếu phụ.
Thuyền đă từ chối không bán don cho tôi c̣n
bảo... Vừa nói đến
đây, chợt bà Mary cướp lời tôi, lên
tiếng: - Thuyền phải không? Thuyền
ngày xưa không trả lời câu hỏi của tôi
chỉ đưa tay áo lau ḍng lệ. Mary bây giờ
với giọng ngậm ngùi:
- Cảm ơn anh đă cho em một t́nh cảm
trân quư, dù là đối với một cô gái bán don
nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối
về sau này, t́nh anh là ngọn đèn thắp sáng cho
em trong những đêm mịt mù sương tuyết.
Hạo ơi - cái tên nghe lạ quá -
ngày đó em đă nói với anh như thế.
Nhưng sau nầy mỗi khi gặp những đau
khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên
thân thương sưởi ấm ḷng em. Tôi
nắm lấy tay nàng, nói như một triết gia: Sau
buổi hàn huyên, Thuyền đưa tôi ra tận xe
khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi
thấy nàng c̣n quyến luyến nh́n theo, đưa
mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một
hơi thật sâu vào lồng ngực, chợt nghe hương
don c̣n nồng trong hơi
thở ./
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích |