NGŨ HÀNH SƠN

 „Hành Sơn đâu kém bồng lai

C̣n non nước đó, mến hoài nước non

Kỳ sơn bày sẵn năm ḥn

Ngắm tranh thiên tạo ḷng c̣n say sưa“

Năm 1888 Pháp lấy Đà Nẵng làm nhượng điạ, người ta gọi thành phố nầy là Tourane, Tou-han hay cửa Hàn...  Đà Nẵng là thành phố lớn nhất miền Trung với hải cảng chiến lược quan trọng là trung tâm kinh tế.  Đà Nẵng có sông Hàn, các băi biển Thanh b́nh, Mỹ Khê, Tiên Sa, Non Nước. Núi Sơn Trà cao 693 m, với rừng nguyên sinh rộng 4.370 ha có nhiều động vật quư như voọc chà và khỉ đuôi dài, gà mặt đỏ, núi xanh đậm quanh năm có mây trắng bay. Về hướng đông nam, năm ngọn núi ngạo nghể đứng giữa trời mây. Người ta thường gọi là núi Non Nước, nhưng c̣n nhiều tên khác trước đó như : „Ngũ Uẩn Sơn; Ngũ Chỉ Sơn; Núi Cẩm Thạch; Núi Tam Thai“. Đầu thế kỷ thứ 19 vua Minh Mạng đặt tên là Ngũ Hành Sơn ( Les Montagnes De Marbre - Die Berge der Fuenf Elemente)  cho đến ngày nay.    

 Ngũ Hành Sơn cách xa Đà Nẵng khoảng 7 km, Du khách thường viếng thăm, Ngũ Hành Sơn thuộc đông bắc làng Ḥa Quế, quận Điện bàn tỉnh Quảng nam (từ năm 01-01-1997 Ngũ Hành Sơn được đổi tên thành một quận của thị xă Đà Nẵng là Quận Ngũ Hành Sơn rộng 36,5 Km2). Ngũ Hành Sơn màu sắc thay đổi theo thời gian sáng chiều, từ màu lục sang màu xám hay đen, đó là những nét đặc thù độc đáo.

  Ngũ Hành Sơn nằm giữa vùng cát trắng mịn từ biển Mỹ khê kéo dài đến bán đảo Tiên sa.

 Theo địa chất học, người ta cho là các ḥn đảo ở gần bờ biển do tác dụng của thủy triều phù sa bồi đắp, nối liền với lục địa những núi này bị nước mưa và khí hậu tác dụng xói ṃn tạo ra những hang động và h́nh thù kỳ dị, làm cho núi có những sắc thái đặc thù.

   Các loại thảo mộc như : cây Thiên tuế cành lá xum xuê thân quấn vào núi đá, những khe đá ẩm ướt có loại cây Thạch trường sanh. Cây Cung-nhân-thảo (Amaryllis) lài trắng, Cảnh-thiên (Crassule), Mộc tê, Chương năo, và loại cây Thử lư có tên khoa học M. Vyridiflora, có tinh dầu dùng để trét ghe thuyền, cây Tứ quư có rễ dùng ngâm thuốc làm thuốc bổ, lọc huyết và tiêu thực. Các loại hoa rừng đẹp nhiều màu sắc hương thơm, các loại phong lan rễ tua tua như tóc xoă, hoa đẹp lộng lẫy những dây leo mềm mại theo sườn núi, sinh vật có loài khỉ Dộc hiền, mặt nhẵn nhụi lông màu xám tro, và  các loại dơi, chim hải yến.

             Thuở xa xưa người Chiêm Thành, thờ thần linh theo tín ngưỡng của họ, ngày nay c̣n lưu lại di tích qua những tượng thần bằng đá, những đền tháp và h́nh tượng khắc trong vách đá ở Chùa Linh Ứng, trong động Huyền Không. Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 ngọn  Kim Sơn, Mộc Sơn, Thuỷ Sơn, Hoả Sơn, Thổ Sơn.

 Kim sơn (Metall - metal)  là ḥn núi khiêm tốn nhất trong 5 ngọn núi kéo dài từ đông sang tây, sông Trường nối dài ra sông Đà Nẵng, có đ̣ Bến ngự ngày xưa Vua chúa thường cập bến nơi đây để ngọan cảnh, qua thời gian biển dâu biến thành ruộng đồng, sông Trường có tên „Lộ Cảnh Giang là sông Cổ C̣“, đă bị vùi lấp biến thành ruộng hoặc hồ nước c̣n dấu tích của những đoạn sông chưa bị lấp kín

Mộc sơn (Holz - wood)  phiá đông nam nằm song song với núi Thủy sơn dù mang tên là mộc, nhưng cây cối mọc rất ít núi cũng có hang động nhỏ, Mộc sơn có khối đá cẩm thạch trắng giống h́nh người

Thuỷ sơn (Wasser - water) phiá đông bắc là núi đẹp nhất, du khách thường đến ngoạn cảnh gọi là Chùa Non Nước,  phong cảnh hữu t́nh có thể nói núi Thủy sơn nằm dài từ đông sang tây rộng 15 ha, có nhiều Chùa được xây cất lâu đời, có động Thạch nhũ, có hai chùa đẹp chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng, đường lên núi  làm bằng từng cấp lót đá, trên đỉnh 3 ngọn núi mang tên là „Tam Thai“  bởi v́ nó giống như „Sao Tam Thai“ tức là 3 ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh. Du khách từ vùng biển muốn lên thăm Linh Ứng phải bước lên khoảng 108 tầng cấp, nếu đến chùa Tam Thai nằm ở phiá nam phải đi xa hơn những tầng cấp dài 156 bậc. Ngày nay phần lớn du khách đến Thuỷ sơn bằng xe từ đường Huyền Trân, hai bên đường là làng chuyên về nghề điêu khắc tạc tượng, bằng đá cẩm thạch  từ thế kỷ thứ 18  dân chúng sinh sống quanh Ngũ Hành Sơn dùng đá cẩm thạnh, để sản xuất các tượng như ; Phật, Chúa .. tượng lớn nhỏ đủ lọai, quà lưu niệm ṿng đa đeo tay  trơn láng nhiều màu như ngọc bích…  

 Hỏa sơn (Feuer - fire)  ngọn núi hướng về phiá tây nam sườn núi hiểm dốc hang động hoàn toàn im lặng, giữa núi Kim sơn là cánh đồng của xóm Hoà Quế, trên dăy núi Hỏa sơn c̣n lại những đống gạch vụn từng mảnh hay đôi khi nguyên vẹn, trong những hố đá gạch sụp lở đó là di tích đền tháp của người Chiêm Thành. Hoả sơn nơi người ta khai thác lấy đá cẩm thạch. Đá cẩm thạch non nước có nhiều vân, sắc đẹp hồng, xám, trắng, những loại đá khác nhau rất hữu ích cho công nghiệp,  đá vụn để trăi đường, tô tường nhà,

Thổ sơn (Erde - earth)  là núi thấp nằm chính giữa có dạng  vuông, cạnh  không đều nhau, Thổ sơn không có phong cảnh đẹp chỉ có đất sét đỏ và đá cát lẫn lộn. Theo truyền thuyết Thổ sơn là nơi linh địa ngày xưa người Chiêm Thành đồn trú nơi đây, c̣n t́m thấy những nét về văn minh người Chiêm Thành điêu khắc vào đá như một cứ điạ từ đó xuất phát đi cướp phá các vùng biển có tàu buôn đi từ Trung hoa xuống đến vùng biển Mă lai. Thổ sơn thấp bao quanh những ngọn núi cao hơn.

Các Chuà và hang động ở Thuỷ sơ

Bối cảnh lịch sử Lê Đại Hành (trị v́ từ 980-1005) là vị vua đầu tiên tấn công Chiêm Thành, th́ Lư Thánh Tông (trị v́ 1054-1072) là vị vua đầu tiên mở mang bờ cơi xuống hướng Nam .. Vào đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông (trị v́ 1278-1293) nhường ngôi cho con, rút lui vào cuộc đời ẩn dật và vân du đây đó, sang thăm vua nước Chiêm Thành , thượng Hoàng hứa gả con gái cho vua Chiêm, bất kể sự chống đối của triều đ́nh . Năm 1306 vua Chiêm Thành là Chế Mân „Jaya Simhavarmn III“ cưới Công chúa Huyền Trân, với sính lễ dâng Châu Ô và Lư (Rí)  vua Trần Anh Tông trị v́ (1293-1314) anh của công chúa Huyền Trân nhận 2 châu trên đổi thành Thuận Châu và Hoá Châu. Phiá nam Hoá Châu từ đèo Hải Vân đến bắc sông Thu Bồn thuộc đất Quảng Nam ngày nay. (Quảng Nam trong lịch sử Trần Gia Phụng  trang 36-38)

          Theo truyền thuyết vào đời nhà Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông trị v́ từ (1460-1497) đă khám phá ra Ngũ Hành Sơn. Trên các cụm núi đó thờ thần linh, là lănh địa Amaravati tức Cổ Lâm Ấp đất đai của Chiêm Thành, trở thành lănh thổ của Đại Việt. Theo tài liệu đại sư Huệ Đạo Minh đầu tiên tu ở núi Thủy Sơn trong hang động dựng tấm bia thứ nhất „Ngũ Uẫn Sơn“. Ngày nay gọi là động Vân Thông năm Tân Tỵ (1640). Tấm bia thứ hai ở động Hoa Nghiêm năm Canh Th́n (1641) .

 Đến các đời Chúa Nguyễn Phật giáo được thịnh hành ở xứ Đàng Trong. Chúa Săi  Nguyễn Phúc Nguyên trị v́ từ (1613-1635) đă từng đóng góp lập các chùa Long Hưng, Bửu Châu ở Quảng Nam. Quốc Chúa Minh Vương Nguyễn phúc Chu trị v́ (1691-1725) cũng mộ đạo năm 1695 đă mời Hoà thượng Thích Đại Sán (Thạch Liêm) từ Trung Hoa sang Thuận Quảng hộ tŕ Phật giáo. Hoà Thượng Đại Sán từng đến Ngũ Hành Sơn . Đến năm 1702, Ngũ Hành Sơn được sự chú ư của giới thương gia nước ngoài. Một đại diện của công ty hoàng gia Trung Quốc đến tiếp xúc với vị Đại Sư Huệ Đạo Minh và tăng đồ (Đông dương Ấn Độ,Tích Lan 1902 trang 103) và các thương thuyền Âu Châu phát hiện thêm là Ngũ Hành Sơn có nhiều khỉ nên gọi „Montagnes des singes / núi của loài khỉ „ Những ngôi Chùa trong băi cát phiá nam Thủy Sơn chỉ c̣n lại những phế tích sụp đổ.. Thời gian chiến tranh với nhà Tây Sơn chùa chiền, lăng miếu, bị tàn phá.   

 Vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống nhất sơn hà, ổn định xă tắc cho tu bổ lại nhiều chùa ở Phú Xuân. Hoàng hậu Hiếu Khương sửa chùa Báo quốc, Thái trưởng Công chúa Ngọc Nghiên sửa chùa Tuệ lâm, Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu sửa chùa Thiền Lâm, công chúa Ngọc Duệ trùng tu chùa Thiên Thai…Vua Gia Long có 13 Hoàng tử 18 Công chúa, nhưng Công Chúa Ngọc Lan đă vào hang động ở Ngũ Hành Sơn ẩn tu, nơi đó có tên „Phổ Đà Sơn“ theo tài liệu mô tả „cơ sở tinh kiết, nơi một người con gái đồng trinh, con của Gia Long và em Minh Mạng, Công chúa Ngọc Lan rời bỏ cảnh phồn hoa, cung điện xa xỉ kiêu sa, Công chúa chọn cuộc đời tu hành, để giải thoát khỏi cảnh đời tục lụy.“ (Ngũ Hành Sơn tác giả Albert trang 96)

  Vua Minh Mạng (trị v́ 1820-1840) năm thứ VI tháng 6 năm 1825 đến thăm Ngũ Hành Sơn. Vua quyết định đặt lại các danh xưng, khắc trên thềm và sườn núi (Minh Mạng Thực lực trang 10) Tháng 7 năm 1825 nhà vua ban lệnh thượng thư bộ Công, quận công Liên Hoa tiến hành tu sửa chùa Tam Thai. Ngôi chùa được xây dựng từ năm 1630, và động Hoa Nghiêm (động của sự hoá thạch uy nghiêm). Tháng 4 năm 1826 nhà vua ra lệnh đúc cho chùa 9 pho tượng và 3 qủa chuông lớn, chùa Tam Thai c̣n lưu giữ "quả tim lửa" và chiếc chuông khắc tên vua Minh Mạng. Chùa nầy được trùng tu lại năm 1946 và năm 1975. Sân chùa rộng giữa sân là tượng Phật Di Lặc đồ sộ, chung quanh nhiều cây kiểng loại bonsai và hoa sứ nhiều màu trắng vàng thoảng mùi hương, cuối sân là nhà phương trượng của tu sĩ và thầy trù tŕ, (nơi đây chỉ có đá và chùa phương trượng, nhưng không có Sư phương trượng).

Qủa tim lửa bằng đồng của vua Minh Mạng ở chuà Tam Thai

 Từ chùa Tam Thai đi qua Động Thiên Phước Đại, (trời thanh khiết và đất hạnh phúc) nơi dừng chân các Vua Chúa đến thăm viếng. Tháp Phổ Đồng có một ṿng tường bao quanh, tất cả đền tháp xây bằng vật liệu pha trộn đá cẩm thạch và gạch xưa đẹp và rắn chắc. Chùa Từ Tâm mái thấp thờ Điạ Tạng, có bàn thờ tưởng nhớ các triều đại Đinh, Lư, Trần, Lê. Có bàn thờ thêm cho các linh hồn lạc lơng là nạn nhân của sóng biển, chiến tranh bị người đời lăng quên.

 Vọng Giang đài là cụm đá cao mặt bằng nhỏ hẹp, đứng trên Vọng Giang đài có thể nh́n bao quát sông Cẩm Lệ lượn quanh cánh đồng lúa chín vàng, màu xanh lá cây, làng mạc trù phú của quận Ḥa Vang. Phiá bên trái chùa Tam Thai là động Huyền Không, Linh Nhan (hang của đỉnh núi thần bí) và Tàng Chơn (động của sự tĩnh tâm đích thực). Phong cảnh chùa, hang động, yên b́nh lư tưởng cho sự cầu kinh niệm Phật .

 Thời gian vua Gia Long trị v́, người ngoại quốc được phép viếng Ngũ Hành Sơn dễ dàng, nhưng qua thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, việc viếng Ngũ Hành Sơn rất khó khăn v́ chính sách bài Pháp. Qua thời Pháp đổ quân lên cửa biển Đà Nẵng năm 1859, việc đi lại bị khó khăn hơn, nên những người hành hương viếng cảnh ngày một thưa dần, và Ngũ Hành Sơn trở lại t́nh trạng điêu tàn đổ nát. Hang động ở Ngũ Hành Sơn có cảnh sắc thật kỳ lạ mỗi sáng, ánh nắng mặt trời len lỏi qua các ngách đá tạo ra vẻ lấp lánh trên thạch nhũ với vô số h́nh hài khác nhau mà du khách có thể cảm nhận theo trí tưởng tượng của ḿnh. Ở động Quan Âm nhiều thạch nhũ tạo ra những bức tượng nhà Phật rất độc đáo, trong đó khối thạch nhũ tạo thành tượng Quán Thế Âm Bồ Tát rất hoàn chỉnh, thanh tú. Một lớp da đá như dải lụa kim tuyến phủ từ bờ vai phải chạy đến hết thân tượng, tay phải nâng b́nh nước cam lồ. Trong động Quán Thế Âm c̣n có bộ tam khí nhà Phật gồm chuông, trống, mơ bằng đá, đánh phát ra âm thanh. Cuối động là hồ nước mát lạnh, trong suốt quanh năm nên được gọi là hồ nước Cam lồ. Nhiều ngôi chùa khác trong quần thể Ngũ Hành Sơn cũng lưu giữ nhiều hiện vật và giá trị văn hoá, tôn giáo, lịch sử quư giá. Ngoài ra, du khách đến đây c̣n có thể thấy những bút tích thơ ca thời Lê, Trần trên những bức đá rêu phong.

 Chùa Linh Ứng hướng ra biển, xây  thời vua Minh mạng 1825 gọi Ứng Chân Tự đến đời vua Thành Thái 1891 đổi thành Linh Ứng Tự, có tượng lớn Đức Quan thế Âm bồ tát. Chùa Linh Ứng thờ Tam Thế Phật, chính giữa Phật Thích Ca, bên phải Di Lặc, bên trái Di Đà. Năm 1970 các Tăng ni, Phật tử Quảng Nam-Đà Nẵng xây lại chùa mới.  Chùa  Linh Ứng thờ bài vị của trưởng lăo Bửu Đài, Chùa nầy đă đào tạo những danh sư (1) thế hệ gần nhất như cố Hoà thượng Thích Trí Hữu. Ngài đă từ nơi đây vào Sàigon hành đạo, xây dựng nên ngôi chùa Linh Ứng Tự (1948) sau nầy đổi thành Chùa Ấn Quang taị đường Sư vạn Hạnh quận 10 Sài g̣n. Hoà thượng Thích Bảo Lạc (là bào huynh Thượng tọa Thích Như Điển người sáng lập chùa Viên Giác Hannover, Đức) Ngài đă xuất gia tại Ngũ Hành Sơn năm 1958 hiện trù tŕ chùa Pháp Bảo Sydney Úc châu ).

             Sau chùa Linh Ứng có động Tàng Chân, động chính giống như thung lũng nhỏ chiều dài 10 m ngang 7 m thoáng mát, nhờ thông lên trời qua cửa Thiên Long Cốc từ nơi đây đi về phía tây có hai cửa hang gọi là: Vân Nguyệt Cốc (hang của mây và trăng) động Vân Thông (động thông với mây) hang Thiên Long Cốc (hang của rồng và trời) có miếu thờ Thái Thượng Lăo Quân, bên trái thờ Bát Bộ Kim Cương, bên phải thờ thần Chiêm Thành. Ngoài ra c̣n có 5 động nhỏ : Tam Thanh (Thanh Thanh Tiên Động, động của ba người bất tử Thượng Thanh, Thái Thanh, Ngọc Thanh), hang Gió người ta c̣n gọi là Hang Thần Thượng là hang của các Thần bề trên, Đá nơi đây có màu xanh lá cây làm dễ chịu và mát mẻ, động Chiêm Thành ( thờ các vị thần Chiêm Thành thuộc về nước Champa ngày xưa), động Bàn Cờ (tương truyền là nơi các vị tiên hay xuống đánh cờ ) hang Ráy.(nơi động  đá có màu ngũ sắc sáng lung linh)

  Âm Phủ huyệt nằm ở phía nam Thủy sơn du khách vào thăm hang động nầy thấy thiếu ánh sáng mặt trời. Càng đi vào sâu càng tối tăm hơn, nên có tên là Âm phủ có người nói rằng nếu đem những trái bưởi có đánh dấu bỏ vào đó mấy ngày sau sẽ thấy trôi ra biển có thể động nầy ăn thông ra biển. Bên phải chùa theo các phiến đá lót phụ bước lên vọng Hải Đài nh́n cảnh quan từ trên cao xuống băi cát vàng và biển khơi mênh mông, xa thẳm, nh́n về  hướng đông nam là đảo Cù Lao Chàm, những đàn hải yến bay lượn dưới bầu trời trong xanh .

Động Huyền Không đi qua cổng ṿm có 3 chữ Huyền Không Quan, cửa hơi hẹp động tối, những bậc đi xuống sâu, giữ cửa động có tượng h́nh ông Thiện và ông Ác, như nhắc nhở con người phải thánh thiện, từ bi khi đến cơi sắc không của Phật . Vào trong hang có ánh sáng từ trên cao chiếu qua lỗ trống trên động, càng làm vẻ đẹp lung linh huyền bí, ṿm Động cao nhủ thạch bám vào vách tạo nhiều nét đẹp thiên nhiên, và bàn tay con người tạo thêm nhiều h́nh đẹp như tượng Phật Quan Âm, được điêu khắc công phu trên bệ thờ, phiá bên phải là ngôi chùa nhỏ Trang Nghiêm Tự, bên cạnh có thạch nhũ nhỏ nước tí tách, dưới nền có khối đá điêu khắc tượng của người Chàm, khung cảnh hư ảo trong hang động tạo cho du khách như sống với thế giới vưà hư vừa thật, lấy tay vỗ lên trên đá nghe như tiếng trống b́nh bịch.

 Động Huyền Không trên bàn thờ có tượng Thiên-Y-A-na- Chúa Ngọc, ngày xưa người ta có tục lệ làm hai lễ đặc biệt được cử hành bằng đức tin là “cắt huyết gà để thề” những việc tranh căi thề thốt không nói dối, trước những đấng siêu h́nh chứng giám xác quyết lời thề sự thật tuyệt đối, vĩnh viễn không nuốt lời thề, người ta lấy dao cắt cổ con gà trống cổ nhổ sạch lông và cái bát đựng huyết gà để thề, nếu ai nói sai sẽ chết như con gà.  Nhiều người đến chùa cầu xin Thiên ân “cầu tự” cho những đàn bà chưa có con. Sau đó họ vào động Huyền Không uống nước từ thạch nhũ, các tục lệ trên ngày nay không c̣n như xưa nữa


Di tích Chàm ở động Huyền Không

Động Huyền Vi nằm sau lưng chuà Linh Sơn thuộc Hỏa sơn. Hội Phật giáo xă Hoà Hải t́m thấy năm 1953. Động Huyền Vi là một trong những hang động đẹp của Ngũ Hành Sơn, cửa hang dày 3m, động dài 10m ngang 2m có nhiều ngách nhỏ, trên vách hang có nhiều h́nh ảnh cây cỏ. Một góc khác có hồ nước trong xanh có tạc tượng ông Lữ đi câu.. có giếng nước sâu, đến gần miệng nghe những âm thanh trầm bổng tựa tiếng đàn, gọi là giếng tuyền cầm

Trong luận ngữ (Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy nghiă là: Người Nhân yêu núi, người Trí th́ ưa nước.) Non nước hữu t́nh, Huỳnh Thúc Kháng dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Thượng Hiền :

Hai mươi năm lẻ xuống trần gian

Ngoảnh lại bồng lai gấm dở dang

Ḱa động Tàng Chân nay được đến

Dâng hoa quét lá lễ tiên ban

Linh Ứng đền xây giữa núi sâu

Tàng Chân động cổ đá thưa rêu

Gío thu tựa cửa tùng quang ngắm

Hạc biển bay mà chả thấy đâu

Non cao mấy chén rượu tùng say

Xa tục tiên ông ở chốn nầy

Tung tích người xưa ôi chớ hỏi

Cḥm mây muôn dặm tự do bay

 Từ Ngũ Hành Sơn nh́n ra biển một màu xanh xanh, phong cảnh đẹp với mây bay gió thoảng, những làn sóng nhẹ tung tăng chạy vào bờ cát trắng. Ngũ Hành Sơn đă cho mặc khách, tao nhân các nguồn mỹ cảm với cảnh non xanh nước biếc. Ngũ Hành Sơn làm cho du khách như rũ sạch bụi trần, thoát ṿng tục lụy đi vào chốn bồng lai tiên cảnh

Cơi trần dạo bước thử xem chơi

Năm ḥn chót vót cây chen đá

Bốn mặt mông mênh nước lộn trời

Băi cát trắng phau cơn gió bụi

Cḥm rêu xanh ngắt bóng trăng khơi

Ngự thi nét bút c̣n như vẽ

Dâu bể bao phen đă đổi đời

                                Nữ sĩ Ngọc Anh

 Từ thời ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành, tôi đă nhiều lần đến thăm Ngũ Hành Sơn, và cảm hứng sưu tầm viết lại bài nầy trong khả năng hạn hẹp. Mong độc giả đóng góp thêm, để chúng ta có cái nh́n toàn diện về vẻ đẹp của quê hương muôn thuở … 

Ba chữ Đại Tự nầy là nơi công Chúa Ngọc Lan  ẩn tu

 

                                                           Nguyễn Quư Đại

Munich muà hè năm 2005

 

 1 / Những vị Đại sư đă tu ở Ngũ Hành Sơn từ triều Nguyễn:

 

Sư Bửu Đài

Viên-Trừng đại sư

Chơn-Như đại sư

Hoàng-Ân đại sư

Phước-Nghi đại sư

Tuệ-Quang đại sư

Mật-Hành đại sư

Chí-Thành đại sư

Từ-Trí đại sư….

Sau nầy th́ tăng sĩ có các thứ bậc : Đại Đức, Thượng Toạ, Hoà Thượng, Đại Lăo Ḥa Thượng,…..

 

Tài liệu tham khảo

Việt sử Đại Cương Tác giả Trần Gia Phụng NXB Non nước Toronto 2003

Quảng Nam trong lịch Sử  Tác giả Trần Gia Phụng Nxb Non Nươc Toronto  2000

Ngũ Hành Sơn tác giả Albert Sallet NXb Đà Nẵng 1996

Non Nước Việt Nam NXB Hà Nội 2003  

 

trở lại