Tự
đóng 1.200 tàu chiến trong 10 năm, hoàng đế
nào của triều Nguyễn khiến người Tây
ngả mũ thán phục?
|
Trong
mắt Trung Quốc cũng như các nước phương
Tây, Việt Nam chỉ là một tiểu quốc.
Ấy vậy mà quốc gia bé nhỏ ấy lại làm
nên những điều không tầm thường.
Điều ấy đă được minh chứng
đầy thuyết phục trong suốt chiều dài
lịch sử 4000 năm. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng t́m
hiểu về một trong những vị vua nổi
tiếng nhất lịch sử: Hoàng đế Gia Long. Gia Long xuất thế
Vua Gia Long, tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, thường
gọi là Nguyễn Ánh, sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm
Ngọ (tức 8/2/1762), cha là Nguyễn Phúc Luân, con
thứ hai của của chúa Vơ Vương Nguyễn
Phúc Khoát, mẹ là Nguyễn Thị Hoàn. Sinh ra và
lớn lên trong ḍng dơi quư tộc, Nguyễn Ánh nuôi dưỡng
khí chất của một bậc quân chủ. Tuy nhiên,
cuộc đời trước khi làm vua có rất
nhiều biến động. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của
Nguyễn Huệ trong thời gian đó đă lật
đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chấm
dứt chính quyền cai tri họ Nguyễn sau 200 năm.
Năm 1777, quân Tây Sơn bắt sống chúa Nguyễn
đương thời là Nguyễn Phúc Dương
đưa về Gia Định xử tử. Một nhân
vật trong ḍng dơi mang tên Nguyễn Phúc Ánh đă
quyết tâm nuôi chí khôi phục quyền vị cơ
đồ nhà Nguyễn.
Gia Long là người có
phúc phận lớn, nhờ công Nguyễn Huệ lúc trước
mà sau đó ông mới có thể nhanh chóng thống
nhất Việt Nam. Quá tŕnh từ khi cơ đồ gia tộc
bị chấm dứt đến khi ông lên ngôi cũng
là một khoảng thời gian khá dài chứng minh cho
sự kiên tŕ của ông. Sau nhiều lần thất
bại và phải cầu viện Xiêm La và Pháp giúp
đỡ, ông giữ được một vùng đất
Nam Hà, làm cơ sở cho việc đánh bại quân Tây
Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất
Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến. Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi vua ngày
mồng 2 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), đặt niên
hiệu Gia Long, lập nên vương triều cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông được
biết tới là vị vua đầu tiên của
họ Nguyễn bởi trước đó những người
đứng đầu đều chỉ được
gọi là chúa Nguyễn. Như vậy, xét theo lịch
sử, ông là đời chúa thứ 10 và vị chúa
duy nhất lên làm vua. Cái tên Nguyễn Ánh gây ra nhiều so sánh
với Nguyễn Huệ, người làm nên chiến
thắng quân Thanh vang dội trước đó. Nhưng
số phận không mỉm cười với ông khi ông
phải nhận cái chết khi tuổi c̣n sung măn. Và
người tiếp tục trên sân khấu lịch
sử đó chính là Nguyễn Ánh. Với sự thay
đổi thế cuộc đó, khá nhiều người
phát biểu rằng Nguyễn Huệ trồng cây, Gia
Long hái quả. Nhưng xét cho cùng, lịch sử th́
vẫn là lịch sử, và sự đổi thay
ấy, âu cũng là số trời.
Tranh vẽ Vua Gia Long
triều Nguyễn. Tính cách hiếm
thấy của một vị vua
Gia
Long được miêu tả bởi một người
phương Tây: “Dáng
người cao trên trung b́nh, vóc người tầm thường,
vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhơm,
rất dễ nh́n”, “màu da đỏ hồng, rám
nắng v́ dầu dăi”, “thân thể cường tráng,
da trắng, mắt sáng, tướng đạo mạo
đáng kính”, “nét mặt trang nghiêm có sắc
diện… dáng điệu rất sang trọng và tính t́nh
ḥa nhă”.
Gia Long dưới con
mắt một vị phương Tây. C̣n
sử nhà Nguyễn th́ đề cao Gia Long ở cái:
“thông
duệ túc thành”, “có
ḷng ham thích học hỏi… biết chia ngọt
sẻ bùi với thuộc tướng, lúc mềm
mỏng, lúc cương quyết”, “ứng phó
lẹ làng”. Trong cuộc sống, ông “có cả tính cách
của một chính trị gia – một vơ tướng”
lănh đạo một đám quan – binh phức
tạp, hỗn độn, nhiều thành phần
từ tặc khấu mà ra với đủ sắc
tộc từ Việt, Hoa, Xiêm, Chàm, Mă Lai, Tây Phương. Một
giáo sĩ người Pháp tên Lelabousse miêu tả
Nguyễn Ánh khi c̣n trẻ th́ mê rượu, nhưng
từ khi lên làm chúa ông bỏ hẳn, không chạm
một giọt rượu v́ Nguyễn Ánh cho rằng: “Một kẻ không làm
chủ được ḿnh, th́ làm sao có thể cai
trị được người khác?“. Người Tây nể
phục
Trong bức thư đề ngày 1/5/1800 gửi
cho giám đốc trường tu nghiệp của
hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris, ông
Lelabousse đă viết về Gia Long như sau: “Nhà
vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm Ngài
ít ngủ, đọc sách rất nhiều; việc ǵ
cũng ṭ ṃ muốn biết và cần cù hiếu
học đáo để. Trong điện Ngài ở, có
nhiều bộ sách của người Pháp soạn,
dạy về các khoa kiến trúc, xây thành đắp
lũy, v.v… Ngài để luôn bên ḿnh, năng
mở ra xem những h́nh vẽ kiểu mẫu rồi
cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy
Ngài tấn tới lên măi. Tóm lại, ông vua này là
một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ
Đàng Trong nước Nam từ trước đến
giờ”. Không
chỉ người Pháp, những người châu Âu
khác cũng rất nể phục vua Gia Long. Một nhà
du hành người Anh tên là John Barrow xuất bản
tại London vào năm 1806 cuốn sách “A voyage to
Cochinchina in the year 1792 – 1793” (Một chuyến du hành
đến xứ Nam Hà trong năm 1792 – 1793) đă ca
ngợi vua là: “...con người phi thường, một trong
số ít người sinh ra với tài năng bẩm
sinh để thống trị thế giới”. Và
c̣n: “...câu chuyện về ông
hoàng này, mà tôi đă phác họa sơ lược nêu
lên một tấm gương sáng và một bài
học bổ ích cho những ai có thể rơi vào
những hoàn cảnh rủi ro tương tự, nó
chỉ ra rằng nếu biết kết hợp tài năng,
nghị lực và ḷng dũng cảm theo một hướng
chỉ đạo đúng đắn, người ta có
thể làm được nhiều việc lớn lao
đến như thế nào”. Tự đóng tàu
chiến làm người đời sửng sốt
Chính sự ham học hỏi đă giúp
Nguyễn Ánh tự ḿnh đúc rút và tích lũy
được những kinh nghiệm thù thắng đầy
bất ngờ mà tự đó ông đă sáng tạo ra
những điều mà khiến ai cũng phải thán
phục. Hơn nữa ông cũng biết cách tân
dụng tối đa nguồn tài nguyên sẵn có
của quốc gia như gỗ để có thể
đóng tàu. Đến năm 1789 ông đóng được
40 chiếc thuyền và 100 chiếc thuyền biển;
hai năm sau đóng thêm được 100 chiếc
với gỗ ván lấy từ rừng Thanh Hóa và
Chân Lạp. Đến năm 1793, Nguyễn Ánh cho mua
hẳn một chiến hạm cũ của châu Âu rồi
sai người gỡ ra để sao chép lại.
Nguyễn Ánh đích thân giám sát việc đóng
những chiếc thuyền theo kiểu này. Nhờ tích
cực vậy nên ngay cùng năm, quân Nguyễn đóng
được những chiến hạm nổi
tiếng là Long Ngư, Long Thượng, Long Hưng,
Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi, Hồng Nhi, Loan Nhi,
Ưng Nhi (trong này quan trọng nhất là 3 chiếc
Long Phi được trang bị đến 32 khẩu
đại bác, Phụng Phi và Bằng Phi có 26 khẩu)
với sức chứa trên 300 người mỗi
thuyền. Chỉ có 2 năm Nguyễn Ánh đóng thêm
gần được 300 pháo hạm và 10 năm th́
tổng số thuyền của Nguyễn Ánh lên
được gần 1.200 chiếc.
Chiến thuyền Gia
Long làm nên làm người người sửng
sốt. ̣ Đó là những con số hết sức
bất ngờ đối với bất kỳ
những ai được nghe, không chỉ khiến
nhiều người Tây phương – những người
đă tiếp xúc với nền khoa học hết
sức tiên tiến và hiện đại từ xưa
phải trầm trồ kính nể mà cả những người
Việt ta cũng giật ḿnh sửng sốt. Lại một lần nữa cố đạo
Lelabrousse phải dành một phần trong bức thư
của ông để nhắc đến câu chuyện
đáng nể này như sau: “Các xưởng đóng
chiến thuyền trong xứ và các quân cảng
được Ngài xếp đặt chỉnh tề,
đồ sộ; người ngoại quốc đến
xem phải động ḷng kính phục, nếu cả
châu Âu được trông thấy th́ cả châu Âu cũng
phải khen ngợi. Một
bên bài trí la liệt những súng trường, súng
thần công, đại bác đủ hạng,
những dă pháo, những xe chở súng, những viên
đạn lớn nhỏ đủ cỡ, v.v…
Phần nhiều so sánh với các kiểu súng đạn
tốt nhất ở Tây phương, bất quá
chỉ thua kém về vẻ đẹp mà thôi. Một
bên th́ đỗ chi chít những chiến thuyền không
biết cơ man nào mà đếm; to có nhỏ có,
chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ
đáng sợ. Tất cả các thuyền binh khí
ấy toàn là công tŕnh của ông vua hiếu động
và đa tài, đa nghệ…” Ông
khẳng định để làm được
những chiến thuyền kiểu Châu Âu này th́
chỉ có người dân bản xứ. Ấy vậy
mà: “Ban đầu, ngài mua
một chiếc tàu Tây đă cũ đem về tháo
tung ra từng mảnh để xem cách thức chế
tạo, sau đó tự tay ráp lại y nguyên h́nh
thức cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu
lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.
Có thể nói, niềm
đam mê lớn nhất của ông vua này chính là ‘được
đóng tàu’. Sự
thành công ấy làm cho nhà vua nức ḷng phấn chí,
nhất định ra tay đóng hẳn một
chiếc hoàn toàn mới. Mà ngài làm được
mới thật lạ kỳ, sau đó lại đóng
thêm hai chiếc nữa. Cả bốn chiếc tàu này
đi đến đâu cũng làm lên oai danh hiển hách
cho nhà vua. Công
cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ,
chiếc nào cũng đóng không quá 3 tháng đă hoàn
thành, có chiếc lại c̣n làm nhanh chóng hơn… Các
ông ở bên Tây nghe nói một ông vua ở nước
Nam có thể chỉ huy được một chiếc
tàu chiến đóng theo kiểu châu Âu, tất lấy
làm lạ vô cùng; nhưng các ông c̣n kinh
ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông
được chứng kiến mọi sự kiến
thiết ở xứ sở này”. Có thể nói chính tài thao lược và
những điều ông học hỏi từ phương
Tây đă nên thắng lợi cho cuộc thủy
chiến ở đầm Thị Nại năm Tân
Dậu (1801), tiêu diệt hoàn toàn hạm đội
chiến thuyền của quân Tây Sơn, để
từ đó chấm dứt triều đại Tây Sơn,
lập ra một triều đại mới do ông đứng
đầu. Làm vua gần 20 năm, để lại cho
hậu thế sự kính nể, Gia Long ra đi vào ngày
19 tháng Chạp năm Kỷ Măo (tức ngày 3/2/1820), hưởng
thọ 59 tuổi. Sử sách gọi ông là Nguyễn
Thế Tổ, thụy hiệu triều đ́nh đặt
cho ông là “Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ
Thùy thống Thần văn Thánh vũ Tuấn đức
Long công Chí nhân Đại hiếu Cao Hoàng đế”. Nguyệt Hà |