Tỵ
Nạn và Cuộc Đời:
|
***** Mặc
dù thời gian trôi qua thật nhanh, nhưng nhiều h́nh
ảnh ra đi vượt biên vẫn c̣n đọng
lại tiềm tàng trong trí ức. Làm
sao tôi quên được những sự ra đi quá
hải hùng của những đứa con của
Mẹ Việt Nam,
những đứa con bất hạnh, những
người đi t́m tự do, t́m cái sống trong cái
chết của ḿnh, mà thế giới gọi là
thuyền nhân „Boat People“ mà tôi cũng là người trong cuộc. ...
Đêm nay đêm tối
trời, tôi bỏ quê hương (Trích
Đêm Chôn Dầu Vượt Biển) Vào
một đêm mùa hè trăng sao, ban ngày trời nóng
chan chan, nắng cháy da người. Tôi cùng vợ và 2
con từ Sài G̣n đi xe đ̣ về Tây Đô thân yêu.
Tối hôm đó, tôi cùng gia đ́nh vợ và 2 con
được hướng dẫn lên một chiếc
ghe rất nhỏ. Chiếc ghe nhỏ nầy đă
được cất dấu nhiều ngày trong 1 con
lạch, được che bởi những khóm cây
dừa nước tại vùng Cần Thơ, chuẩn
bị di chuyển người ra một chiếc ghe
lớn để đưa chúng tôi vượt biên.
Chiếc ghe lớn đang đậu núp ở một
ven bờ Tiền Giang, hướng ra biển. Ghe
lớn có chiều dài khoảng 12,5m và chiều ngang
khoảng 2,5m. Trong lúc
chiếc ghe nhỏ luồn lướt qua những con
lạch, băng qua những khóm dừa nước, lao
nhao đôi chú ếch nhái, ểnh ương đang
đi t́m mồi và đùa giởn réo gọi nhau
bỗng dưng yên lặng, trả lại cho màn đêm
tịch mịch. Nhưng rồi, xa xa vọng lại
những tiếng rên rĩ của côn trùng, tiếng kêu
của những lũ ếch nhái khác hoà với làn gió
nhè nhẹ thổi vào đêm trăng mùa hè cùng
với bóng dáng của cành lá cây, rào rạc ở hai
bên bờ rạch, lúc ẩn lúc hiện tạo nên
một âm thanh khó hiểu, huyền dịu. Loài côn trùng,
động vật có thấu hiểu chuyện ǵ
đang xảy ra bên cuộc sống thanh b́nh của chúng?
Chúng tôi không phải là kẻ săn bắt chúng hay
phá rầy sự sống của chúng. Chúng
tôi là những người đang t́m đường
vượt biển với tâm lư vừa vui buồn
lẫn sợ hải. Đôi khi tôi nghĩ ngợi,
ḿnh cũng thầm cảm ơn những chú ếch nhái
và côn trùng, cây, gió. Nhờ có chúng mà chúng tôi không
bị lộ tông tích v́ tiếng ồn do chúng tôi có
thể tạo ra trong lúc di chuyển. Sau một
thời gian lặng lẽ âm thầm ra đi trong đêm
tối, chúng tôi vượt ra khỏi rạch nhỏ
th́ vào sông Hậu Giang, rồi đến ghe lớn.
Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Trên ghe lớn cũng
đă có một số người từ những ghe
nhỏ khác đă được đưa đến.
Rồi dần dần có thêm nhiều ghe nhỏ
nữa chở thêm người tới. Ngay
từ những ngày đầu chuẩn bị, sau khi người
chủ mua ghe và trang bị máy móc ở vùng Hà Tiên,
Rạch Giá, tôi đă có nhiều lần xuống vùng
đó để kiểm soát lườn ghe cũng như
xem xét máy móc được trang bị như thế
nào. Khi thử chạy máy và kiểm soát kỷ lườn
ghe th́ thấy tất cả đều tốt. Chủ
ghe cũng cho tôi biết rằng ghe sẽ chở
khoảng 80 người mà thôi. Nghe vậy, tôi nghĩ
rằng với chiếc ghe nhỏ như thế
nầy cũng có thể vượt biển được
mặc dù trên đường đi nếu biển
động nhẹ. Nhưng khi tôi lên ghe lớn th́ thấy quá nhiều người
trên ghe rồi. Chiếc ghe quá tải, tưởng
chừng sắp bị ch́m. Với số lượng
người đông như thế này, tôi đoán có
khoảng trên 170 người. Chiếc ghe đang c̣n
ở trên sông, nước phẳng lặng mà đă
xem như sắp ch́m rồi th́ làm sao ra biển đi
được. Thấy vậy, tôi đă kêu gọi
những người đang chuẩn bị lên ghe
lớn sau cùng nên hảy ở lại quê hương
và trở về nhà th́ tốt hơn. Nếu không, khi
ra biển, gặp sóng gió lớn, ghe sẽ bị ch́m
ngay và sẽ chết hết. Sau khi nghe tôi nói như
vậy họ đă hiểu, cho nên một số người
c̣n đang ở trên ghe nhỏ họ không bước
lên ghe lớn nữa, cũng như một số người
đă lên được ghe lớn họ cũng bước
xuống ghe nhỏ mà trở về. Mặc
dù vậy, chiếc ghe vẫn c̣n quá tải. Lườn
ghe đă ch́m sâu, chỉ c̣n khoảng 10 cm nổi trên
mặt nước mà thôi. Riêng cá nhân tôi, với
nhiều năm đi tàu biển, có nhiều kinh
nghiệm về sóng gió, biết rằng với
chiếc ghe nhỏ như thế nầy mà chở
gần 150 người th́ rất lo lắng. Nhưng tôi
đang ở vào vị thế tiến thoái lưỡng
nan. Đây là lần vượt biên thứ ba sau khi tôi
bị đi „tù cải tạo“ về. Hai lần vượt
biên trước, ghe tôi cũng đă ra tới ngoài
biển được rồi nhưng v́ bị
trở ngại kỹ thuật, ghe không chạy
tiếp được, cuối cùng phải bị
bắt và vào tù trở lại. Lần nầy nếu
tôi và gia đ́nh không đi, khi lên bờ trở
lại có thể tôi sẽ bị bắt. Nếu tôi
bị bắt mà c̣n bị lộ ra tông tích rằng ḿnh
là một cựu Sĩ Quan Hải Quân của Quân
Lực Việt Nam Cọng Hoà và đă nhiều
lần vượt biên bị bắt th́ có thể
lần nầy tôi sẽ bị nhốt vào tù và khó có
ngày về đoàn tụ gia đ́nh. Do đó, tôi
quyết định ở lại trên ghe để hướng
dẫn ghe đi vượt biên. Tôi thừa hiểu
rằng trên đường vượt biển có
thể có nhiều nguy hiểm xảy ra, nhưng tôi không
có con đường lựa chọn nào khác. Tôi
chỉ hy vọng rằng vào mùa hè, sóng gió sẽ êm
dịu hơn và biển có thể yên lặng.
Thế là cuộc hành tŕnh vượt
biển đang diễn ra theo kế hoạch. Trên ghe có
già trẻ, trai gái và gồm đủ thành phần
trong xă hội đều cùng chung ước mơ ra
khơi t́m Tự Do. …Đêm
nay trên bản đồ có một thuyền ra đi
Trong 2 ngày đầu vượt biển dường
như tôi thức trắng đêm. Ngày đầu tiên,
vào chiều tối, ghe chúng tôi ra khỏi cửa
biển và ra khơi khá xa. Tối khuya hôm đó tôi
đổi hướng chếch Nam, nhắm bên
phải của cḥm sao Nam Tào ở phía Nam gần hướng
Tây Nam làm chuẩn mà chạy. Vùng biển ngoài khơi Vũng Tàu trải dài đến
vùng đảo Côn Sơn tôi cũng đă có
2
tháng
đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ 471 và 7 tháng trên Hộ
Tống Hạm HQ10
trước khi được
thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang vào tháng 9 năm 1971. Trong thời gian nầy
chiến hạm HQ10 phải đi tuần liên tục
ngoài khơi thuộc vùng 3 duyên hải. Nhờ vậy
tôi có phần nào hiểu biết và kinh nghiệm
ở vùng biển khơi từ Vũng Tàu đến
Côn Sơn.
Để kiểm soát hướng đi, vào
ban đêm, nh́n ngược lại hướng Bắc
th́ có chùm sao Đại Hùng Tinh nằm chếch ở
phía sau lưng ghe, sẽ thấy sao Bắc Đẩu. Như vậy
ghe đă đổi hướng Nam.
Ban ngày th́ nh́n mặt trời để đoán hướng.
Là sĩ quan hải quân QLVNCH, ngành chỉ huy,
nhiều năm đi biển phải có kinh nghiệm
nh́n các sao, các chùm sao, nh́n sóng nước, nh́n sóng
gió, nh́n mặt trời, mặt trăng trên biển để
đoán được vị trí tương đối và hướng đi của ghe.. Khi mệt
quá tôi giao lại cho vài tài công là những thanh niên và
là thân nhân của chủ ghe. Chủ ghe không đi theo.
Thật sự mấy bạn tài công nầy chỉ
mới tập lái ghe khi ghe được sửa
chữa trên sông trước khi đi vượt biên
mà thôi. Họ không có nhiều kinh nghiệm về
biển cả. Tôi phải chỉ dẫn cho họ.
Họ tin tưởng ở tôi. Trang bị
cho chuyến vượt biên, trên ghe chúng tôi chỉ có
1 bản copy của tấm hải đồ biển Đông từ vùng
đảo Côn Sơn đến Tân Gia Ba để
vẻ tuyến đường đi đến
hải cảng Singapore. Tôi đă xác định
từng đoạn đường với góc độ.
Tôi chọn tuyến đường đi Singapore
mặc dù xa hơn đi đến Thái Lan hay Mă Lai Á
là v́ tôi muốn tránh xa vùng biển mà hải tặc
Thái Lan đang hoành hành trên vịnh Thái Lan. Trước
khi đi, chúng tôi đă mua 1 la bàn từ với đường kính khoảng 10
cm. Loại la bàn từ mà lớn như vậy chỉ
có ở các chiến đỉnh của các Lực Lượng
Hải Quân VNCH, làm ǵ mà có bán ra ngoài như vậy?.
Khi mua nó tôi đă nghi ngờ là giả mạo nhưng
không t́m được cái la bàn từ nào khác là
thật và original nên đành phải mua. Khi sử
dụng la bàn giả mạo
trên biển là 1 khuyết điểm lớn v́ các
tài công trên sông không có kinh nghiệm về sóng gió và
phương hướng rơ ràng ngoài đại dương.
Khi sóng mạnh ập đến ghe th́ la bàn từ
giả mạo kia bị lắc và không lay chuyển
được nữa, góc độ của hướng
đi sai ngay. Nếu tài công không để ư và không
biết hướng gió, sóng và các cḥm sao th́ lái ghe
sẽ sai hướng. V́ thế mỗi lần tôi
tỉnh giấc và xem lại th́ đôi khi thấy ghe
đi lạc hướng, tôi phải điều
chỉnh ghe để có hướng đi đúng
trở lại. Ngoài ra tôi c̣n nghĩ đến, vào
một thời điểm nào đó các tài công cũng
mệt nhừ người, th́ họ vừa lái ghe và
sẽ vừa buồn ngũ là chuyện khó có thể
tránh. Tôi nghi ngờ như vậy. Nói chung, lái ghe trên
biển cũng khá phức tạp. Những đêm
bị mưa gió, trời mù, th́ không thấy cḥm sao
Nam Tào. Do đó tôi phải thường nắm tay lái.
Vùng biển Côn Sơn và Phú quốc tôi cũng đă
quen thuộc phần nào. Khi đi thực tập trên
Hoả Vận Hạm HQ471 đầu năm 1971, cũng
như khi tôi phục vụ dưới Dương
Vận Hạm HQ503 cũng đă có mấy lần
chiến hạm đi công tác đến đảo Phú
Quốc và đảo Côn Sơn. Nhờ vậy tôi cũng
biết được hướng sóng gió ở vùng
Côn Sơn. Suốt
mấy ngày vượt biển tôi không lo lắng
được ǵ cho 2 con tôi. Tất cả đều
để cho vợ tôi trông nom 2 cháu. Bà xă tôi hiểu
được nỗi lo âu của tôi trong khi lái ghe nên
không có một lời than thở. Thật tội
nghiệp! Có
1 lần vào ban ngày v́ biển động, sóng hơi
lớn nên 1 thùng dầu Diesel dự trữ đặt
phía sau lái khoảng 200 lít rơi xuống biển. Tôi
phải ngưng ghe lại và nhờ anh Thọ (hiện
đang cư ngụ tại Nam California) nhảy
xuống biển để cùng chúng tôi vớt thùng
dầu lên. Đến hôm nay tôi vẫn c̣n thầm
phục tinh thần của anh ấy. Lúc đó không
mấy ai dám nhảy xuống biển mênh mông như
vậy. Tôi quyết định là phải vớt thùng
dầu lên cho bằng được. Tôi nói với các
bạn thanh niên cùng đi rằng con đường
chúng ta đi c̣n xa lắm. Nếu chúng ta thiếu
dầu, chết máy th́ khi biển động ghe
sẽ bị lật ch́m ngay v́ chúng ta không thể
điều khiển được chiếc ghe để
lái chếch sóng. Họ nghe lời tôi và quyết tâm
phải vớt thùng dầu. Tôi phải tận
dụng những phương pháp cứu người
trên biển cũng như những cách thắt mũi
dây mà tôi đă học được ở những
chiến hạm và khi tôi c̣n là một Huynh trưởng
Đoàn trưởng Gia Đ́nh Phật Tử ngoài
miền Trung để ứng dụng lúc nầy. Chúng
tôi dùng 1 sợi dây và 2 cây cọc trên ghe để kéo
thùng dầu lên. Rất khó khăn v́ thùng dầu quá
nặng nhưng chúng tôi đă vớt được.
Xin cảm ơn Trời Phật!
Sau những ngày đêm ghe vượt trùng dương
bát ngát, lướt sóng gió, đi trong mưa, hướng
Tân Gia Ba, vào một ngày nọ chúng tôi thấy 3 ghe khá
lớn (Thái Lan hoặc Mă
Lai Á) đang đánh cá. Chúng tôi quyết định
chạy đến gần chúng để hỏi
biết vị trí ghe đang ở đâu trên biển.
Có lẽ v́ bận đánh cá nên chúng cứ thản
nhiên chạy đi hướng khác. Họ không màn
đến chúng tôi muốn tới gần họ. Chúng
tôi dùng hoả châu phóng lên tia hồng ngoại tím th́
họ mới dừng lại. Khi đến gần
họ, tôi đứng trên mui ghe và hỏi chúng
bằng tiếng Anh để biết vị trí ghe
đang ở đâu và hướng Singapore. Họ
chỉ cần nghe và hiểu chữ Singapore nên họ
chỉ tay về hướng Nam như chúng tôi đang
đi. Đồng thời, tôi dùng sợi
dây nhỏ cột tấm hải đồ chuyển
qua ghe họ để nhờ họ xác định trên
bản đồ vị trí chiếc ghe của chúng tôi
đang đi v́ ghe họ có gắn Radar. Ngoài ra chúng tôi
c̣n xin được thêm 2 thùng nước uống,
khoảng 50 lít. Tôi
cảm ơn ḷng tốt của họ.
Khi cầm tấm hải đồ với địa
điểm ghe đánh cá vừa xác định
bằng bút ch́, tôi tin rằng có thể những ghe
đó không phải là hải tặc Thái Lan v́
những ghe đó đang đánh cá ở vùng biển
nằm ngoài khơi của bờ biển Mă Lai Á. Tuy
vậy, trong ḷng tôi vẫn lo ngại. Sau
đó ghe chúng tôi tiếp tục nhắm hướng
Tân Gia Ba mà chạy. Đi được một ngày
th́ bổng nhiên tôi nh́n thấy từ xa xa ở hướng
Nam hiện ra một đốm đen. Dùng ống ḍm
để quan sát, tôi mới rơ đó là
chiếc máy bay trực thăng đang bay về hướng
chúng tôi. Trực thăng càng lúc càng hiện rơ hơn.
Chúng tôi, tất cả mọi người trên ghe
rất vui mừng khi thấy máy bay trực thăng.
Khi đến gần, một người trên máy bay
chỉ tay vào chúng tôi và ra dấu tiếp tục
đi về hướng Nam. Nh́n về hướng Nam
chúng tôi thấy một con tàu cở lớn từ
từ hiện ra. Sau
nầy tôi được nghe kể lại rằng khi
tàu Cap Anamur được trực thăng cho biết
đă phát hiện ghe tỵ nạn chúng tôi th́
thuyền trưởng cho 2 máy tiến full (với
tốc độ tối đa) hầu kịp thời
ngăn chận mọi bất trắc có thể
xảy ra cho ghe chúng tôi. Và sau khoảng 2 tiếng
đồng hồ th́ tàu đă đến gần chúng
tôi. Trên tàu, thuỷ
thủ đoàn phóng loa kêu gọi chúng tôi đừng
sợ hải, hảy b́nh tỉnh. „Đây là tàu CAP
ANAMUR của Tây Đức đang
cứu vớt các bạn“. Thế là mọi người trên ghe đều
lộ vẻ vui mừng khôn tả nhưng tôi vẫn
yêu cầu họ hăy b́nh tỉnh, giữ trật
tự, ở đâu ngồi đó. Nếu di động
không trật tự th́ ghe có thể bị lật úp
hoặc ghe sẽ bị nghiêng, bị vô nước và
ch́m, nhất là lúc ghe đang cập vào tàu. Lần
nữa, mọi người nghe lời yêu cầu
của tôi và ở đâu ngồi đó. Họ cũng
đă thấy vợ và 2 con của tôi cũng ngồi
yên tại chổ. Tôi thầm cảm ơn họ. Bây
giờ tôi cảm thấy khả năng hàng hải
rất hửu dụng của ḿnh sau 2 năm được
đào tạo ở trường Sĩ quan Hải quân
Nha trang và gần 9 tháng thực tập trên các
chiến hạm HQ471, HQ10 cũng như những năm
phục vụ trên Dương Vận Hạm HQ503.
Sau khi ghe tôi
đă được cập vào tàu Cap Anamur, những
thuỷ thủ của tàu cũng bắt đầu
xuống ghe tôi. Họ dùng cần cẩu trên boong tàu
để giúp chúng tôi lần lượt đưa
tất cả 148 người trên ghe lên tàu của
họ. Tôi rời khỏi ghe sau cùng. Sau khi mọi người
trên ghe đă được di chuyển lên tàu Cap
Anamur th́ thuỷ thủ đoàn đă phá huỷ ghe chúng
tôi để nhận ch́m xuống đáy biển.
Chiếc ghe thật mỏng manh đối với
biển cả mênh mông, giờ đây từ từ
đi vào ḷng biển. Tôi hướng mắt nh́n ghe
lần cuối, hiện lên một vẻ buồn không
tưởng, nhưng với tâm niệm „có sinh th́ có diệt“
theo giáo lư nhà Phật, tôi cũng cố quên đi. Tôi thầm cảm ơn
chiếc ghe đă
cưu mang 148 đồng bào thân yêu bỏ nước
ra đi, trong đó có tôi cùng gia đ́nh. Ghe đă
đưa chúng tôi đến bờ tự do. Trên tàu Cap
Anamur, chúng tôi được thuyền trưởng cùng
thuỷ thủ đoàn chào đón một cách niềm
nỡ và họ nấu cháo cho chúng tôi ăn sau
nhiều ngày đói khác trên biển. Họ cũng săn
sóc thuốc men cho chúng tôi nếu có người
bệnh hoạn. Trước những cử chỉ thân
thiện của thuỷ thủ đoàn trên tàu, họ
đă hỗ trợ tinh thần rất nhiều cho chúng
tôi nhằm nhanh chóng phục hồi lại sức
khoẻ.
Sau khi họ đă cứu vớt chúng tôi, tàu
tiếp tục di chuyển trên biển đông ở
gần bờ biển Việt Nam khoảng 10 ngày
nữa để tiếp tục cứu vớt thêm 4
chiếc ghe vượt biên khác, tiếp nhận
khoảng trên 500 người.
Tại hải cảng Tân Gia Ba Sau
cùng, con tàu ân nhân Cap Anamur chở chúng tôi đến
hải cảng Tân Gia Ba vào những ngày đầu tháng
7 năm 1980. Đó là chuyến thứ 8 của tàu Cap
Anamur ra khơi cứu vớt người vượt
biển t́m Tự Do trở lại cảng. Gọi
tắt là Cap Anamur 8. Tàu không
cập bến, chỉ neo trong hải cảng. Ở
đó chúng tôi được chích thuốc ngừa.
Không một ai được lên bờ. Cao Uỷ Liên hiệp Quốc tại Tân
Gia Ba cũng xuống tàu để phỏng vấn chúng
tôi. Người nào có thân nhân ở hải ngoại
th́ được ưu tiên thiết lập danh sách
đi đoàn tụ gia đ́nh nhưng họ cũng
phải đến trại tỵ nạn tạm trú
một thời gian. Riêng vợ chồng tôi th́ bấy
giờ có người bác phía vợ đang hành
nghề luật sư bên Gia Nă Đại. Nhưng khi
tôi tŕnh bày nguyện vọng muốn đi Mỹ th́
Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc nói rằng: Bạn
và gia đ́nh đă được tàu Tây Đức
vớt, vậy bạn và gia đ́nh có thể ưu tiên
đi Tây Đức. Nếu bạn đồng ư th́
trong mấy ngày nữa bạn sẽ đi ngay và không
cần lên trại tỵ nạn chờ đợi. Tuy
nhiên bạn cũng có thể đi Gia Nă Đại
theo diện bảo lănh, nhưng bạn và gia đ́nh cũng
phải qua tạm trú tại trại tỵ nạn
ở Sau khi được phỏng vấn, tôi
đă thảo luận với vợ về vấn
đề đi định cư ở nước
thứ ba. Vợ chồng chúng tôi cũng ngại ngùng
ở đảo v́ có 2 con c̣n quá nhỏ. Cháu lớn
nhất lúc bấy giờ được 3 tuổi và
cháu thứ hai chỉ được 18 tháng. Hơn
nữa chúng tôi cũng không muốn cậy nhờ ông
bác vợ ở Gia Nă Đại bảo lănh. Thế th́
tôi quyết định đưa gia đ́nh qua Tây
Đức xin tỵ nạn cọng sản. Tôi tâm
niệm: „trời sinh voi,
sinh cỏ“. Vợ chồng tôi đồng quan
điểm rằng ở đâu có Tự Do Dân
Chủ là nơi đó chúng tôi có thể định
cư và sẽ cố gắng xây dựng lại cuộc
đời mới. Chúng tôi đă trải qua
nhiều hiểm nguy, nhiều lần vượt biên
trước bị bắn, nhiều cay đắng,
nhiều gian truân, nhiều lần vô tù. Vợ con tôi
cũng chịu cùng cảnh ngộ, cũng chịu
đói khác, bịnh hoạn như mọi người
tù khác. Giờ đây chúng tôi đă may mắn
gặp được tàu cứu vớt th́ dù có
đi định cư bất cứ ở xứ nào cũng
đều tốt cả, miễn sao xứ đó có Tự Do Dân Chủ là được rồi.
Nhớ lại những năm xưa,
mỗi lần vợ tôi sinh con là tôi bị ở trong
tù. Con đầu ḷng được sinh ra khi tôi
ở trong “tù cải tạo” được 8 tháng
tại Trảng Lớn, Tây Ninh. Con thứ hai được
sinh ra khi tôi ở tù vượt biên tại Côn Đảo.
Với tâm niệm: “Chỉ
có tinh thần là quan trọng”, một bài học
rất quư giá, hàm súc nhiều ư nghĩa thâm sâu mà tôi
học được từ Trường Sĩ Quan
Hải Quân Nha Trang của thuở nào đă giúp tôi
nhiều nghị lực để vượt qua
mọi trở ngại và tiến lên. Suy gẫm
cuộc đời, bài học đó đă được
chứng minh.
Ngày
đầu tiên đến Tây Đức: Khi tôi quyết định đưa gia
đ́nh đi Tây Đức để định cư,
th́ Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc lo tiếp thủ
tục giấy tờ cho gia đ́nh tôi. Thế là sau vài
ngày chờ đợi trên tàu Cap Anamur ở hải
cảng Tân Gia Ba, gia đ́nh tôi cùng với một
số bà con vượt biên khác được chích
thuốc ngừa và được phân phối
quần áo mới để đi định cư
tại Cọng Hoà Liên Bang Đức (Bundes Republik
Deutschland) ở Tây Đức (West Germany). Một buổi sáng tinh sương, chúng
tôi được hướng dẫn lên xe buưt đang
đậu ngay bến cảng để được
chở ra phi trường Tân Gia Ba. Xe buưt chạy xuyên
qua thành phố Tân Gia Ba, có cả thuyền trưởng
tàu Cap Anamur là ông Werner Urban cùng đi về Tây
Đức. Một thành phố rất khang trang và
sạch sẻ. Rất tiếc rằng tôi chưa có
dịp để thăm phố thị muôn màu của
bán đảo nầy. Khi
qua Tây Đức tôi được biết thêm,
vào năm 1979 Liên Hiệp Quốc
họp tại Geneve, Thụy sĩ, đă kêu gọi
những quốc gia Tây Âu cứu nhận nạn nhân
đến từ Đông Dương, nhất là đồng
bào chạy tỵ nạn từ Việt Nam. Riêng chính
quyền Tây Đức đă đồng ư sẽ
nhận khoảng 30.000 người tỵ nạn
từ Đông nam Á, đặc biệt là từ
Việt Sau thời gian ngắn xe buưt đă đến
phi trường Tân Gia Ba.
Tôi
c̣n nhớ, khi ông thuyền trưởng Werner Urban cùng
đi với chúng tôi đến phi trường Tân
Gia Ba, ông ta ứa nước mắt trước khi lên
máy bay Lufthansa. Có lẽ ông rất xúc động
đă cứu được nhiều thuyền nhân và
giờ đây họ sẽ lên đường đến
một xứ lạ là quê hương của ông,
một quê hương đang có Tự Do Dân Chủ và
có những hành động nhân đạo. Vào buổi chiều tối, chiếc phi
cơ Lufthansa của Tây Đức chở 145 người
vượt biên xin tỵ nạn tại Tây Đức,
trong đó có gia đ́nh tôi rời phi trường Tân
Gia Ba. Sau khoảng 12 giờ bay vào ban đêm, phi cơ
hạ cánh tại phi trường Frankfurt am Main, Tây
Đức vào buổi sáng sớm ngày 15.7.1980. Tại đây, một số người
tỵ nạn trong nhóm chúng tôi được đổi
máy bay tiếp tục đi lên miền Bắc Đức
ở Hamburg, hoặc đến tiểu bang
Rheinland-Pfalz, hoặc đi Saarbruecken. Một số người
đi lên thành phố May mắn thay, gia đ́nh tôi không đi
Bá Linh. Chúng tôi cùng một số người tỵ
nạn khác, tổng cọng khoảng 100 người
ở lại chờ đợi để đổi máy
bay đi đến phi trường Duesseldorf thuộc
tiểu bang Nordrhein-Westfalen bên Tây Đức. Trong lúc
chờ máy bay để đi tiếp tục, tôi và 2
con đứng bên cửa sổ của pḥng chờ
đợi, hướng mắt ra xa. Nh́n qua cửa
kiếng, hướng về những cao ốc, tôi
đoán rằng đó là trung tâm thành phố Frankfurt .
Ḷng ḿnh xôn xao làm sao!. Suy nghĩ về quá khứ,
nhớ về quê hương rồi nh́n về tương
lai, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Nghĩ
về cuộc đời binh nghiệp, đă bao nhiêu
năm chinh chiến, tôi suy tưởng, ít ra ḿnh cũng
đóng góp phần nào cho quê hương, cho Tổ
Quốc để bảo vệ tiền đồn
Tự Do. Bây giờ có rời xa quê hương ḿnh cũng
không ân hận cho lắm. Rồi tôi
thầm nghĩ, nếu không có ngày 30.4.1975 th́ hy
vọng vào năm 1975 ḿnh cũng sẽ có cơ
hội được qua Mỹ du học 153 tuần
thuộc chương tŕnh đào tạo Master of Art
hoặc Master of Science hoặc cao hơn cho những sĩ
quan quân lực VNCH có văn bằng cử nhân
nhằm sau nầy góp phần tái thiết đất nước
thời hậu chiến sau khi Hiệp định Paris
được kư ngày 27.1.1973, chiếu theo Thông Tư
của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH năm
1974. Đến tháng 4 năm 1975 tôi đă học xong
chương tŕnh Ban Cử nhân thuộc Đại
học Luật Khoa Sài G̣n. Niềm mơ ước ngày
ấy không trở thành sự thật. Và giờ đây
hiện diện nơi quê người tôi th́ thầm: „Nhớ
nước đau ḷng con quốc quốc. Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia“…
Tây
Đức mùa nắng hạ 2008 Ghi
chú:
Một số h́nh ảnh trên được trích trong
cuốn sách “Thế Kỷ Người Tỵ
Nạn”(Das Jahrhundert der Fluechtlinge) do Uỷ Ban Bác Sĩ
Cấp Cứu Đức (Deutsches Komitee NOT-Aerzte) biên
soạn năm 1981.
|