Tỵ
Nạn và Cuộc Đời
|
LGT:
Để
tiện chọn mục xem, xin click vào số mục:
(Tây Đức, Tháng 10 năm 1980: NVP, vợ và 2 con) (Tháng 6 năm 2003: NVP, vợ và 3 con) (Lời mở đầu: „Tỵ Nạn và Cuộc Đời - Phần 2: Cuộc Đời Mới“ nối tiếp Phần một: Lần Vựợt Biên Sau Cùng 23.06.1980 nhằm ghi lại quăng đời của một Gia đ́nh Tỵ nạn cộng sản đến Tây Đức định cư với hai bàn tay trắng cũng như những năm tháng xây dựng Cuộc Đời Mới.)
1.
Định cư nơi xứ người: Sau gần 45 phút, xe chạy xuyên qua một vài thành phố và trên xa lộ, chính quyền địa phương đưa gia đ́nh tôi cùng 25 người đồng hương khác đến một pḥng hội của nhà thờ Tin Lành tại thành phố Recklinghausen khoảng 13:00 giờ. Chúng tôi được chính quyền địa phương tiếp đón nồng hậu và cho ăn trưa. Mỗi người trong chúng tôi nhận mỗi phần ăn gồm có nửa con gà nướng, ổ bánh ḿ và lon coca cola. Chỉ trong một buổi đón tiếp rất b́nh thường và thân mật mà chúng tôi cũng được thành phố ưu đải cho nửa con gà nướng vàng màu caramel, ăn thấy ngon miệng quá. Vậy mà phó thị trưởng của thành phố Recklinghausen, ông Ramhorst, trong lời chào mừng nói rằng “các bạn ăn tạm lót ḷng cho đở đói v́ làm giấy tờ có thể lâu”. Tôi thầm nghĩ, người dân xứ tự do, tư bản sao mà sung sướng và giàu có quá vậy!. Tôi nhớ lại, khi c̣n ở trong “tù cải tạo” năm 1977, có lần được xem phim thấy 1 hoàng tử giả ở tây Âu cầm đùi gà nướng vàng rói, ăn ngon lành làm cho hầu hết tù viên chúng tôi đều thềm thuồng và chảy nước miếng. Sau 3 giờ làm giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ xin tỵ nạn cộng sản tại Tây Đức chúng tôi được phân chia đến các chổ ở khác nhau trong thành phố. Gia đ́nh tôi được đưa tới một căn pḥng nhỏ để ở và chờ dọn đến một căn nhà khác đang được tân trang. Mặc dù gọi là tạm trú nhưng khi gia đ́nh tôi được đưa đến nơi th́ cũng nhận được tất cả những thứ cần dùng để nấu nuớng, ăn uống và có cả giường, ra, mền, gối để ngủ. Ngay cả giường ngủ trẻ con và đồ dùng riêng cho 2 con tôi cũng được cung cấp. Tất cả toàn là đồ mới. Chúng tôi được giúp đở mở trương mục ngân hàng để cho cơ quan xă hội của thành phố chuyển tiền trợ cấp xă hội hàng tháng vào đó để chúng tôi sống. Sau gần 2 tháng, gia đ́nh tôi được dọn đến căn nhà (Wohnung, Apartment, Flat) gồm 3 pḥng ngủ, 1 pḥng tắm và một nhà bếp. Ngoài ra, có thêm một cái hầm để chứa dụng cụ đồ đạc. Lúc bấy giờ xă hội vẫn trả tiền thuê nhà cho gia đ́nh tôi và trợ cấp tiền ăn uống cho cả gia đ́nh. 2. Cuộc đời mới: Kể từ tháng 10 năm 1980, Sở Lao Động (Arbeitsamt) thành phố Recklinghausen đă tổ chức cho những người tỵ nạn tại thành phố học tiếng Đức. Nơi học tại một pḥng hội của nhà thờ Tin Lành gần nhà tôi ở khoảng 300 m. Mỗi ngày vợ chồng tôi thay phiên nhau giữ con và đi học. Mỗi ngày tôi học được 2 giờ sinh ngữ Đức. Khi đi học tiếng Đức, người tỵ nạn vẫn nhận được tiền trợ cấp, tương đương khoảng 85% của mức lương tối thiểu của một công nhân b́nh thường, cao hơn mức trợ cấp xă hội. Song vào đó, mỗi đứa con cũng nhận được tiền trợ cấp cho trẻ con. Khoá học tiếng Đức đầu tiên là 9 tháng. Sau đó gia hạn học thêm 3 tháng nữa. Tồng cọng được 1 năm. Sau đó vợ tôi ở nhà trông nom các cháu. Hàng ngày, khi các cháu được gởi ở vườn trẻ th́ vợ tôi cũng t́m một vài công việc ngắn hạn, vài giờ để làm. Những thời gian c̣n lại th́ lo cho gia đ́nh. Lúc bấy giờ người tỵ nạn được sự giúp đở một cách rất tận t́nh của thành phố. Sau khi học xong khoá tiếng Đức 1 năm th́ người tỵ nạn, tuỳ theo khả năng và tŕnh độ của mỗi người, mà được Sở Lao Động (Arbeitsamt) thành phố giới thiệu đến những Trung tâm Huấn nghiệp để được đào tạo chuyển nghề, tiếng Đức gọi là Umschulung, một thời gian khoảng từ 18 tháng đến 2 năm. Sau đó Sở Lao Động t́m kiếm và giới thiệu các hăng xưởng để người tỵ nạn có thể xin việc làm. Nhờ vậy mà hầu hết người tỵ nạn, sau khi đă theo học một khoá chuyển nghề th́ đă t́m được việc làm. Những người chưa đi làm th́ nhận tiền thất nghiệp khoảng 67 % của tiền lương tối thiểu trong ṿng 2 năm. Sau đó người nào vẫn chưa t́m được việc làm th́ nhận tiền trợ cấp thất nghiệp, khoảng 53% của mức lương tối thiểu mặc dù họ chưa đi làm ngày nào ở xứ Đức cả. Nếu gia đ́nh nào mướn nhà, trừ tiền ăn uống theo tiêu chuẩn xă hội tại tây Đức, mà không đủ tiền trả tiền mướn nhà th́ có thể đến cơ quan Trợ Cấp Thuê Nhà để xin tiền trợ cấp thêm cho đủ sống. Các con cái th́ được vào trường học mà không trả tiền ǵ cả. C̣n những ai có đủ điều kiện và tŕnh độ tiếp tục học đại học th́ có thể nộp đơn xin học ở các đại học nhưng phaỉ hội đủ một số điều kiện như bằng cấp Tú Tài toàn phần và tŕnh độ tiếng Đức.. Sau 9 tháng học tiếng Đức đầu tiên, tôi tiếp tục thi vào dự bị đại học để học tiếp. Tại Việt Nam, trước tháng 4 năm 1975 tôi đă học hết năm chót của chương tŕnh Cử Nhân Luật Khoa thuộc Viện Đại Học Sài G̣n, ban Công Pháp. Tại Đức tôi được công nhận một nửa chương tŕnh học nhưng tôi tin rằng tôi không thể theo học ngành Luật tiếp tục v́ tiếng Đức mới được học chỉ có mấy tháng. Nói chung th́ việc học nào, dù ở bất cứ quốc gia nào cũng không đơn giản. Nhất là đối với người tỵ nạn mới qua Đức đă lớn tuổi rồi và bấy giờ mới học tiếng Đức - một thứ ngôn ngữ mà đối với tôi rất là xa lạ và rất khó hiểu nếu so với tiếng Anh hay tiếng Pháp. Bây giờ lại mơ vào đại học nữa th́ đă thấy khó khăn biết dường nào. Nghĩ lại cuộc đời, lớn lên trong thời chiến tranh loạn lạc, học hành thật là gian truân. Càng suy nghĩ, càng đau ḷng. Giờ đây tôi quyết tâm làm lại cuộc đời. Dù có trể cũng c̣n hơn không. Nhờ có được văn bằng Tú Tài toàn phần ban B (Toán-Lư-Hoá) mà tôi được tuyển chọn vào sĩ quan Hải quân. Tôi tự suy nghĩ: Bây giờ có cơ hội học đại học tại sao ḿnh lại không học?. Cứ thử khả năng và thời vận đi xem sao. Nếu không vượt qua được những kỳ thi hóc búa ở đại học th́ đi xin việc làm khác cũng chẳng muộn. Cuộc Đời Mới được bắt đầu từ đó. 3. Bậc Đại Học: Đối với sinh viên Việt Nam Cộng Hoà th́ văn bằng tú tài toàn phần được công nhận tại Đức nhưng sinh viên phải tham dự kỳ thi nhập học gồm Toán, Lư, Hoá và tiếng Đức hoặc có thể theo học một năm Dự bị Đại học gọi là Studienkolleg như các sinh viên ngoại quốc gồm 4 môn học: Toán, Vật lư, Hoá học và sinh ngữ Đức. Tôi đă chọn cách theo học 1 năm Studienkolleg trước khi ghi danh theo học ngành Điện Tổng Quát (Elektrotechnik) tại Đại học (University) Duisburg có tên là Gerhard Mercator University. Gerhard Mercator là cha đẻ ra hải đồ Mercator. Mời xem bài viết Hải Đồ Mercator (Mercator Nautical Map) Sau khi tốt nghiệp một nửa chương tŕnh học (Vordiplom tương đương với BS bên Mỹ) th́ tôi học chuyên về Truyền Thông (Nachrichtentechnik, Telecommunicationstechnic) trong giai đoạn Hauptstudium (chuyên ngành).
Tôi c̣n nhớ kỳ thi Toán của năm học
đầu tiên ở đại học, tổng
cọng có 146 sinh viên ghi danh tham dự thi nhưng
chỉ có 18 sinh viên trúng tuyển. Kỳ thi rất
hóc búa. Giáo sư Toán của Đại học Ở đại học Duisburg mà tôi đă theo học, nếu sinh viên thi rớt bất cứ môn học nào 3 lần, dù thi rớt ở giai đoạn nào đi chăng nữa, ngay cả giai đoạn làm luận án ra trường cũng vậy, th́ sinh viên đó sẽ bị loại ra khỏi ngành học và không được theo học ngành đó tại Tây Đức nữa. Như vậy công lao trong mấy năm cần cù đèn sách nay trở thành dă tràng xe cát. Hầu hết các môn thi của đại học đều xảy ra vào kỳ nghỉ hè từ trung tuần tháng 8 đến giữa tháng 10. Thí sinh có quyền ghi danh thi hay không. Nếu thí sinh thi rớt môn học đó vào mùa hè th́ phải thi tiếp vào thời gian nghỉ mùa đông khoảng tháng 3. Lẽ tất nhiên sinh viên không có nhiều thời gian để chuẩn bị v́ c̣n phải theo học các môn khác. Nhưng sinh viên không được bỏ qua môn thi vừa rớt. Nếu bỏ qua và không có lư do chính đáng th́ được xem như hỏng môn đó lần thứ 2. V́ thế nếu sinh viên chuẩn bị chưa tốt cho môn thi sau khi học xong môn học, thường là 1 năm và được tổ chức vào mùa hè, th́ không nên ghi danh thi.
Được
biết, có nhiều sinh viên du học trước năm
1975 đă bị găy gánh bậc Đại học
với nhiều lư do khác nhau. Có lẽ sinh viên theo
học bậc Đại học (University) tại Đức
kéo dài quá lâu v́ văn bằng tốt nghiệp là Cao
học (MS, MA)
hoặc Bác sĩ, Nha sĩ
nên có nhiều khó khăn mà sinh viên phải đối
phó.
Đối
với các sinh viên
Việt Nam th́ gặp một số khó khăn sau 30.4.1975. Trong chương tŕnh đại học (University) tại Đức có 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 gọi là cử nhân bán phần hoặc kỹ sư bán phần gọi là Vordiplom. Sinh viên phải hoàn tất tất cả những điều kiện như các phần thực tập nhiều tháng ở ngoài kỹ nghệ và phải thi đậu tất cả các môn học tổng quát cho ngành học của ḿnh được quy định trong giai đoạn 1 th́ sinh viên mới được cấp văn bằng cử nhân / kỹ sư bán phần, và được xem tương đương như bằng BS ở Mỹ. Từ đó sinh viên mới được phép theo học các môn học ở giai đoạn 2 gọi là Hauptstudium (bậc Cao Học). Khi theo học giai đoạn 2 sinh viên có thể lựa chọn những môn chuyên ngành. Sau khi thi đậu tất cả các môn ở giai đoạn 2 kể cả phần thực tập ngoài kỹ nghệ th́ sinh viên có thể t́m giáo sư theo ngành học để đở đầu làm luận án ra trường gọi là Diplomarbeit kéo dài khoảng 6 tháng hay lâu hơn tuỳ theo ngành học và khả năng của sinh viên. Sau khi làm xong luận án và nếu giáo sư của bạn đồng ư th́ chấm điểm đậu. Điểm luận án ra trường được cộng chung với điểm của tất cả môn thi ở giai đoạn 2 để được đánh giá cao thấp, bạn được xem như tốt nghiệp University hoặc Technische Hochschule (Đại Học Kỹ Thuật) và được cấp văn bằng Diplom Ingenieur (Văn bằng Kỹ sư). Với văn bằng nầy, kỹ sư có thể ghi chữ Diplom Ingenieur (viết tắt: Dipl.-Ing.) trước họ tên của ḿnh và có thể làm luận án tiến sĩ gọi là Doktorarbeit (PhD) nếu có 1 giáo sư đở đầu. Thông thường những kỹ sư tốt nghiệp từ hạng điểm “good =B” trở lên. Thời gian làm luận án tiến sĩ tuỳ theo ngành học kéo dài từ 3 đến 4 năm. Luận án tiến sĩ thuộc dạng nghiên cứu, không phải thi cử các môn như ở các quốc gia khác. Sau khi Doktorant (nghiên cứu sinh TS) đạt kết quả th́ giáo sư đở đầu sẽ đồng ư tŕnh ra Hội đồng Giáo sư khảo hạch về đề tài mà ḿnh nghiên cứu. Thông thường th́ gồm có 3 vị giáo sư. Nếu bạn được Hội đồng Giáo sư chấp thuận cho đậu th́ bạn được cấp bằng tiến sĩ chuyên ngành. Về kỹ thuật gọi là Dr. Ingenieur (viết tắt: Dr.-Ing.). Hầu hết các đại học tại Tây Đức gọi là Universitaet (University) hay Technische Hochschule đều đào tạo kỹ sư có bằng Master trở lên ngoại trừ Đại học Chuyên nghiệp (Fachhochschule) chỉ đào tạo ra kỹ sư tương đương với BS tại Mỹ. Kỹ sư tốt nghiệp Đại học Chuyên nghiệp Fachhochschule không được quyền ghi chữ Diplom Ingenieur trước họ tên mà chỉ được phép ghi sau họ tên trong ngoặc đơn để người ta có thể phân biệt: (Diplom Ingenier FH). FH là chữ viết tắt của chữ Đại học Chuyên nghiệp “Fachhochschule”. Kỹ sư tốt nghiệp Đại học Chuyên nghiệp không được quyền làm luận án tiến sĩ mà văn bằng kỹ sư chỉ được đánh giá cao hơn Vordiplom (Cử nhân / Kỹ sư Bán phần, tương đương BS) của đại học “University hoặc Technische Hochschule (Đại Học Kỹ Thuật)” mà thôi. Hiện nay hệ thống giáo dục tại Đức quốc đă dần dần được thay đổi phần nào giống như hệ thống giáo dục của Mỹ. Bậc Trung Học chỉ kéo dài 12 năm thay v́ 13 năm và bậc Đại học (University) có văn bằng Bachelor (Cử Nhân) và Master (Cao học). Sau khi có Master mới có quyền làm luận án tiến sĩ. Đại học Chuyên nghiệp (Fachhochschule) vẫn giữ nguyên. Tại Tây Đức, lúc tôi theo học trước đây, sinh viên không phải trả học phí. Ngày nay sinh viên học đại học phải trả phần nào học phí (Studiengebuehr). Tổn phí về ăn ở th́ sinh viên nào không có sự trợ cấp của cha mẹ có thể mượn tiền của chính phủ gọi là BAFöG để ăn học. Sau 5 năm kể từ ngày ra trường, đi làm th́ phải hoàn trả lại số tiền đă mượn. Trả theo từng tháng nhưng không phải trả tiền lời. Bây giờ sinh viên được chính phủ tài trợ một nửa (50%) và sinh viên chỉ trả tiền một nửa (50%) tiền mượn mà thôi. Lúc tôi đi học, tiền mượn phải được trả lại 100%. May mắn thay, tôi đă tốt nghiệp đại học đúng với thời gian quy định cho ngành học của ḿnh để có được văn bằng Kỹ sư (Diplom Ingenieur). Tôi cũng đă nhận được bằng ban khen của Đại học v́ tốt nghiệp điểm tốt (good) và học đúng thời hạn quy định. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đă có việc làm. 4 . Vườn Trẻ (Kindergarten): Khi gia đ́nh tôi vừa đến Đức một thời gian vài tháng th́ đứa con đầu ḷng của tôi được gởi vào vườn trẻ. Trẻ con từ 3 tuổi đến 6 tuổi có thể được gởi vào vườn trẻ. Tiếng Đức gọi là Kindergarten mà ngay cả các nước ở Âu Mỹ cũng dùng từ nầy v́ nước Đức là nước đầu tiên nghiên cứu và tổ chức xây dựng vườn trẻ ở Tây Âu. Ở đó có nhiều cô giáo được đào tạo đúng tiêu chuẩn giáo viên để hướng dẩn trẻ con. Hầu hết các vườn trẻ do các tôn giáo lớn như Tin Lành hay Công giáo đảm trách, tổ chức và xây dựng. Vào buổi trưa, trẻ con được gia đ́nh đưa về nhà rồi buổi chiều đưa trở lại. Những trẻ con nào mà cha mẹ bận đi làm suốt ngày, không có người đưa rước th́ có thể được gởi vào một loại vườn trẻ khác gọi là Kinderhorte. Ở đây các cháu được ăn trưa và có giờ nghỉ. Tuy nhiên cha mẹ phải đóng tiền lệ phí hàng tháng. Tại Tây Đức lớp Mẫu giáo được đưa vào chương tŕnh năm cuối cùng của vườn trẻ, khi trẻ em tṛn 5 tuổi . Các em được học làm quen với cuộc sống ngoài xă hội. Ví dụ như có những tṛ chơi chung, sinh hoạt chung, làm việc chung hay đi thăm viếng tập thể v.v. Hiện nay có một số vườn trẻ được thí điểm giảng dạy bằng 2 ngôn ngữ Đức và Anh ngữ. 5 . Bậc Tiểu Học (Grundschule): Khi tṛn 6 tuổi th́ các cháu được giới thiệu vào các trường tiểu học. Nơi đây học sinh không phải trả học phí và do thành phố hoặc các tổ chức pháp nhân thuộc các tôn giáo đảm trách. Thời gian học ở trường tiểu học tại Đức kéo dài 4 năm. Mỗi lớp có khoảng 25 em. Học sinh học từ lớp 1 cho tới lớp 4. Trong thời gian học tập, học sinh được các thầy cô theo giỏi rất kỷ về năng lực học vấn của từng em qua những bài khảo sát để sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học th́ học sinh được giới thiệu đến một trong những trường trung học khác nhau sau đây: 6 . Bậc Trung Học (Gymnasium, Gesamtschule, Realschule, Hauptschule): Sau khi tốt nghiệp ở bậc tiểu học, lúc đó học sinh đă tṛn 10 tuổi. Học sinh có thể được nhà trường giới thiệu tiếp vào các trường trung học. Tuỳ theo khả năng học vấn của mỗi học sinh mà học sinh đó có thể được nhà trường bậc tiểu học giới thiệu đến học trường nào sau đây: - Trường Chính (Hauptschule): Học từ lớp 5 cho tới lớp 9. Loại trường nầy dành cho những học sinh học ở bậc tiểu học quá yếu kém. Sau khi tốt nghiệp Trường Chính, học sinh có thể được theo học những nghề như thợ mộc, thợ hồ v.v. mà không đ̣i hỏi tŕnh độ học lực cao. - Trường Hướng Nghiệp (Realschule): Học từ lớp 5 cho tới lớp 10: Loại trường nầy dành cho các học sinh tương đối khá hơn và có ư muốn được học nghề từ năm 16 tuổi. Tuy nhiên sau khi tốt nghiệp lớp 10 học sinh có thể học thêm 2 năm nữa ở đệ nhị cấp được gọi là Fachoberschule để thi lấy bằng tú tài kỹ thuật (Fachabitur). Sau khi tốt nghiệp, học sinh có thể ghi danh học đại học chuyên nghiệp (Fachhochschule). Đại học nầy chỉ dành cho sinh viên theo học các ngành về kỹ thuật mà thôi. Thời gian học là 4 năm kể cả thời gian làm thực tập ngoài kỹ nghệ và làm luận án ra trường. - Trường Trung Học Tổng Hợp (Gesamtschule): chỉ có ở một số tiểu bang mà thôi: Loại trường nầy dành cho học sinh tương đối khá hơn và theo học từ lớp 5 cho tới lớp 13. Học sinh có thể ở lại trường ăn trưa và buổi chiều học tiếp có sự giúp đở của giáo sư. - Trường Trung Học Phổ Thông (Gymnasium): Học từ lớp 5 cho tới lớp 13. Có nghĩa là từ 10 tuổi cho tới 19 tuổi. Trường nầy dành cho học sinh giỏi ở bậc tiểu học. Thông thường học sinh đến truờng mỗi ngày, học tới khoảng 14 giờ th́ về nhà và làm bài tập tại nhà. Những năm gần đây nhiều tiểu bang tại CHLB Đức đă thay đổi thời gian học ở Gesamtschule và Gymnasium chỉ đến lớp 12. Chương tŕnh học của lớp 13 được chia đều cho các lớp 10, 11, 12. Trong thời gian học ở các trường Chính, trường Hướng Nghiệp, những học sinh nào chịu cố gắng học giỏi cũng có cơ hội chuyển qua các trường khá hơn để có cơ hội vào đại học. Sau khi tốt nghiệp các trường trung học Phổ Thông và trung học Tổng Hợp, học sinh có thể ghi danh trực tiếp vào đại học (University, Hochschule). Có một vài ngành học ví dụ như ngành y khoa, học sinh phải nộp đơn xin học tại một trung tâm phân phối chổ học của Liên Bang (ZVS: Zentralstelle fuer die Vergabe von Studienplaetzen) để được tuyển chọn. Bậc Đại Học tại Tây Đức có quyền tự trị tuỳ theo mỗi tiểu bang. Hầu hết là trường công lập. May mắn cho các con của tôi sau khi học xong chương tŕnh bậc tiểu học đă được vào học trường trung học Phổ Thông (Gymnasium). Sau khi tốt nghiệp trung học, các cháu đă vào thẳng đại học. 7 . Gia đ́nh và cuộc sống: Vợ chồng tôi có 3 con: 2 trai, 1 gái. Bây giờ cháu trai lớn nhất (Kỹ sư, Dipl.-Ingenieur, MS) là Manager ngành IT (Information Technology). Cháu trai thứ hai là Bác sĩ Chuyên khoa Nội thương. Đă có pḥng mạch tư vào năm 2011. Có vợ và 2 con: 1 gái, 1 trai. (Tại Tây Đức muốn mở được pḥng mạch Chuyên Khoa Nội Thương th́ phải học 13 năm ở bậc Trung học phổ thông, 6 năm học Y Khoa Tổng Quát và sau khi tốt nghiệp Bác sĩ phải có ít nhất 6 năm làm việc ở bệnh viện Chuyên khoa Nội thương và vừa làm vừa học. Sau 6 năm phải có 1 kỳ thi khảo hạch của Hội đồng Giáo Sư Y Khoa Bác Sĩ. Nếu thi đậu th́ mới được cấp bằng Bác Sĩ Chuyên Khoa (Facharzt) và được quyền mở pḥng mạch với điều kiện Nghiệp đoàn Bác Sĩ chấp thuận nếu nơi đó thiếu pḥng mạch. Thông thường th́ Bác Sĩ hội đủ điều kiện mở pḥng mạch chỉ có thể sang lại pḥng mạch của những Bác Sĩ tới tuổi về hưu). Chú thích nầy vừa được cập nhật năm 2012 để độc giả hiểu thêm. C̣n đứa con gái được sinh ra tại Đức khi tôi đang làm luận án ra trường. Cháu tốt nghiệp trung học tại Mỹ lúc 16 tuổi và tốt nghiệp BS (Bachelor of Science) tại New York University – Stern School of Business, ngành Finance vào ngày 14 tháng 5 năm 2008. Lúc đó cháu c̣n là 20 tuổi. Hạng tối ưu (cum laude) và được bằng ban khen mang tên của Đại Học. Sau khi tốt nghiệp cháu làm việc ở Ngân hàng Đầu tư (Investment Bank Goldman Sachs) - một Ngân hàng rất nổi tiếng của Mỹ tại Wall Street, Manhattan, New York City. Hiện nay (2019) cháu đă là Executive Director của Goldman Sachs tại Âu Châu. H́nh con gái lúc 17 tuổi, trưởng phái đoàn gồm 8 sinh viên của Đại học, đang trước microphone của bục thuyết tŕnh để tŕnh bày về đề tài nghiên cứu của ḿnh trong Đại Hội National Model United Nations (http://www.nmun.org) tại New York ngày 22 tháng 3 năm 2005 (22nd March 2005). Đề tài do Liên Hiệp Quốc đưa ra đại cương “LHQ nên giúp đỡ quốc gia Madagascar, Nam Phi như thế nào để quốc gia đó có thể phát triển?”. Đề tài nầy có khoảng 650 sinh viên và giáo sư tham dự với sự tán thưởng của tham dự viên dành cho thuyết tŕnh viên. National Model United Nations Conference được tổ chức trong ṿng 5 ngày và quy tụ gần 3000 sinh viên và trên 200 giáo sư của các Đại học nỗi tiếng tại Mỹ và trên thế giới đến tham dự. Đại hội được chia thành 5 nhóm nghiên cứu những lănh vực của các quốc gia thuộc 5 Châu trên thế giới để nghị sự. Tại Mỹ quốc có khoảng 50% trong tổng số sinh viên tham dự. Lễ khai mạc Đại hội được tổ chức tại Sảnh Đường của Liên Hiệp Quốc (UNO) và được Tổng Thư Kư LHQ chào mừng và khai mạc Đại Hội. Những đề tài nghị sự do Liên Hiệp Quốc đưa ra trước ngày khai mạc mấy tháng để thuyết tŕnh viên của các Đại học có thời gian nghiên cứu. (H́nh kế bên được trích dẫn của NMUN).
Ngoài
ra vào tháng 11 năm 2005 cháu cũng đă
làm trưởng phái đoàn gồm 8 sinh viên Đại
học đến tham dự Đại hội American Model United Nation International tại Chicago, USA. (
http://www.amun.org/ ). Cháu đă thuyết tŕnh về
đề
tài “T́nh
h́nh Xă hội Quốc gia Kasachstan” thuộc Liên
Hiệp Nga.
Người ta nói hải quân bay bướm và lả lướt lắm. Chiến hạm cập nhiều bến. Hải quân có nhiều người yêu. Điều nầy tuỳ theo mỗi bạn hải quân và mỗi người yêu, người vợ của lính hải quân nhận định. Nhưng cho dù chiến hạm phải đi nhiều nơi, phải lênh đênh trên biển cả nhiều ngày tháng, phải chịu đựng và chiến đấu với sóng gió, với mưa bảo, có thể phải ghé nhiều bến nhưng cuối cùng bến chính vẫn là nơi dưỡng quân và bảo tŕ. Không ǵ vui hơn sau một chuyến hải hành công tác, chiến hạm trở về vùng đất hứa. Trong đó có bến bờ, có những con người yêu kiều âm thầm mong đợi người yêu. Đó là bến dành cho chiến hạm yêu thương. Bến chính đó là em !. Ngày xưa trong thời chiến tranh, th́ ai ai cũng nói đến sự hiểm nguy của cuộc đời lính chiến. Cũng có nhiều gia đ́nh, nhiều bậc cha mẹ chỉ muốn con gái ḿnh lấy chồng là các chàng trai dân sự mà thôi để cho yên tâm. Lấy chồng lính trong thời loạn ly, chinh chiến th́ sợ lắm. Sống nay chết mai, biết đâu mà lường. Từ nhận thức đó nên tôi cho rằng những cô gái nào trong thời chinh chiến, lấy chồng là lính chiến th́ rất gan dạ, chấp nhận mọi hiểm nguy và sẵn sàng hy sinh, chịu đựng rất đáng được cảm phục. …Lấy
chồng thời chiến chinh Người vợ lo cho chồng, người mẹ lo cho con trong thời chiến tranh th́ c̣n ǵ cao quư hơn trong cuộc đời!. Những cô gái đó, những người đàn bà đó gan dạ không thua ǵ lính chiến ngoài chiến trường. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức vào ngày 25.01.1975 tại Hội Quán Cây Tre ở đường Đinh Tiên Hoàng dành cho giới trẻ. Vào ngày 30.01.1975 nghi thức lễ cưới được chính thức tổ chức tại tư gia ở mặt tiền đường Nguyễn Thiện Thuật, Quận 3, Sài G̣n và tại nhà hàng Lê Lai ở Sài G̣n dành cho quan khách. Đám cưới rất vui v́ có sự tham dự của bạn bè cùng khoá và các bạn Sĩ quan thuộc HQ503. Sau một tuần trăng mật ở Đà Lạt tôi trở lại chiến hạm và đi công tác cho tới ngày tàn cuộc 30.4.1975.( Mời xem Hồi Kư Trận Chiến vùng Cà Ná, mũi Dinh ngày 18.4.1975 )
Khi tôi bị vào “tù cải tạo” được
7 tháng ở Trảng Lớn, Tây Ninh th́ vợ tôi sinh
đứa con trai đầu ḷng. Rồi người
vợ trong những năm tháng nuôi con chờ chồng,
thăm nuôi chồng ở những trại “tù
cải tạo” như ở Trảng Lớn, và
Trảng Táo ở Long Khánh. Rồi những lần cùng
chồng con vượt biển t́m tự do, vượt
qua bao nhiêu nguy hiểm, bao nhiêu tháng ngày bị
nhốt trong các nhà tù vượt biên của những
lần vượt biên không thành công và rồi
những năm tháng cùng nhau xây dựng cuộc
sống mới nơi xứ người. Thế
mới thấm thía và chứng minh lời nói bất
hủ trong quân trường Sĩ quan Hải quân Nha
trang: “chỉ có tinh
thần là quan trọng”. Tất cả những
gian nan khổ cực rồi cũng qua đi.
Là một Phật Tử, tôi suy nghĩ theo
triết lư nhà Phật, Thuyết
Luân Hồi. Mỗi người trong chúng ta sống
hiện nay có thể có liên quan tới kiếp trước.
Do đó vợ chồng hăy an tâm tự tại mà
sống. Kiếp trước 2 người có liên
hệ ǵ với nhau nên kiếp nầy phải gặp
nhau, sống với nhau để trả nghĩa ân t́nh.
Trời cao có mắt thương người lính
VNCH. Những cô gái lập gia đ́nh với các chàng
hải quân đă có nhiều cơ hội định
cư ở hải ngoại nhờ vào khả năng
đi biển của họ. Họ mang sở trường
hải nghiệp mà các quân trường Hải quân
đă đào tạo và trang bị cho họ năm xưa
để lèo lái, hướng dẫn những
chiếc thuyền nan mong manh đối với biển
cả mênh mông, vượt trùng dương bát ngát
để đi t́m Tự Do. Tuy vậy, có một
số lớn đồng bào không được may
mắn, thuyền ghe gặp băo, sóng to gió lớn, máy
móc bị hư, thiếu nhiên liệu trên đường
vượt biển đă phải bỏ thây nơi
đại dương.
May mắn hơn, đă có một số gia đ́nh
sĩ quan QLVNCH được qua Mỹ định cư
theo diện HO v́ họ đă bị cộng sản
nhốt tù trên 3 năm. Đó là hành động nhân
đạo cao thượng của nhân dân và chính
phủ Mỹ. Tôi xin được chia xẻ niềm
vui với mọi người được may
mắn đến bờ Tự Do. Gia
đ́nh tôi định cư tại Tây Đức
kể từ ngày
15 tháng 7 năm 1980. Con cái th́ cũng lớn hết
rồi. Các cháu đă tốt nghiệp Đại
học tại Đức cũng như tại Mỹ và
đă có việc làm. Vợ tôi, hiện tại đi
dạy nấu ăn cho người Đức lẫn
ngoại quốc, cũng vui. C̣n tôi đi làm b́nh thường.
Mấy năm nữa sẽ về hưu. Cầu mong
cho sức khoẻ tốt mà thôi. Cuộc đời
đă trải qua quá nhiều thăng trầm như
đường biểu diễn h́nh Sinus trong toán
học được biểu diễn trong hệ
thống trục toạ độ thẳng góc gồm
trục tung (Y) và trục hoành (X), mà tung độ (Y)
chỉ sự thăng trầm của cuộc đời
theo thời gian của trục hoành (X). Ngoài
những sinh hoạt trong Cộng Đồng Người
Việt Tỵ Nạn cộng sản, có những năm
tôi đă được bầu làm Uỷ Viên Hội
Đồng Tư Vấn Ngoại Kiều Thành Phố
(Ausländerbeirat) tại 8 . Xứ Đức:
Sống
tại Đức, cũng xin ghi lại đôi ḍng
về nước Đức. Nói chung, mức sống
của người dân tại Tây Đức khá
tốt. Có thể nói rằng nước Đức là
một trong những nước có nền kinh tế và
kỹ thuật khá cao mặc dù sau Đệ Nhị
Thế Chiến nước Đức bị đồng
minh kềm hăm phần nào về mặt quân sự và
phát triển vũ khí hay phương tiện chiến
tranh. Mặc dù chỉ có khoảng 81 triệu dân nhưng
nước Đức có số lượng vàng
dự trữ được công bố trên thế
giới, đứng hàng thứ 2 chỉ sau Hoa Kỳ mà
thôi. Những sản phẩm trước khi nước
Đức Thống Nhất năm 1990 đều
được ghi “Made in West Germany” th́ có thể nói
rằng mặt hàng đó rất tốt, đă
được thế giới ham thích v́ phẩm
chất khá nổi tiếng. Ngày nay sản phẩm
của Đức vẫn c̣n được trọng
dụng với xuất xứ “Made in Trước
khi Đông Âu sụp đổ năm 1989 th́ đời
sống người dân Đức tương đối
sung túc hơn bây giờ. Chính
quyền Tây Đức phải đổi cái giá
rất đắt cho sự thống nhất nước
Đức vào ngày 03 tháng 10 năm 1990. Tính đến
nay, năm 2008, Tây Đức phải chi tiêu trên 1150
tỷ Euro cho việc tái thiết phần đất
Đông Đức đă bị cộng sản cai
trị từ sau đệ nghị thế chiến cho
tới năm 1990. Mỗi công nhân đi làm phải
đóng tiền tái thiết đất nước. Ngoài
ra Tây Đức cũng chi viện cho lính Nga để
chúng rút khỏi vùng Đông Đức là 30 tỷ
Đức Mă. Năm 2012 tỷ lệ thất nghiệp tại Đức
là 7,9 %.
Riêng
về người Đức gốc Việt tại
Đức cũng được dân chúng Đức có
cái nh́n thiện cảm với sự thành công về
học vấn của con cái họ. Những tờ báo,
tạp chí nổi tiếng của Đức như Die Welt, Der Spiegel
… cũng đă tường thuật. Ngoài ra ông Dr.
Philipp Rösler, người Đức gốc Việt
đă làm rạng danh cho người Việt chúng ta.
Kể từ ngày 13.5.2011
trong
dịp Đại Hội
Đảng Dân Chủ Tự Do Đức (Freie
Demokratische Partei, FDP), Dr. Philipp Rösler được bầu làm
Chủ Tịch đảng FDP. Đảng FDP liên minh
với Union gồm có đảng CDU (Christische Demokratische
Union) và CSU (Christische Sozialische Union)
dưới sự lănh đạo của bà Dr. Angela
Merkel để nắm chính quyền tại CHLB Đức.
Bà Dr. Merkel được bầu làm Thủ Tướng.
Ông Dr. Rösler làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng
Kinh Tế CHLB Đức. Dr. Rösler là một chính
trị gia trẻ nhất của nước Đức
giữ chức vụ quan trọng và cao quư như
vậy. Như chúng ta biết, Dr. Rösler là người
Đức gốc Việt. Năm 1973, khi ông được
7 tháng tuổi đă được một gia đ́nh
Sĩ quan Không quân (Pilot) của Quân Lực CHLB Đức
nhận làm con nuôi từ một Cô Nhi Viện Khánh Hoà
ở miền Định
chế chính trị tại CHLB Đức theo chế
độ Lưỡng Viện gần giống như
Đại Nghị Chế ở Anh quốc, gồm 2
viện: Hạ Viện (Bundestag) và Thượng
Viện (Bundesrat). Hai nhân vật cao cấp nhất là
Thủ Tướng và Tổng Thống. Hạ Viện
bầu ra Thủ Tướng. Thông thường các
đảng phái chính trị ở Hạ Viện
phải liên minh với nhau để nắm quyền
nếu một đảng không đủ túc số quá
bán (>50%) của tổng số Dân Biểu được
bầu. Muốn được vào Hạ Viện th́
đảng phái chính trị đó phải có tối
thiểu 5% số ghế Dân Biểu được
bầu. Thủ Tướng có vai tṛ điều hành
quốc gia, có quyền hạn như Tổng Thống
ở các quốc gia theo Tổng Thống Chế như
Mỹ hay Pháp. C̣n Tổng Thống được
bầu bởi Hạ Viện và Thượng Viện.
Cương vị của Tổng Thống có tính độc
lập. Sau khi được bầu vào chức vụ
Tổng Thống th́ phải phi đảng phái.
Những công dân có đủ điều kiện
được quy định của Hiến Pháp, có
thể tự ứng cử hoặc được
đề cử để được bầu vào
chức vụ Tổng Thống. V́ vậy mà
có khi Tổng Thống CHLB
Đức
không
thuộc đảng phái chính trị nào.Thông thường th́
các đảng phái trong Quốc Hội chọn lựa
và đề cử ứng cử viên Tổng Thống.
Tổng Thống CHLB Đức có quyền giải
nhiệm chức vụ Thủ Tướng nhưng
lại không có quyền điều hành quốc gia như
Thủ Tướng. Vấn
đề an ninh quốc gia, tuyên chiến hay nghị hoà
đuợc do Hội Đồng An Ninh Liên
Bang
(Bundessicherheitsrat: BSR) quyết định trước
khi mang ra Hạ Viện bàn thảo. Với hệ
thống Lưỡng Viện Chế, Quốc Hội
Hạ Viện đóng vai tṛ rất quan trọng.
Hội Đồng An Ninh Liên
Bang gồm có 9
vị: Thủ Tướng, Giám Đốc (Chef, Chief)
của Văn Pḥng Thủ Tướng, Bộ Trưởng
Ngoại Giao, Bộ Trưởng Quốc Pḥng, Bộ
Trưởng Nội Vụ, Bộ Trưởng Tài Chánh,
Bộ Trưởng Tư Pháp, Bộ Trưởng Kinh
Tế, Bộ Trưởng Hợp Tác và Phát Triển
Kinh Tế. Tuỳ theo nhu cầu, vị Tổng Thanh Tra
Quân Đội (Generalinspekteur) có thể được
mời làm cố vấn chuyên môn. Ngoài ra Giám Đốc
của Văn pḥng Tổng Thống cũng được
mời tham dự cuộc
họp để quan sát với tư cách cá nhân.
Tại CHLB Đức, giai cấp công nhân ngành
nghề được đào tạo rất kỹ
về chuyên môn. Đi làm tại Đức, công nhân
phải đóng nhiều thứ tiền như tiền thuế hành nghề, tiền bảo hiểm hưu trí,
bảo hiểm xă hội, bảo hiểm thất
nghiệp, phải đóng bảo hiểm sức
khoẻ khoảng 15% của tiền lương hàng tháng.
Ngoài ra công nhân đi làm phải đóng tiền để
tái thiết Đông Đức. Nói chung tại Đức
người công nhân b́nh thường khó làm giàu nhưng
cuộc sống thoải mái, không bận tâm lắm
cho sự thiếu ăn hay bệnh hoạn v́ chính
họ đă đóng các bảo hiểm khi đi làm. Các loại tiền bảo hiểm được đóng theo phần trăm (%). Lương càng cao, đóng bảo hiểm và thuế càng nhiều. Công nhân độc thân đóng thuế và bảo hiểm nhiều hơn người có gia đ́nh… 9
.
Tạm
kết: Đêm
nay ngồi nơi gác lững (Galerie), mắt hướng
về xa xăm, nh́n vành trăng khuyết,
“vành trăng ai xẻ làm đôi”, bên những v́
sao lấp lánh, những áng mây bay lững lờ theo gió
thoảng, tôi thầm mong ước ngày nào trở
về quê hương để thăm đồng lúa
vàng, bờ ao, luỹ tre xanh thẳm. Đến bao giờ trở về Việt Càng
suy nghĩ về Quê Hương Dân Tộc, làm sao tôi
quên được xứ sở mà tôi đă
được sinh ra và lớn lên. Nơi đó tôi
đă cùng bạn bè trai lứa, cùng toàn dân miền
Nam Việt Nam đă chiến đấu bảo vệ
màu Cờ Vàng 3 sọc đỏ, biểu tượng
cho Tổ Quốc Việt Nam, biểu hiện cho Chính
Nghĩa Tự Do và có khoảng 250 ngàn chiến sĩ
Quân Lực VNCH đă Vị Quốc Vong Thân. Làm sao tôi
quên được những chiến sĩ và bạn bè
cùng khoá Sĩ Quan
Hải Quân thuộc Quân Lực VNCH oai hùng, đă anh dũng
chiến đấu chống lại đế quốc
Trung Cộng xâm lăng quần đảo Hoàng Sa vào
ngày 19.01.1974. Mời
xem Trận Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974
Và
tôi cũng luôn nhớ măi Ân Nhân của gia đ́nh chúng
tôi chính là Uỷ Ban Bác Sĩ Cấp Cứu người
Đức đă thực hiện Con Tàu Cap Anamur để
cứu khoảng 13 ngàn người Việt vượt
biển t́m tự do ở biển Đông. Nếu vào
cuối tháng 6 năm 1980 chúng tôi không được
cứu vớt bởi tàu Cap Anamur th́ không biết
số mạng chúng tôi sẽ như thế nào ?. Tây Đức, mùa nắng hạ 2008 (Bổ túc năm 2019) - Cựu Sĩ Quan HQ QL VNCH - Cựu Sinh viên Đại Học Luật Khoa Sài G̣n - Ban Công Pháp - Hiện là Kỹ sư ngành Điện / Viễn Thông bậc Cao học tại Tây Đức |