Trong bài phỏng vấn Đô Đốc Chung Tấn
Cang, chúng ta đă thấy được sự khéo léo
trong việc đem đoàn tàu ra khơi. Qua đó Đô
Đốc Chung Tấn Cang đă nhắc đến vai
tṛ quan trọng của Lực lượng Hậu
bị để ngăn bước tiến của địch
và giữ an ninh thủy tŕnh. Đó là nhiệm vụ
của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, do
Hải Quân Đại tá Lê Hữu Dơng, làm Tư-lệnh.
Để có một cái nh́n chính xác về Lực Lượng
này, chúng tôi đă t́m gặp Đại-tá Dơng,
hiện cư ngụ tại Bakersfield. Qua những
lần tṛ chuiyện mặt đối mặt, qua điện
thoại, thư tín, điện thư, cộng với
những thăm hỏi, đối chứng và cả
rất nhiều tài liệu của đối phương,
chúng tôi cô đọng và thực hiện bài viết này.
Được hỏi vể sự thành
lập Lực lượng này, các đơn vị
trực thuộc, nhiệm vụ và vùng hoạt động…
Đại-tá Dơng đă trả lời:
“…Lúc ấy, tôi đang làm Tư-lệnh-phó Lực Lượng
Tuần Thám, phụ tá cho Đô-đốc Nghiêm Văn
Phú th́ được Đô-đốc Chung Tấn Cang
gọi về thành lập Lực Lượng Đặc
Nhiệm 99. Đó là ngày 08 tháng 4 năm 1975. Trong
khẩn cấp, các đơn vị sau đây đă
được lấy về, gồm Giang Đoàn 42 Ngăn
Chận, Giang Đoàn 59 Tuần Thám, Đại Đội
Hải Kích, Địa Phương Quân, một số
giang đĩnh lấy ra từ những Giang Đoàn
Thủy Bộ, Ngăn Chận và Xung Phong. Kể cả
6 chiếc LCM8 của các căn cứ Yễm Trợ
Tiếp Vận. Mấy chiếc chiến đĩnh Zippo
phun lửa nữa… Nói chung, đây là một đại
đơn vị gồm rất nhiều loại tàu bè,
tất cả là 62 chiến đĩnh, một mũi
xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân
Miền Nam lúc bấy giờ.
Về nhiệm vụ, do khẩu lệnh mà
tôi nhận trực tiếp từ Đô-đốc Chung
Tấn Cang, Tư-lệnh Hải Quân th́ Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99 gồm những trọng trách sau
đây:
-
Thứ nhứt, Lực Lượng sẽ là đơn
vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính
Phủ rút về miền Tây, khi t́nh thế xấu.
-
Thứ hai là bảo vệ an ninh thủy tŕnh sông Soài-Rạp
và sông Ḷng-Tào nếu Hạm Đội phải rời
Sài G̣n ra biển.
- Và
thứ ba là bảo vệ Bộ Tư-Lệnh Hải Quân,
nếu có đảo chánh xẩy ra.
Do đó vùng hoạt động của
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 không nhất
định.”
Một cách tổng quát, hầu như ai
đă có chút quan tâm đến thời cuộc, đều
biết rằng ngày 20 tháng 4, mặt trận Xuân-Lộc
vỡ, Sài-G̣n đă thực sự bị đe dọa.
Với nhiệm vụ được nêu rơ ở trên,
một cách cụ thể, Lực Lượng Đặc
Nhiệm 99, đă hoạt động như thế nào.
Đă có những đụng độ nào đáng
kể. Trước những thắc mắc ấy, Đại-tá
Dơng thong thả đáp:
“Sài-G̣n kể từ ngày đó, quả
là những ngày hấp hối. Trong nhiệm vụ
của tôi, của Lực Lượng Đặc
nhiệm 99, chúng tôi phối hợp với các đơn
vị bạn để ngăn chận bước
tiến của địch ở mặt Tây-Nam Sài-G̣n.
Cụ thể là bằng mọi giá phải chận
đứng bước tiến của các Công-trường
9, Cộng-trường 7 và Công-trường 5 cùng
với tiểu-đoàn Nhái của địch từ các
ngả biên giới Miên tràn xuống. Trở ngại
của những cách quân này là 2 con sông Vàm-Cỏ-Đông
và Vàm-Cỏ-Tây. Mục đích của chúng gồm 2 bước:
Thứ nhứt là cắt đứt quốc lộ 4,
để Sài-G̣n và miền Lục-tỉnh, Quân-đoàn
4 không thể cứu ứng được cho nhau. Như
chúng ta dự trù, khi Quốc lộ 4 bị cắt, chúng
ta muốn dời Chính-Phủ về miền Tây, sẽ
vô cùng khó khăn. Bước thứ hai, nếu chúng vượt
qua và khống chế được 2 con sông Vàm-Cỏ,
th́ coi như Sài-G̣n đă bị bao vây bốn mặt.
Chúng sẽ khóa chặt thủy tŕnh huyềt mạch là
sông Ḷng-Tào và sông Soài-Rạp, cửa ngơ yết
hầu nối Sài-G̣n với cửa biển sẽ
bị bít kín. Đa số tàu bè của Hải Quân như
những con cá ḱnh mắc cạn, ta sẽ vô phương
xoay trở. Nhưng với sự hiện diện
của Lực-Lượng Đặc-Nhiệm-99, ư
đồ trên của địch đă thất
bại.”
Sau này trong cuốn Tổng Hành Dinh trong mùa
Xuân Toàn Thắng, chính Vơ Nguyên Giáp cũng đă xác
nhận sự thất bại này, nguyên văn nơi
trang 317 như sau: “Đặc biệt ở phía Tây-Nam
Sài-G̣n, nơi có địa h́nh śnh lầy, trống
trải, bộ đội và nhân dân đă phải vượt
muôn vàn khó khăn, đánh thông hành lang Tây-Ninh -
Kiến-Tường, làm chủ một phần sông Vàm-Cỏ-Tây,
mở ra một vùng giải phóng, lót sẵn lương
thực, đạn dược, tạo thế thuận
lợi cho một bộ phận đoàn 232 tiến công
vào Sài-G̣n. Ở hướng tây nam, Bộ-Tư-lệnh
quyết tiến công vào thị trấn Thủ-Thừa
và thị xă Tân-An, không đánh chiếm Mộc-Hóa như
trong kế hoạch cũ. Trận đánh không thành công
v́ quân địch đă pḥng bị sẵn”. Giáp
đă không nói rơ những ‘muôn vàn khó khăn’, ‘địch
đă pḥng bị sẵn…’ là những khó khăn nào,
pḥng bị như thế nào, sức đối kháng
từ đâu tới và bộ đội của Giáp
đă có những thiệt hại ǵ…
Để chứng minh hiệu quả trên,
một số những trận chiến ác liệt trong vùng
trách nhiệm, đă được Đại-tá Dơng
nhớ lại như sau:
“Sáng ngày 16 tháng 4, khi đoàn chiến
đĩnh của Lực Lượng Đặc
Nhiệm 99 trên đường giải tỏa áp
lực địch trên kinh Thủ-Thừa, chúng tôi
thấy ở bên kia bờ rạch Cần-Đót, có
rất đông người đang tắm. Lấy
ống nḥm quan sát, mới hay đó là một đơn
vị địch. Tôi cho lệnh đoàn tàu ủi
thẳng sang, tấn công. Chúng chấp nhận giao
chiến, không chạy. Hai bên cách nhau rất gần, trên
dưới 10 thước mà thôi. Sức phản công
của chúng rất dữ dội, gồm nhiều
loại súng lớn rất ác liệt, như 82 ly không
giựt, 12ly8. Phía các chiến đĩnh của chúng ta
được một phen đáp ứng ngon lành. Tôi c̣n
nhớ anh Đức, một thủy thủ, bị thương
ở mặt và ở đầu, máu tuôn xối xă, nhưng
anh Đức chỉ lấy tay vuốt máu trên mặt,
đứng thẳng trên nóc chiến đĩnh, ôm
khẩu MK19 nă thẳng vào đối phương.
Trận chiến kéo dài suốt ngày. Phía ta có các
đơn vị Bộ binh và Địa phương quân
đến tiếp ứng. Tới 5 giờ chiều
địch rút. Trong trận này phía chúng ta thiệt
hại nhẹ. Phía địch thiệt hại không dưới
một tiểu đoàn. Vũ khí ta thu được
gồm 4 khẩu 82ly, 2 khẩu 12ly8, 12 khẩu B40 và
rất nhiều súng AK cùng súng trường Nga.”
Vẫn theo lời kể của Đại-tá
Dơng:
“ … Kể cũng thật ghê
gớm. Vẫn tại Cần-Đót, hôm trước chúng
ta giải tỏa, hôm sau địch lại kéo tới,
đông hơn. Các chiến đĩnh của ta đụng
địch liên tục. Tôi c̣n nhớ một chiếc
Monitor của Giang Đoàn 42 Ngăn Chận bị trúng
82ly không giựt trực xạ, khiến 3 nhân viên và
Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ, khóa 12, chỉ huy trưởng,
bị thương. Máu đầy mặt, nhưng
tất cả vẫn ở trong các ổ súng, tiếp
tục bắn. Cứ như thế, ta và địch
giằng co, ’gặp nhau’ đều đều. Trong
khi đó, pháo 122ly của địch hàng ngày câu hàng
trăm trái vào Long-An, gây rất nhiều đổ nát,
thương vong cho dân chúng. Đạn rơi cả vào
nhà thương, khiến những người đă
bị thương lại bị thương một
lần nữa. Thân nhân của họ vội tản thương
khỏi nhà thương. Sư Đoàn 22 Bộ Binh,
từ miền Trung di tản về đang được
tái trang bị, dưới sự chỉ huy của tướng
Phan Đ́nh Niệm, đem một Trung-đoàn ra
giải tỏa áp lực địch tại Cầu-Voi,
nhưng áp lực địch vẫn rất nặng
nề. Ta và địch giằng co nhau nhưng
Cầu-Voi vẫn không bị phá, giao thông trên quốc
lộ 4 nhiều lúc khó khăn nhưng không hề
bị cắt, v́ được người Nhái
của ta ngày đêm tận t́nh bảo vệ. Những
phen Nhái ta và Nhái địch quần nhau ở chân
cầu Long-An đầy cam go, hồi họp. Rồi
lợi dụng đêm tối, Nhái của chúng lội
ra giữa sông, leo lên các chiến đĩnh của người
Nhái ta, nhưng chúng ta đă phát giác kịp thời.,
tất cả Nhái của địch đều bị
Nhái của ta hạ sát khi vừa xuất hiện bên
mạn chiến đĩnh, ch́m mất xác dưới ḷng
sông. Cũng chính v́ thế các chiến đĩnh không
bao giờ được neo ngủ, phải luôn luôn di
động và dùng lựu đạn ném quanh tàu.
Nhiều chi tiết rất khiếp đảm trong
việc chống lại người Nhái địch, nói
ra không hết. Một thủy thủ đứng gác trên
nóc chiến đĩnh bỗng thấy mặt nước
khua động, rồi một cái đầu ló lên,
một cách tay bám vào mạn chiến đĩnh,
rất nhanh như một phản xạ, một trái
lựu đạn được quăng xuống nước,
nổ ục, tung một quầng nước lớn
đỏ thẫm những máu. Tên Nhái địch buông
tay, ch́m. Mặt nước lại lững lờ trôi như
không có ǵ xảy ra. Đêm cũng như ngày, có
thể nói sự nguy hiểm có mặt ở sát bên ḿnh.”
Bằng một giọng nửa đùa
cợt, nửa thắc mắc, Ông nói:
“Không biết tụi nó tưởng tàu
ḿnh bằng giấy bồi, lính của ḿnh là lính
gỗ chắc. Hết Nhái của tụi nó bơi ra,
lại có cả những ghe gỗ, chở lính, cũng
cứ nhào ra, một lúc mấy chiếc. Chúng dùng đủ
loại súng bắn vào các chiến đĩnh của
ta. Đạn súng nhỏ bắn vào thành chiến
đĩnh rào rào như mưa. Chúng ta phản pháo
bằng súng thường không xuể. Các ghe chở
đầy lính của địch lại túa ra. May mà
hai chiếc Zippo vừa nạp đầy nhiên liệu,
loại xăng đặc dùng cho bom Napalm, đă sẵn
sàng. Hai chiếc Zippo, dưới sự bảo vệ
của các chiến đĩnh khác, tiến sát vào
bờ, lưỡi lửa phun ra dài cả trăm thước.
Trong nháy mắt cả một vùng bờ cây xanh từ
gốc tới ngọn cháy rực, găy đổ,
lửa khói bốc cao, khét lẹt. Từng lớp người
ở sát bờ sông ngă ra, tràn xuống mặt nước.
Các đợt xung phong dại dột của địch
khựng lại, pḥng tuyến địch rối
loạn. Nhưng quân trên bờ của địch, người
ở đâu vẫn đen đặc, kêu thét chạy tán
loạn, đặc nghịt. Pḥng tuyến của chúng
vỡ. Ông Tỉnh-trưởng Trần Vĩnh Huyến
chứng kiến cảnh này, lắc đầu. Ta không
đủ quân để lên bờ thu chiến lợi
phẩm. Nhưng thiệt hại của chúng không dưới
một tiểu đoàn. Sau trận ‘hỏa công’ này,
mặt trận hai con sông Vàm-Cỏ trở nên yên tĩnh.
Có lẽ nhờ thế chúng đă không thể nào vượt
qua 2 con sông Vàm-Cỏ, để áp đảo Sài-G̣n.
Nh́n mấy chiếc ghe cháy xám, trôi lềnh bènh, đúng
là những chiếc thuyền ma, ḷng vừa giận,
vừa thương, vừa hú vía…”.

Loại Zippo phun lửa
Lau mồ hôi và thở một hơi dài, Đại-tá
Dơng lại tiếp:
“Mấy ngày sau, mặt sông có những xác
người trôi đen đặc. Mùi tử khí bay
nồng nặc. Nghĩ lại cuộc chiến thật
đau ḷng…” Vẫn lời của Đại-tá
Dơng: ”Đó là một trong những cuộc tao ngộ
chiến, mà sau này đọc tài liệu của họ
tôi mới biết. Lực Lượng Đặc
Nhiệm 99 đă cản đường tiến của
đoàn 232, tương đương với 1 Quân
Đoàn, do tướng Lê Đức Anh chỉ huy,
nằm ém quân bất động ở ngă ba sông Vàm-Cỏ,
đợi sẵn khi có thể là vượt sông,
tiến vào Sài-G̣n. Tại đó, Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99 lúc nào cũng có 6 chiến
đĩnh hiện diện. Vậy mà chúng nín khe,
suốt mười mấy ngày không một tiếng súng
bắn ra. Bây giờ cuộc chiến đă tàn. Mọi
việc đă nhạt nḥa như không có thực. Nhưng
giả thử Cộng quân không bị cản đường,
chúng qua được sông Vàm-Cỏ, nằm sẵn
ở 2 bên sông Ḷng-Tào và Soài-Rạp, khi đoàn tàu
thuyền trong đêm 29 rạng 30 tháng 4, chở đầy
quân, dân, đàn bà và trẻ con túa ra biển, những
điều ǵ đă phải xẩy ra. Với hỏa
lực của mấy sư đoàn địch trên
bờ và mấy trăm cổ hải pháo trên các
chiến hạm cùng thi nhau nhả đạn, hai con sông
Ḷng-Tào và Soài-Rạp chắc chắn sẽ là hai con sông
kinh hoàng ngập máu, sẽ tàn khóc và rùng rợn
nhiều lần hơn Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa
hè Đỏ Lửa 1972”.
(Người viết thoát khỏi Sài-G̣n
trên Dương Vận Hạm Thị-Nại, HQ502,
một con tàu hư hỏng, chỉ c̣n một máy, do HQ
Thiếu tá Nguyễn Văn Tánh làm Hạm-trưởng.
Trên tàu chở theo 5000 người. Trong đó có vợ
và 4 con của Đại tá Dơng thoát đi vào phút chót
cùng với gia đ́nh Trung-tá Ṭng, mà Đại-tá Dơng
không hay. Đại-tá Dơng nhiều ngày sau mới
gặp lại gia đ́nh tại khu Liều Vải, Orote
Point, ở Guam. Khi Cộng sản đă vào Dinh Độc-Lập,
ông Minh đă tuyên bố đầu hàng, con tàu HQ 502
chết máy, vẫn chưa ra khỏi cửa sông Soài-Rạp,
và vẫn tiếp tục vớt thêm người từ
các ghe dân táp vào tàu.. Có nghĩa là cho đến trưa
ngày 30 tháng 4, địch chưa hiện diện trên khúc
sông này, sông Soài-Rạp vẫn c̣n an ninh. Được
như thế tất nhiên không phải là môt sự t́nh
cờ. Đó là công lao to lớn cụ thể của
đơn vị hậu bị, Lực Lượng Đặc
Nhiệm 99, và do sự khéo léo dự trù của Đô
Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân,
Bộ Tham Mưu và sự hợp tác của tất
cả Thủy Thủ Đoàn mọi cấp bậc.
Nếu không, thí dụ chỉ một trái B40 bắn vào
HQ502, tàu bốc cháy, 5500 người trên tàu sẽ là
nạn nhân trong một ḷ lửa… Chỉ mới nghĩ
thế, tôi đă thấy rung ḿnh.)
Được hỏi “Khi đoàn
chiến hạm ra đi, Đại-tá có được
thông báo không”.
Đại-tá Dơng đáp:
“Có chứ. Trước khi hạm đội
khởi hành. Đô-đốc Cang có hỏi tôi là an
ninh thủy tŕnh sông Ḷng-Tào và sông Soài-Rạp ra sao. Tôi
xác nhận là an ninh tốt. Rồi trong đêm 29 tháng
4, Đô-đốc Cang đă 2 lần nhờ Đại-tá
Cổ Tấn Tinh Châu, Chỉ-huy-trưởng Đặc
Khu Rừng Sát và Trung-tá Dương Hồng Vơ t́m tôi,
kêu tôi hăy mau rời vùng hoạt động, ra khơi
với đoàn tàu.”
Một thắc mắc được nêu
lên. Đại-tá đă ra đi bằng cách nào. Và
Lực Lượnf Đặc Nhiệm 99 vào phút chót ra
sao. Và chẳng may ông kẹt lại, ông sẽ nghĩ ǵ,
phản ứng ra sao… Đại-tá Dơng cười và
tiếp:
“Lúc đoàn tàu ra khơi, tôi c̣n lênh
đênh trên ngă ba sông Vàm-Cỏ. Vẫn cố giữ
sự hiện diện của ḿnh ở đây để
cản đường tiến của địch, như
nhiệm vụ đă được thượng
cấp giao phó. Nếu chẳng may mà kẹt lại th́
cũng đành vậy, rồi liệu sau. Có điều
lúc ấy, đâu đă rơ t́nh h́nh ra sao. Đại-tướng
Minh đâu đă đầu hàng. Trên bờ th́ khác,
chứ trên sông nước, ḿnh vẫn c̣n bảnh
lắm… Rồi như chúng ta đều biết, hôm
sau, 30 tháng 4, trước khi ông Minh ra lệnh đầu
hàng mấy phút, tôi trở lại Long-An, nhà Ba tôi,
đón hai đứa con tôi. Cho đến 16 giờ hôm
ấy, 30 tháng 4, tất cả chiến đĩnh
thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đều
có mặt tại ngă ba sông Soài-Rạp. Bên cạnh tôi
có Đại-úy Hải CHT/GĐ59 Tuần Thám, tôi đích
thân ra lệnh giải tán Lực Lượng. Tôi đă
nghẹn lời có nói một câu ngắn rằng:
‘Hẹn gặp lại anh em…’
Qua lời kể của Đại-tá Dơng,
ta thấy trận chiến kinh khiếp như thế,
đạn bắn vào tàu như mưa, là người
chỉ huy và trực tiếp xông pha cùng với đoàn
viên các cấp, một câu hỏi đùa: “Chắc ông
có bùa Miên, nên đạn đă tránh ông”. Đại-tá
Dơng cười đáp:
“Đâu có. Nhiều lần tôi đă
bị thương. Nhưng lần đi trận
cuối, và bị thương lần cuối là ngày 17
tháng 4 năm 1975, tại Long-An. Nhẹ thôi. Cũng không
biết ḿnh bị bắn lúc nào. Một mảnh đạn
nhỏ ghim vào ngực bên trái. Hồi 9 giờ 15, hay tin
tôi bị thương, Đô-đốc Phú đă phóng
PBR lên tại mặt trận thăm tôi, hỏi tôi có
chịu đựng được không. Lúc đó v́
đang đụng nặng, tôi đă vui vẽ đáp là
không có ǵ, chỉ biết là bị thương ở
ngực thôi, và bị rát quá, máu ra chút đỉnh thôi.
Khi mặt trận đă văn, tôi về đến nhà, nên
nhớ là nhà tôi ở Long-An, Bác-sĩ Truyền đă
cứu chữa cho tôi ngay, lấy viên đạn ra. May là
viên đạn không vào sâu bên trong. Tôi có báo cáo cho
Đô-đốc Cang, nhưng Trung-tá Vĩnh Giang,
bạn cùng khóa nghe tin, liền thông báo cho các bạn là
tôi bị thương nặng, sắp chết. Vết
thương này, cả tháng sau, khi đă ra khỏi
trại Indiantown Gap, mới thực sự b́nh
phục.”
Vẫn lời Đại-tá Dơng:
“Sau khi giải tán Lực Lượng 99,
tôi và Đô-đốc Phú dự định dùng 2
chiếc PCF để ra đi, cuối cùng HQ 402 đi
qua. Anh em trên tàu thấy chúng tôi trên LCM8, nên kêu
gọi, tôi lên HQ402, sau tôi mời Đô-đốc Phú
lên. Trên HQ402, tôi và ông sau 2 ngày nhịn đói, ăn
chung một đĩa cơm do Thượng-sĩ Vơ Văn
Hiếu đưa lên. Rồi ông từ giă tôi lên Soái
Hạm, ông không nói ǵ, nhưng ánh mắt ông nh́n tôi
như nói lên tất cả. Tánh ông thế. Qua Mỹ, h́nh
như ông không liên lạc với ai. Ông có gọi thăm
tôi tất cả 5 lần. Ông buồn, mới mất,
chẳng để lại một nhắn gửi ǵ”.
Đại-tá Dơng nói thêm:
“Có một chuyện ít ai biết là
chiều ngày 29 tháng 4, tôi và Đô-đốc Phú
ngồi trên một PBR đậu tại bến đ̣
Long-An. Cầu
Long-An, thị xă Long-An chưa lọt vào tay địch.
Tại đây chúng tôi đă làm được 2
việc như sau: Thứ nhứt là khi ra lệnh cho Liên
Đoàn Đặc Nhiệm ở G̣-Dầu-Hạ,
Thiếu-tá Sơn có hỏi tôi, có ông Quân-trưởng
G̣-Dầu-Hạ xin tháp tùng, có cho đi không. Tôi đáp
chở hết và đánh đắm tất cả các
chiến đĩnh hư hỏng, đi vận tốc
tối đa ra sông Soài-Rạp. Sơn hỏi ‘Lệnh
của ai’. Tôi đáp có ‘một sao’ ngồi đây.
Đô-đốc Phú cười. Lần đầu tiên
trong đời tôi thấy ông cười. Và đoàn
giang đĩnh G̣-Dầu-Hạ đă ra đến Soài-Rạp
an toàn trưa ngày 30 tháng 4. Nếu Liên Đoàn Đặc
Nhiệm ở Tuyên-Nhơn của Thiếu-tá Lê Anh
Tuấn lên máy liên lạc với tôi, tôi cũng sẽ
bảo đi như G̣-Dầu-Hạ. Tiếc thay!
Thứ hai là, cho đến phút chót, chúng tôi vẫn
giữ đuợc trật tự, an ninh trên tất
cả chiến đĩnh thuộc Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99 và cho Đại Đội
Tuần Giang và Giang Cảnh Long-An tháp tùng ra sông Soài-Rạp.
Tiếc rằng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Ông
Tỉnh-trưởng Long-An từ chối không ra đi,
ở lại. Một điều nữa là cho đến
giờ này tôi rất yên ḷng là suốt thời gian
đụng nhiều trận nặng, trước
những đợt tấn công ào ạt biển người
của địch, như đă mô tả ở trên, nhưng
chỉ có mấy anh em bị thương (khoảng 5 người)
mà không mất mát người nào, cho đến khi tôi
lên HQ402, giă từ nhiệm vụ Chỉ huy Lực Lượng
Đặc Nhiệm 99.”
Lên HQ402, một con tàu hư hỏng
với trên 2000 người trên tàu. Chính Đại-tá
Dơng đă nhọc công lái HQ402 ra biển, chỉ huy con
tàu ấy, cho đến khi tất cả số người
trên tàu được chuyển sang tàu khác. HQ402
được lệnh đánh ch́m. (Hoàn cảnh
của HQ402 đă được Bà Diệp Mỹ Linh
kể lại rất chi tiết trong cuốn HQVNCH Ra Khơi,
nơi trang 261, 262).
Một Chút Riêng Tư
Hải Quân là một quân chủng, nhưng
trên thực tế lúc đông nhất chỉ trên
Bốn Chục Ngàn người. Với những sĩ
quan cấp tá, th́ hầu như ai cũng biết nhau.
Biết khá kỹ về khả năng, tính t́nh của
nhau. Ông này điềm tĩnh, uyên thâm, hợp với
vai tṛ tham mưu. Ông kia trầm tĩnh, chịu sóng, thích
đi tàu. Ông khác th́ ồn ào, xông xáo chỉ thích
hợp với các đơn vị trong sông… Nhưng trường
hợp của Đại-tá Dơng th́ hơi khác. Tuy
xuất thân khóa 8, khóa đầu tiên được
giảng dạy bằng việt ngữ của trường
Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, ra trường năm 1960,
nhưng ông đă may mắn trải qua những thời
gian đi biển, đi sông, đă từng giữ các
chức vụ Hạm-trưởng, đă đi du
học, đă làm Hạm-trưởng vượt Thái-B́nh-Dương,
đem tàu từ Mỹ về nước. Đặc
biệt chỉ 4 năm sau khi ra trường, ông đă
được chỉ định làm Chỉ-huy-trưởng
Hải Đoàn 22 Xung Phong, một đơn vị khét
tiếng với những chiến công trong sông. Và
cuộc chiến trong sông hầu như rất thích
hợp với ông. Ông liên tiếp tạo được
nhiều thành tích, khiến ông vừa từ giă Hải
Đoàn này, lại tiếp tục Chỉ huy Giang Đoàn
khác. Cùng lúc với cuộc chiến bùng lên, Hải Quân
bành trướng mau lẹ, ông là vị sĩ quan khóa 8
đeo lon Đại-tá sớm nhất, vượt qua
nhiều khóa đàn anh. Chúng tôi có hỏi: “Yếu
tố nào đă khiến ông ra gia nhập Hải Quân. Và
lúc vào Hải Quân ông có nghĩ rằng, mới ngoài 30
tuổi, ông đă đeo lon tới Quan Năm tàu
thủy không… Ông cười và đáp:
“Trong một buổi tối, ngồi chơi
tại bến Bạch-Đằng, nh́n những thủy
thủ lên xuống chiến hạm, thấy những con
tàu xám uy nghi, tôi xúc động và t́m cách vào Hải
Quân qua người bạn thân là Đại-tá
Nguyễn Ngọc Rắc. Lúc vào trường c̣n đội
nón như Hạ-sĩ-quan, vành nón đen bóng, chỉ
mong sớm măn khóa để có cái vành vàng vàng trên nón
là thích rồi. Ra trường, đơn vị đầu
tiên của tôi là HQ330, Hạm-trưởng là Hải-Quân
Trung-úy Lê Triệu Đẩu, cũng là Sĩ quan Đại-Đội-trưởng
Khóa 8. Lúc ấy lên cấp khó khăn, từ Hạm-trưởng,
Hạm-phó, Cơ-khí-trưởng…ai cũng là Trung-úy
cả. Tôi cũng chỉ mong đến lúc có 2 vạch
trên vai như mọi người thôi. Ai dè cuộc
đời đưa đẩy…”
Dù sao cuộc chiến cũ cũng đă
nhạt nḥa, có điều ǵ được coi là vui,
là đáng nhắc lại. Đại-tá Dơng đáp:
“Quê tôi là Long-An, cùng quê với ông
Huỳnh Duy Thiệp. Tôi sinh năm 1936. Qua đây
thấp thoáng gần 30 năm. Cuộc đời
chẳng c̣n mấy chốc. Tôi cũng mới nghỉ hưu.
Tụi nhỏ 6 đứa đều đă nên người,
5 đứa đă có gia đ́nh. Sao mà nhớ lại
những ngày tháng cũ, vẫn cứ bồi hồi.
Kỷ niệm vui nhất là vào khoảng tháng 4 năm
1964, tôi được ân thưởng một Anh Dũng
Bội Tinh Ngôi Sao Đồng do Đại-tướng
Lê Văn Tỵ kư. Đó là kết quả sau cuộc hành
quân tại Lương-Ḥa-Thượng, sông Vàm-Cỏ-Đông.
Hải Đoàn được tăng phái một Đại
Đội Biệt Động Quân. Chỉ-huy-trưởng
Hải-đoàn lúc đó là HQ Đại-úy Huỳnh Duy
Thiệp. Ông đă ủy nhiệm cho tôi ‘làm ăn’,
với câu dặn ḍ: ‘Ê, đ.m. Đây là chuyến
thử lửa đầu tiên của mày đó nha
mậy’, rồi ông cười hề hề coi như
chuyện nhỏ. Tôi cố gắng và thi hành tốt
đẹp chuyến hành quân này. Từ đó, ông hoàn
toàn tín nhiệm tôi 100%, dù cuộc hành quân trên kết
quả rất khiêm nhường: tịch thu
1 CKC
và 40 quả lựu đạn. Tôi đi sát ông. Tôi có
thể nói rằng cấp bậc Đại-Tá mà tôi có
được, một phần không ngỏ là do vị
CHT Huỳnh Duy Thiệp tạo nên. Do những kinh
nghiệm của ông mà tôi tiếp nhận được,
cũng như những tư cách chỉ huy, rất b́nh
tĩnh khi đụng trận, nhất là những
quyết định bất ngờ, dứt khoát mà
chỉ những người có thiên tư về
chiến trận mới có được. Những bài
học máu xương trong sông tôi đă học
được từ ông. Ông đă bắt cái cầu
qua sông để tôi tự vạch rừng, làm
đường mà tiến. (Phải không anh
Thiệp).” Đại-tá Dơng đă nói rất
thiết tha với tất cả sự chân thành.
Ngưng một lát rồi ông êm ả nó:
“Đối với người trên tôi
đă học được là từ anh Thiệp. Nhưng
như chúng ta đều biết, ở trong quân trường,
có bài học nào dạy chúng ta tác chiến trong sông
đâu. Trên thế giới, nói đến Hải Quân là
nói đến những con tàu lớn hoạt động
trên các đại dương, nói đến trận Eo
Đối-Mă, trận tấn công Trân-Châu-Cảng
của Hải Quân Nhựt. Nói đén những luồng
nước, những tai ương, bấc trắc
của thời tiết… Có chiến trường nào
đầy sông rạch như châu thổ
Cửu-Long-Giang. Một vựa lúa của miền Nam,
một vùng đất śnh lầy chằng chịt
những kinh rạch như mạng nhện. Chính nơi
này, nói không ngoa, là vùng đất mà suốt cuộc
chiến ngày đêm, mùa nắng cũng như mùa mưa,
những người lính Hải-quân chúng ta lầm
lủi, đối đầu với địch. Chúng
ta đă có những chiến công hào hùng, nhưng cũng
đầy gian lao khốn khổ. Từ U-Minh, Đồng-Tháp,
G̣-Quao, Tuyên-Nhơn, Năm-Căn, Tam-Giác-Sắt..
khắp vùng sông nước mịt mùng đó, chúng ta
đă gian khổ đi qua, và không thiếu bạn bè ta
đă nằm xuống. Có người đem được
xác về. Có người sau một tiếng ḿn bung nước,
mất tăm. Những kinh nghiệm máu xương
đó, với tôi, tôi đă học được
từ những người lính dưới quyền.
Nhiều người đă chỉ cho tôi những
lắt léo, nguy nan cần phải tránh. Nhiều người
mà sự can trường, ḷng dũng cảm khiến tôi
phải kính cẩn cúi đầu. Cấp bậc
của tôi, tôi đă mang trên vai, như một vinh
dự, đồng thời c̣n là một ân nghĩa
từ tất cả những ai mà tôi đă có dịp cùng
nhau chiến đấu tạo nên.
Nhớ lại, viết ra không thể
hết. Một số những gương anh dũng tôi
đă ghi lại dưới đây. Trong đó không
thiếu những điều gần như huyền bí,
lạ lùng, không thể nào giải thích, nhưng hoàn toàn
có thực. Bây giờ cuộc chiến đă phai tàn. Tôi
xin mượn những ḍng này để tạ ơn
những đóng góp của các chiến hữu một
thời xa xưa. Cũng xin thắp một tuần hương
gửi tới anh linh những ai đă ngă xuống trên
vùng sông nước quê nhà.
Cũng xin gởi lời chào thân quư
tới tất cả bè bạn áo trắng bốn phương,
cũng như c̣n ở nơi quê cũ. Và nếu
những tiết lộ trên đây về cuộc
chiến, có lọt tới gia đ́nh nạn nhân ở
phía bên kia, tôi cũng cầu xin cho anh linh những người
đă chết được êm đềm siêu thoát. Các
anh, dưới áp lực này, hay lư do kia mà phải lao
đầu vào vùng lửa đạn. Các anh chẳng
thể nào lùi. C̣n chúng tôi ở miền Nam, chúng tôi cũng
đâu có thể làm khác. Định mệnh hay vận
nước chẳng may khiến chúng ta gặp nhau nơi
trận địa. Chúng ta cùng khốn khổ như
nhau. Gần 30 năm đă qua, biết ra th́ hầu như
đă trễ. Tôi đă ghi lại những điều
trung thực, hầu để thế hệ sau có thêm tài
liệu để hiểu thêm về nỗi đau đớn
của một cuộc tương tàn mà người
Việt Nam dù Nam hay Bắc, đă không làm chủ
được. Chúng ta đều có nỗi đau
chung.”
Lê
Hữu Dơng, kể
Phan Lạc Tiếp, ghi
Mời
xem: Chiều tàn trên sông
Vàm Cỏ
|