Từ hôm đó, em gái tôi
vẫn thường bị mời đi họp, học
rồi được thả về. Lần nào tôi cũng
hỏi thăm về Đắc. Bữa nó nói có trông
thấy, bữa nó nói không. Nhưng bỗng một hôm,
tôi nghe được giọng nói của Đắc.
Hôm đó, trong lúc cả nhà đang ăn cơm dưới
hầm th́ có tiếng gơ cửa. Má tôi lật đật
bảo chúng tôi nằm sát vào tận cùng hầm cát,
rồi leo lên mở cửa. H́nh như chỉ có
một người và má tôi chào hỏi, giọng hơi
vui mừng:
"Ủa, cậu đó hả? Cậu về khi mô?"
Tôi hồi hộp chờ đợi giọng trả
lời:
"Dạ, cháu về cùng với anh em ở khu vực
nội thành ni mà."
Tôi không nghe má tôi hỏi ǵ nữa. Im lặng một lát,
giọng trẻ lại hỏi:
"Bác đă đào hầm chắc chắn chưa?
Phải trường kỳ chống đỡ lâu đó
bác. T́nh h́nh coi bộ mệt rồi."
"Dạ."
"Trời, bác làm cháu dị quá. Cháu vẫn là
thằng Đắc như hồi trước mà bác. À, Khâm
mô rồi?"
Má tôi giả vờ sụt sùi:
"Khổ lắm anh ơi. Nó đi từ hôm mồng
một, về dưới quê ở Bao Vinh rồi có
thấy tăm hơi nó nữa mô. Tui đang lo quá,
sợ nó nóng ruột đi trở lên t́m dọc
đường bị bắt bớ cũng nên. Tui
chỉ có ḿnh nó, anh biết đó, nếu nó mệnh
hệ nào th́ tui sống không nổi..."
Đúng là Đắc rồi. Tôi muốn lên hầm để
gặp bạn, nhưng Hường đă nắm
chặt tôi lại:
"Đừng anh, anh điên đó hả?"
Giọng Đắc:
"Bác đừng có lo. Ai có tội phải đền.
Khâm với cháu vẫn là t́nh bạn..."
"Anh thương th́ tui biết vậy, nhưng
giữa đường giữa sá, nó đâu có gặp
anh..."
Đắc có vẻ trầm ngâm một lát, giọng hơi
bớt tin tưởng:
"Chết có số mà bác. Cháu có số chết th́
đă chết từ lâu rồi. Bác đừng gọi
cháu bằng anh nữa, cháu buồn lắm. À, bác, nghe
thằng Tịnh nó sang đây hả bác?"
Tôi giật ḿnh. Tịnh nằm bên tôi mà run lập
cập. May má tôi đỡ lời:
"Nó có sang rồi đi rồi. Nó đi họp
rồi có về mô nữa."
"Ủa, vậy ai giữ nó. Được, để
cháu hỏi rồi thả nó về. Cháu vừa gặp
thằng Định anh nó. Thằng Định phải đi
học tập, chắc người ta sẽ đưa nó
sang bên kia Gia Hội hoặc xuống dưới băi dâu."
"Đi chi mà xa rứa."
Đắc không trả lời má tôi mà hỏi:
"Hường mô rồi bác?"
Má tôi không dám dấu:
"Em nó sợ quá suốt ngày chui trong hầm hoặc
trốn dưới gầm giường, con nớ nó
sợ súng đạn bất thần."
"Bác gọi Hường lên đi, cháu chớ ai mô mà
sợ."
Sợ Đắc xuống hầm, Hường vội vă ḅ
lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng Đắc cười
lớn:
"Bộ Hường tưởng tui lên núi rồi
về thành cọp ăn thịt người răng mà
nghe tiếng tui sợ dữ rứa?"
Hường cố gượng cười khổ
sở:
"Em mô có sợ anh, nhưng mấy hôm ni em sợ
chết quá."
Đắc ngồi nói chuyện với má và em gái tôi
rất lâu. Đắc kể cho má tôi và Hường nghe
những nỗi cực khổ trước khi lên núi. Đắc
nói nửa khôi hài, nửa mỉa mai:
"Hồi cháu chỉ tranh đấu mà bị bắt,
bị đánh đập quá sức tưởng tượng.
Bác biết không, chúng nó đập nát cả hai bàn tay
của cháu. Người cháu c̣n đầy thẹo, cháu
chết đi sống lại. Ân đền oán trả
chớ bác. Cháu lên núi tầm sư học đạo,
nay thành tài trở về cho chúng biết mặt. Cháu không
muốn hại ai, nhưng nợ máu phải trả
chớ bác."
Không biết khuôn mặt má tôi ra sao mà Đắc lại
cười:
"Nói có rứa mà bác tái mét mặt. Đùa cho vui
chứ cháu cũng bị ép buộc quá phải lên núi.
Cháu đi mô cũng không dứt được Huế.
Cháu c̣n căm lắm bác ơi."
Vừa lúc đó có tiếng chân nhiều người
đi vào. Tôi nghe nhiều tiếng nói chuyện và chính
Đắc kể lại vụ vừa bắt người
ở mấy nhà bên cạnh. Có giọng lè nhè:
"Thằng cha trốn tài thiệt, không có đồng
chí Đắc th́ biết đâu mà kiếm cho ra."
Một giọng khác cười:
"Tôi biết nó trốn dưới nệm giường.
Thằng cha đó trong xóm ni ai mà lạ cái mặt
hắn nữa chớ."
Có lẽ một nhóm cán bộ nằm vùng. Họ nói
chuyện lớn tiếng và cười đùa vui
vẻ. Tịnh hích vào tay tôi định nói, nhưng tôi
bịt miệng nó lại. Tôi sợ ở trên miệng
hầm họ nghe tiếng. Hường lại hỏi
về Ngọc và Phủ. Đắc trả lời:
"Có về hết. Phủ với Ngọc ở ngoài
Gia Hội."
"Em không nghe ai nói gặp hai anh nớ hết."
"Hường th́ có đi mô mà nghe, mà thấy. Con gái
chi mà nhát quá trời."
Rồi Đắc nói với má tôi:
"Tiếc thằng Khâm nó kẹt dưới quê, có nó,
cháu bắt nó đi làm việc với cháu." Rồi
Đắc chợt ngẫm nghĩ, "Nhưng chắc cháu
cũng không ép nó mô. Khi bác gặp nó, bác nói là cháu
với nó khi mô cũng là bạn."
Đắc ở lại nói chuyện lâu lắm. Đắc
hỏi má tôi nhà c̣n đủ gạo ăn không.
Rồi Đắc hứa sẽ đem gạo tới
tiếp tế cho cả nhà. Thấy Đắc vui vẻ, má
tôi và Hường có vẻ bớt sợ hăi. Má tôi
hỏi thăm t́nh h́nh, ban đầu giọng Đắc có
vẻ khả quan, nhưng về sau sự tin tưởng
cũng có vẻ giảm sút. Đắc dặn ḍ nên làm
hầm cẩn thận, xóm ngoài và xóm trong đă có
nhiều nhà trúng đại bác. Đắc c̣n cho biết
quân Mỹ đă tiến vào quốc lộ 1, ban ngày
đă lên tới An Cựu. Nhưng Phủ Cam, Từ
Đàm, Bến Ngự vẫn c̣n là khu vực của quân
giải phóng. Má tôi không dằn được than
thở: Chắc dân chúng chết nhiều lắm. Tôi không
nghe Đắc trả lời câu đó, và tiếng cười
vui cũng im bặt một lúc lâu.
Trước khi về, Đắc c̣n hứa là sẽ
trở lại thăm. Đắc dặn ḍ Hường
một vài điều nào đó mà tôi nghe không rơ.
Chỉ có tiếng Hường dạ nhịp. Đắc và
mấy người giải phóng, cán bộ vừa ra
khỏi nhà một lúc th́ tiếng đại bác
lại tiếp tục. Má tôi, Hường lại chui
xuống hầm. Hường kể lại chuyện
vừa gặp Đắc mặc dù tôi đă nghe gần
hết. Hường nói trong số tới nhà, có
một người c̣n trẻ, đeo gương
cận, chắc cũng cán bộ nằm vùng. Má tôi
dặn tôi phải cẩn thận v́ Đắc hẹn
sẽ trở lại. Bà nhắc tới chuyện Đắc
hứa là sẽ tiếp tế gạo và bảo Hường
nếu cần ǵ th́ cứ t́m Đắc tới. Tôi nghe và
thấy cảm động. Thật ra không chủ nghĩa
nào, không lư tưởng nào chia rẽ t́nh người,
t́nh bạn được. Tôi nghĩ vậy cũng quá
nông cạn chăng. Nhưng mấy ngày hôm sau th́ Đắc
không có th́ giờ tới thăm chúng tôi nữa,
mặc dù tôi biết nhiều lần Đắc vẫn
đi ngang qua nhà.
Một lần tiếng đại bác vừa ngớt,
tiếng súng lớn nhỏ bên ngoài thành cũng đă
đến lúc nghỉ xả hơi, tôi bỗng nghe
tiếng quát tháo ở ngoài đường. Em gái tôi
đă dạn lắm, nó dám ḅ lên hé cửa nh́n ra
đường coi. Tôi nghe tiếng quen quen và nhận ra
tiếng của Đắc. Hường ló đầu
xuống hầm nói nhỏ:
"Chết cha. Anh Đắc bắt gặp anh Tư
rồi."
Tôi chưa kịp hỏi thêm th́ Hường đă
trở lên, tiếp tục lén nh́n ra đường.
Giọng của Đắc vang từ phía ngoài:
"Các đồng chí để tôi xử tên này. Để
tôi quyền ưu tiên. Trước kia nó làm chúng tôi
khổ sở điêu đứng bao phen. Nó phải
trả tội ác."
Giọng Tư rên rỉ:
"Lạy anh tha cho em. Chừ em cũng theo giải phóng
rồi. Em đeo băng đây anh ń, anh, em đeo băng
ń. Mấy ngày hôm ni em hoạt động cho giải phóng,
em điểm chỉ bắt nhiều tên Mỹ ngụy
rồi. Em xin lấy công chuộc tội."
Đắc cười gằn, giọng cay độc:
"Mày mà cũng biết ăn năn. Không, tao phải
xử mày. Mày xuống đứng dưới cái
hố tao hỏi tội."
Có tiếng xô đẩy rồi tiếng kêu thét
của Tư:
"Ối, lạy anh, xin anh tha cho em."
"Tha cho mày. Hồi trước tao đă lấy t́nh
bạn xử với mày mà mày có tha cho tao mô. Tao bị
bắt, bị tù tội, bị đánh đập."
Đắc cười gằn, khôi hài thêm: "Hừ, tao
lên núi tầm sư học đạo về đây,
chuyến ni mi đừng có ḥng."
Giọng Tư như đang khóc:
"Em lạy anh, tha cho em. Em lạy anh, em biết
lỗi rồi. Bởi rứa em theo giải phóng ngay
từ đầu."
"Mày có tài theo mau lắm. V́ rứa tao mới bị
đánh đập giam cầm. Mày đứng xuống
hố cong lưng xuống, nghe tao hỏi đây."
"Ư, lạy anh, đừng bắn em chết. Em, em...
ư trời, anh... anh..."
Đắc bật cười ṛn ră:
"Bắn mày? Không, mày đâu có được
chết mau lẹ rứa. Mày phải chết dần
chết ṃn, chết đau đớn khổ sở.
Trong đời tao, tao đă bị oan ức, chứ tao
không muốn xử oan ức ai hết."
Tôi rùng ḿnh. Giọng Đắc hằn học, quyết
liệt lắm rồi. Tôi nghe một giọng người
nào đó nói:
"Thôi đồng chí, nó đă ăn năn tội
lỗi, đă về với giải phóng với nhân dân.
Đồng chí nên..."
"Nên gác lại hận thù riêng? Không, hận thù riêng
của tôi cũng là hận thù chung của bè bạn tôi
nữa. Các đồng chí xin đừng xía vô trường
hợp này, xin đồng chí. Chỉ xin các đồng
chí trường hợp này mà thôi."
Giọng Đắc đột nhiên quát lớn:
"Đứng yên đó. Tao chưa bắn đâu, đừng
ḥng."
"Lạy anh, thôi, thà anh bắn em chết đi, cho em
bớt khổ sở."
"Không."
Giọng Tư kêu lớn như gào bể cổ họng:
"Em lạy anh, em lạy anh..."
Tiếng Đắc cười ran. Tiếng cười
đầy uất hận xói vào đầu tôi làm tôi
choáng váng. Rồi một tiếng súng nổ. Một
tiếng thét lớn. Xong rồi. Nhưng không, một
tiếng nổ nữa, một tiếng thét nữa.
Cứ tiếp tục như thế. Tôi mấy lần
thót cả tim, rồi thở phào nhẹ nhơm cho kẻ
bị tội. Chết là hết. Nhưng lạ chưa,
mỗi tiếng súng là mỗi tiếng thét, thêm một
tràng cười điên dại của Đắc.
Tiếng súng ngừng hẳn sau một tiếng kêu hăi
hùng của Tư. Lần này th́ tôi yên tâm cho Tư rồi.
Bây giờ tiếng súng ở đâu ngoài thành, xa hơn
nữa, h́nh như ở phía chợ, phía cầu Tràng
Tiền chi đó lại nổ nữa, rồi tiếng
đại bác. Má tôi gọi Hường mau vô hầm.
Nhưng Hường như c̣n hăi hùng với cảnh
đă chứng kiến, nó đứng sững ở cánh
cửa hé mở. Má tôi phải chạy ra lôi nó vào
hầm. Tôi hỏi mày thấy ǵ. Nó cà lăm, cà
cặp, run rẩy măi mới kể lại cho tôi nghe
lại cảnh đă chứng kiến. Đắc đă t́m
gặp được Tư. Hắn bắt Tư đứng
dưới một hố cá nhân rồi bắt đầu
hỏi tội và hành hạ. Đắc xin các đồng
chí giải phóng có mặt ở đó được
giải quyết mối thù riêng và các đồng chí
giải phóng đă không ai can thiệp. Tư đứng dưới
hố, cứ mỗi lúc Đắc đưa súng lên
nhắm vào trán Tư mà bóp c̣, Tư lại nhắm mắt,
khuôn mặt lạnh lùng chờ đợi. Nhưng
rồi phát súng chờ đợi không nổ. Đến
khi phát súng chờ đợi nổ th́ Tư vẫn không
chết. Mỗi phát đạn cứ lướt qua màng
tang, qua đầu, qua bên vai và mỗi lần như
thế Tư cứ tưởng là đă lưu lại
thế gian tiếng thét cuối cùng của nó. Sau đó,
Đắc kéo Tư lên rồi dẫn đi.
Chiếc hố bỏ trống đó, mấy ngày sau, Hường
kể cho tôi nghe, có một người lính giải phóng
chết gục trong đó, đầu kê lên miệng
hố và mặt quay vào phía nhà tôi. Tôi đoán chắc
trước khi chết, anh c̣n kịp nh́n thấy
những bông mai vàng trong sân và một phần mái nhà
bị sập đổ v́ mảnh đạn hay
những phát B40 của đêm đầu tiên khai
hỏa.
Tôi không c̣n nhớ những ngày sau đó là mồng
mấy hay mười mấy nữa. Mặt trận
đă lan tới nội thành rồi. Tiếng đại
bác ngày đêm rơi không ngớt. Bờ thành sập
nhiều chỗ. Người ta đồn cửa Đông
Ba, cửa Thượng Tứ, cửa Sập đều
bị bắn đổ xuống, chắn hết lối
ra vào. Mấy ngày đầu chúng tôi c̣n ra khỏi
hầm nấu ăn được. Nhưng mấy hôm
sau, tiếng đại bác rơi không ngớt, rồi
tiếng súng bắn ra ngoài thành như mưa. Má tôi và
Hường phải kéo bao gạo xuống hầm và chúng
tôi nhai gạo sống cho đỡ đói. Nhai gạo
sống, uống nước lạnh, trời lại rét
như cắt ruột gan, hơi đất thấm vào
người, cả nhà bị đau bụng. Chúng tôi
phải canh chừng tiếng đại bác, leo lên
hầm tiểu tiện ngay ra nhà. Đôi lúc đang nửa
chừng, nghe đánh ́nh một tiếng, không chạy mà
cũng tự động rơi tọt xuống hầm
như bị ai nắm quăng xuống hố.
Cứ sống như thế mấy hôm, người chúng
tôi xanh lướt. Hường không chịu nổi
nữa, nó khóc rấm rứt suốt ngày. Vậy mà
đâu được yên thân. Mặc tiếng đạn
đại bác, mặc máy bay, các anh lính giải phóng
vẫn t́m cách tới trước cửa từng nhà, kêu
gọi đồng bào góp sức chiến đấu
với mặt trận. Khẩu hiệu là: Không dung
giặc Mỹ, không chứa chấp Việt gian, không
sờn ḷng trước áp lực súng đạn.
Nếu cần, tất cả đồng bào lớn bé
tràn ra hết ngoài đường chiến đấu
với Mỹ ngụy.
Mỗi lần nghe như thế, chúng tôi run như
cầy sấy. Những người chung quanh chết
mỗi ngày mỗi nhiều. Ngay ở đàng sau vườn
nhà chúng tôi, có ba bốn xác chết bỏ lại, không
biết dân hay giải phóng. Ban đêm, đôi khi chúng tôi
nghe tiếng la thét ở đàng sau vườn. Hoặc
họ bắt người dẫn ngang qua nhà, tiếng
van lạy kêu khóc đến năo người.
Một ngày nữa trôi qua, chúng tôi vẫn c̣n sống.
Nhưng ngôi nhà bên cạnh bị một quả đại
bác câu tới tan tành. Nhà sát đó bị miểng rơi
tung cả mái tôn và chiếc hầm đang ở trong nhà
thành hầm lộ thiên. Ánh sáng chiếu vào hầm làm
mọi người sợ hăi. Vậy là họ liều
chết chạy ra đường, sang nhà tôi xin trú
ngụ.
Mặc dù chật chội, hôi hám hơn, nhưng sự
có mặt của nhiều người làm chúng tôi yên ḷng
hơn. Những người mới tới cho biết
đă có nhiều đoàn người tản cư ra
ngoài bờ sông, mặt Gia Hội. Nhưng Hường
quả quyết rằng, chính Đắc nói trường
Gia Hội là nơi trú đóng của bộ chỉ huy
Việt cộng, nơi đó c̣n dùng để làm ṭa
án nhân dân nữa. Tôi can má tôi. Tản cư ra đó,
khác nào đút đầu vào miệng cọp.
Chỉ có một tạ gạo mà thêm bao miệng người
ăn, chúng tôi phải ăn cầm chừng. May gia
đ́nh tản cư tới không có trẻ con, nên
nhịn đói nhịn khát được. Mỗi sáng
chúng tôi nhai một nắm gạo, trưa một
nắm, chiều một nắm.
Chỉ có vậy mà bao gạo vơi đi một cách
đáng sợ. Có lẽ hết bao gạo này, chúng tôi
chưa chết v́ bom đạn th́ cũng chết v́
đói khát. Mỗi ngày mọi người nh́n nhau,
thở dài hoặc ứa nước mắt. Không ai c̣n
đủ sức bàn vô tán ra nữa.
Một buổi trưa, mọi người đang
ngồi trong hầm nhai gạo sống th́ có tiếng xô
cửa rồi tiếng gọi:
"Mợ ơi, mợ ơi."
Má tôi nghe và nhận ra tiếng đứa cháu trai
ở đường Mai Thúc Loan. Bà mừng rú lên:
"Đây ń, dưới hầm ń con ơi, xuống
mau."
Một cái đầu ló vào. Thằng Tam. Nó run lập
cập, mặt mày tái mét. Má tôi kéo nó sát vào người:
"Mạ với ba mô rồi. Răng đi một ḿnh?"
Tam ̣a khóc:
"Mạ chết khi chạy ra đường với
cháu rồi. Mạ biểu cháu cứ chạy đi,
mạ hoa tay trợn mắt. Cháu không chịu đi. Khi
mạ chết cháu mới đi."
Mạ tôi khóc ̣a:
"Trời đất ơi. C̣n ba mô? Ba mô nói cho
mợ biết."
"Ba bị bắt đi rồi. Ba bị bắt trói
dẫn đi cùng với nhiều người khác
nữa. Nghe nói bị đưa lên cửa thành cho đại
bác bắn xuống. Mợ ơi, mợ ơi..."
Tam khóc ngất. Má tôi cũng khóc ngất. Tôi nổi
gai ốc đầy người. Tại sao lại
đưa dân lên cửa thành cho máy bay bắn xuống
chết. Những người này có tội t́nh ǵ?
Lại mấy thằng cha cán bộ địa phương
tư thù tư oán đây mà. Cḥm xóm láng giềng mà
giết nhau đây mà. Tôi giận căm gan, muốn hét
lớn một tiếng cho đỡ tức. Tam vẫn
nức nở:
"Họ ác lắm mợ ơi, họ bắt mấy
người t́nh nghi đem lên thành trói lại cho máy
bay Mỹ tưởng là Việt cộng bắn
xuống. Hôm qua mười mấy người, hôm ni
mấy chục người. Chắc có ba cháu
rồi."
Má tôi đập tay đập chân. Giọng Hường
yếu ớt:
"Khóc mần chi má. Trước sau cũng chết. Thà
chết trước c̣n sướng hơn. Con muốn
chạy ra đường cho máy bay bắn chết cho
rồi. Sống như ri khác chi chết đày chết
đọa."
Có tiếng súng nhỏ nổ ran trước mặt
đường. Má tôi và Tam ngừng bặt tiếng khóc.
H́nh như quân giải phóng dẫn một đoàn
tội nhân đi qua. Có tiếng kêu khóc, có tiếng la
lớn. Má tôi ôm lấy ngực. Con Hường há
hốc mồm rồi ngă vật xuống đất. Tôi
sờ tay nó thấy lạnh ngắt. May người hàng
xóm tới ở nhờ có chai dầu xoa khắp người
Hường. Một lát sau nó hơi tỉnh, rên rỉ:
"Ghê quá mạ ơi. Ghê quá anh ơi..."
Rồi nó khóc. H́nh như nó đang khóc trong cơn mê
sảng. Tôi cầm chặt tay em gái. Tội nghiệp
cho nó. Nó ăn gạo sống lâu ngày không chịu
nổi, cái bụng căng ph́nh như bị báng.
Miệng nó trào bọt mép. Một lúc sau nó tỉnh
hẳn. Nó ôm chặt má tôi:
"Con không chịu được nữa. Chắc con
chết."
Giữa cơn bom đạn như mưa bên ngoài, má tôi
vừa khóc vừa ḅ lên khỏi miệng hầm. Bà
lục lọi ǵ lâu lắm. Tôi sốt ruột cứ
tḥ đầu lên gọi:
"Má, má xuống hầm liền đi."
Măi má tôi mới xuống. Trên tay bà cầm đ̣n bánh
tét mốc meo. Bà lột lớp lá và đưa cho Hường,
lúc đó đang nằm bẹp xuống đất mà
thở như sắp đứt.
Bắt đầu từ đó, hết đêm kinh hoàng
này nối tới ngày kinh hoàng khác.
Tôi không tài nào ngủ được. Không c̣n một
ai dám lên miệng hầm nữa. Thức ăn cạn
dần.
Bao gạo gần hết mà chúng tôi lại thêm một
miệng ăn. Tam kẹt lại luôn. Không dám một ḿnh
trở về nhà nữa.
Hường bịnh nặng, nằm rẹp một
chỗ. Má tôi cứ ngóng bước chân đi trên
mặt đất, hy vọng Đắc trở lại.
Nếu Đắc c̣n trở lại, chúng tôi c̣n nhờ
vả được. Một buổi chiều, chúng tôi
nghe tiếng chân đi nhẹ vào nhà, rồi tiếng người
ngă phịch xuống. Một lát sau nhiều tiếng chân
khác đuổi tới. Một tiếng súng nổ.
Một tiếng kêu thét lên. Nhiều tiếng lao xao nói
cười: Có chạy đằng trời. Một
giọng khác có vẻ ngạc nhiên: Nhà ni chắc không
có người ở. Có hầm, chắc họ ở dưới
hầm. "Lục soát coi, đôi khi ngụy quân
trốn trong đó." "Ôi cứt đái tùm lum,
chắc chẳng có ai. Thúi quá, đi ra." Tiếng chân
xa dần. Má tôi mừng rỡ tới ứa nước
mắt. Đống phân rác dơ dáy bừa băi giữa nhà
đă cứu chúng tôi. Má tôi hít một hơi dài,
gật đầu: Bây giờ mới thấy quư đống
phân. Tôi cũng vậy, không c̣n ghê sợ mùi hôi
thối xông xuống nữa.
Chắc họ đi, bỏ lại một xác chết
ngay giữa nhà chúng tôi nữa. Tôi thắc mắc không
biết xác của ai. Tôi nghĩ tới Tư. Cũng không
có thể là Tư. Đắc đă bắt đi, không
dễ dàng ǵ cho hắn trả nợ nhẹ nhàng
thế. Nhưng tôi chỉ thắc mắc một chút
rồi thôi, nỗi lo sợ nhất của tôi là vài hôm
nữa xác chết sẽ śnh thúi, và chắc chắn mùi
xác chết trộn với phân người sẽ không
dễ ngửi như mùi tôi đang ngửi.
Rồi bao gạo cạn dần, cạn cho tới đáy.
Buổi sáng hôm đó, má tôi báo động hết
thức ăn. Gia đ́nh tới tạm trú có vẻ băn
khoăn v́ họ cho là có trách nhiệm trong vụ đói
khát cận kề. Nhưng dù không có họ th́ gạo
cũng sẽ hết và chúng tôi cũng sẽ chết
đói. Hết nhanh hay cầm cự thêm hai ba hôm
nữa cũng thế thôi. Má tôi khóc:
"Khổ chưa ń, không chết bom đạn mà
chết đói mới khổ thân chớ."
Rồi bà ôm Hường khóc vùi.
Sau đó chúng tôi nhai những hạt gạo cuối cùng
một cách thận trọng như sợ một vài
hạt sẽ rơi văi mà không có cách ǵ t́m thấy
lại được.
Gia đ́nh hàng xóm nhất định nhịn, nhưng
má tôi vẫn chia: Ôi, có chết th́ cùng chết. Ăn
đi rồi chết. Mọi người khóc lóc, nhưng
không ai dám khóc to, sợ có người nào trên mặt
đất nghe thấy.
H́nh như nhiều căn nhà chung quanh chúng tôi đă
sập đổ. Nhiều tiếng nổ thật
lớn làm dội tức cả ngực. Đôi khi chúng tôi
tưởng như tiếng nổ đă cày xới
mất căn nhà ở và nhắm mắt chờ
chết, một lúc sau những tiếng nổ dịu
bớt, chúng tôi mới biết là ḿnh vẫn chưa
hề hấn ǵ.
Tiếng súng lẻ nổ đă gần hơn, h́nh như
đă cận kề ở miệt phố. Tôi bỗng
nẩy ra một ư định:
"Má, ḿnh đi trốn đi, ở đây chắc
thế nào cũng chết."
"Tao không c̣n biết chi nữa. Tùy mày định
liệu đó."
Chúng tôi lại nhịn đói thêm hai ngày nữa. Hường
mệt lả. Hai gia đ́nh chúng tôi bàn soạn
việc đi trốn. Tam cố ḅ lên miệng hầm,
mặc tiếng súng đạn, hắn lần ra cửa
xem xét ngoài đường. Một lúc sau, hắn chui
xuống hầm, giọng có vẻ mừng rỡ:
"Ngoài đường người ta đi đông
lắm. Lâu lâu lại có một tốp người
chạy về phía cổng thành."
Má tôi bật dậy:
"Ḿnh đi theo họ."
Nhưng Tam gạt đi:
"Không, chỉ đàn bà và người già. Không
thấy đàn ông. Đàn ông họ đi đâu hết
rồi."
Má tôi bàn việc giả dạng. Mấy người
đàn bà bế Hường chạy trước, c̣n tôi
giả mặc quần áo đàn bà, đội khăn
đi theo sau. Tôi hỏi:
"C̣n Tam làm răng. Vô lư cũng giả dạng
nữa."
Tam buồn rầu:
"Sống chết có số mạng. Anh cứ lo
phần anh."
Ngay xế trưa hôm đó, chúng tôi bồng bế, d́u
dắt nhau lên khỏi miệng hầm. Vật đập
ngay vào mắt tôi là xác một người đàn ông
śnh to nằm sấp, máu me đă đặc khô
lại. Hai tay hắn dang ra như ôm mặt đất.
Chúng tôi không nh́n rơ mặt hắn. Tam bận rộn
việc hóa trang cho tôi. Tôi mặc quần áo của Hường,
đầu trùm khăn kín mít. Má tôi thu xếp một
ít thứ lặt vặt gói vào một cái bọc
rồi giục giă mọi người ra đường.
Cánh cửa bật mở. Tôi chói mắt lảo đảo
muốn té. Khi quen với ánh sáng rồi tôi mới
nhận ra mọi cảnh vật đổi thay. Không c̣n
một h́nh dạng cũ nào được giữ
lại. Lạ lùng, căn nhà của tôi chưa trúng
đại bác vẫn trơ vơ giữa những khu vườn
xơ xác, những ngôi nhà đă tan thành đống
gạch vụn. Đâu cũng có người chết, trong
sân, đầu ngơ, ngoài đường. Những vũng
máu đă khô hoặc c̣n mới. Tiếng đại bác
vẫn câu đều đều từ phía trong thành
nội, những tốp người tiếp tục
chạy ra. Họ vừa chạy vừa la khóc rền
trời. Không ai hỏi ai, không ai nh́n ai.
Ngay giữa đường, hai bên đường,
những miệng hố lớn do người đào, do
bom đạn đào cũng có. Vừa chạy tới
đường Mai Thúc Loan th́ một loạt súng
nhỏ ngoài thành bắn vào như mưa. Đoàn người
chạy đằng trước có vài người ngă
xuống. Tức th́ họ quay đầu trở
lại, một đàn ong tan bầy. Tôi vội kéo
mọi người chạy trốn vào một căn nhà
đổ nát ngay lề đường. Nhà đă
sập, chỉ c̣n mấy bức tường trơ vơ.
Chúng tôi chui vào đàng sau bức tường, leo qua
đống gạch lớn. Nhà này có một cái hầm
cát nhưng hầm cũng bị trúng đại bác tan
tành, bao cát vỡ tứ tung, các cây gỗ gẫy văng
la liệt. Và giữa những bao cát bị đào lên,
giữa những thanh gỗ lớn, xác một người
Mỹ nằm sấp, mặt nh́n ra ngoài đường.
Tay anh ta đưa ra trước mặt và nắm
chặt lại. Tôi ṭ ṃ nh́n kỹ, th́ ra đó là
một bức ảnh nhỏ in h́nh một người
đàn bà tây phương đang áp má bên một đứa
bé gái bụ mẫm. Cả hai mẹ con cùng cười,
tươi thắm giữa vườn cây trái tươi
tốt. Người Mỹ c̣n trẻ lắm, anh ta chưa
tới ba mươi tuổi, mái tóc vàng hoe dính bê
bết máu. Xung quanh xác chết của anh ta, chiếc ví
da xổ tung, giấy tờ, thư từ rơi vung văi
cùng chiếc bật lửa và những giây đạn c̣n
mới nguyên, bị đứt ra từng đoạn.
Tam ṭ ṃ hơn, nó nh́n sát vào tay người Mỹ và
đọc được gịng chữ nhỏ đằng
sau bức ảnh. Hắn lẩm nhẩm: Lạy Chúa,
cho con gửi lời cầu xin năm mới sang Việt
Nam cho chồng con. Chiến tranh chấm dứt và gia
đ́nh đoàn tụ. Lẫn trong đống thư
từ rơi văi, Tam lượm được một
chiếc ảnh nữa, cũng người đàn bà,
gần như không có mảnh vải che thân đang
nằm sấp trên chiếc giường rộng
trống trải với một lời đề đằng
sau, tả nỗi nhớ chồng thê thiết.
Không biết ngày thứ mười mấy hay hai mươi
mấy mà người Mỹ đă vào được
tới đây. Có lẽ họ đă đến và
bị đẩy lui. May mà chúng tôi đă t́m ra tới
được đây. Khi chúng tôi ra tới đường,
h́nh như nơi con đường chúng tôi ở không
c̣n một gia đ́nh nào nữa. Họ đă chết
hoặc đi từ lâu rồi. Hường ngồi
ủ rũ dựa lưng vào đống gạch, nó giơ
tay che mắt không dám nh́n xác chết.
Người đàn bà lớn tuổi nhất ở nhà
hàng xóm trú ngụ nhà tôi ḅ ra ngoài nh́n rồi
ngoắc chúng tôi:
"Ngoài đường có người đi rồi.
Đi đi thôi."
Chúng tôi lại dắt d́u bồng bề nhau đi. Nhưng
cứ một đoạn, chúng tôi lại chạy ào t́m
chỗ tránh đạn hoặc nằm mọp xuống
đất khi nghe trên đầu có tiếng rạt
rạt. Mỗi lần có tiếng rạt rạt trên
đầu là có tiếng nổ của đại bác.
Đằng trước chúng tôi có người trúng đạn,
đằng sau chúng tôi có người trúng đạn.
Đoàn người chạy loạn bỗng dưng tụ
tập hết gần nơi cửa thành. Người tôi
run lên. Họ kiểm soát chắc. Chúng tôi đến
gần. Có một toán quân giải phóng đang ngồi
ở đó. Họ không ngăn chận nhưng đoàn
người tự động dừng lại trước
những mũi súng gờm gờm như sẵn sàng
nhả đạn. Tôi kéo vuông khăn che đầu tóc,
che mặt cho thấp xuống.
Má tôi vội nhét vào túi áo trong của tôi một gói
tiền nhỏ rồi bà bế xốc Hường lên.
"Đàn bà được đi qua. Đàn ông thanh niên
đi trở lại."
Một giọng cứng rắn từ trong toán giải
phóng đang ngồi dựa lưng bên cửa ra
lệnh. Tam tái mặt, nó cố lẩn trong đám
đàn bà trẻ nít. Tôi nín thở đi qua. Mấy
đôi mắt gườm gườm nh́n thẳng vào
mặt. Bỗng có tiếng nói:
"Anh kia đứng lại."
Tôi giật thót cả người, không dám nh́n
lại. Họ nói tôi hay nói ai. Nhưng tay ai đă đẩy
lưng tôi đi thẳng tới phía trước.
Tiếng Hường rên rỉ như đau đớn
lắm. Tôi biết một phần nó đau đớn
thật và một phần nó làm bộ kêu la. Bỗng
Tam vùng chạy về phía trước. Một tràng súng
đuổi theo nhưng h́nh như súng chỉ bắn lên
trời. Đoàn người tràn ra cửa thành đông quá.
Tam nhờ đó cứ vừa lách vừa chạy. Nghe
tiếng súng, ở bên ngoài có tiếng súng đáp
trả. Hai bên lại bắn nhau loạn xạ. Chúng tôi
lạc bầy nhau chạy bán sống bán chết.
Một tràng đạn réo bên tai. Tôi vội nằm
xuống đất, và khi đứng dậy được
th́ má tôi, em tôi, Tam và những người hàng xóm
đă chạy lạc đâu mất rồi. Tôi chết
điếng người, má tôi, em tôi, có mặt trong
đoàn người chạy phân tán các ngả hay đă
nằm trong đống xác vừa mới ngă đằng
sau lưng đang c̣n nóng hổi, tràn trề sự
sống kia? Tôi muốn quay lại nhưng không
được nữa. Súng đạn xô tôi chạy măi
về phía trước. Tôi đă ra tới phố Phan
Bội Châu.
Lúc năy, rơ ràng tôi nghe nhiều tiếng súng bắn vào
cửa Đông Ba, và quân Việt cộng bên trong bắn
trả lại. Nhưng ra tới đây, sao tôi không
thấy bóng một người nào hết. Chỉ có
những xác chết. Xác Việt cộng chết từ
lâu hoặc c̣n tươi, xác dân chúng đi tản cư.
Tôi nh́n thấy nhiều cảnh thương tâm
lắm. Những chị đàn bà chết trong tay c̣n ôm
chặt con. Những người đàn bà bụng
chửa chết ḷi con ra ngoài. Thấy chạy ở ngoài
đường nguy hiểm quá, tôi xô cửa vào
một căn phố gần đó.
Căn phố bỏ trống. Tôi ngạc nhiên khi nh́n
thấy những lỗ hổng lớn đục nơi
bức tường cứ tiếp tục thông từ nhà
này sang nhà khác. Tôi nghĩ là Việt cộng họ dùng
lối này để di chuyển chăng. Nhưng tôi không
dám mạo hiểm leo sang những căn nhà khác. Căn
phố này chưa sập đổ hoàn toàn, nhưng tôi
kiếm hoài không ra được một chút thức
ăn nào hết. Cực chẳng đă tôi phải t́m
sang nhà khác, kiếm bất cứ cái ǵ ăn cho đỡ
đói. Khi tôi nhặt được một túi bánh ḿ
khô bên cạnh xác một em bé chết đă lâu
mặt mũi śnh thối, th́ tôi cũng bị trúng
một viên đạn vào tay. Tôi tự băng bó
bằng áo của em bé đă chết, và viên đạn
đến bây giờ vẫn c̣n mắc cứng trong
thịt, có lẽ tôi đau nhức hơn cả là v́
vết thương này.
Tôi không hiểu làm thế nào mà tôi c̣n sống sót
được khi chạy tới bờ sông. Tôi không
biết, không nhớ rơ khúc sông nào. Lúc nh́n thấy
mặt nước, tôi khát cháy cổ họng, người
khô quắt không c̣n một giọt mồ hôi. Sau lưng
tôi, trên đầu tôi, tiếng súng nổ. Tôi bỗng
cảm thấy đau nhức khắp người và h́nh
như máu trong người tôi đang chảy ra như
suối. Mặc, gịng sông xanh trước mặt êm
ả quá, màu xanh ban đầu làm mắt tôi dịu
lại, rồi tất cả gịng sông chụp lấy tôi,
nhận ch́m tôi xuống. Tôi đă lết tới sát
bờ sông, tôi vục cả mặt ḿnh xuống, trườn
cả người xuống, gịng nước mát
lạnh như muốn đóng tôi thành một tảng băng.
Rồi có tiếng la chới với: Cứu người
ta với, cứu người ta với. Tôi bị
nhấc bổng lên một con thuyền, và tôi thiếp
đi.
Khi tôi tỉnh dậy th́ thuyền đă qua sông. Tôi
bị mấy vết thương khá nặng. Có bao nhiêu
tiền, tôi dốc cho người lái đ̣ đă
cứu sống tôi hết. Tôi từ giă người lái
đ̣ rồi cố gắng vừa ḅ vừa lết lên
đường.
H́nh như tôi ḅ ngang qua nhiều xác chết lắm. Tôi
đến được trường Kiểu Mẫu.
Ở đây, người ta tị nạn đông
lắm, đông đến nỗi tôi không c̣n có
chỗ nằm. Tôi được băng bó sơ sài,
được ăn uống. Người ta khuyên tôi nên
đi về phía An Cựu, ở đó đă yên, may
gặp quân đội, họ chở về Phú Bài
mới có thuốc thang băng bó. Tôi đă đi qua bao
nhiêu con đường nhỏ, tôi có ngang qua bưu
điện nữa th́ phải, cứ ở chỗ này có
tiếng súng, tôi ḅ tránh sang chỗ khác. Nơi bưu
điện, tôi thấy có mấy xác Việt cộng
bị xích chân nơi khẩu đại liên. Họ
đă chết. Một nơi khác tôi cũng thấy tương
tự như thế. Khi tới cầu An Cựu, tôi
thấy có lính ḿnh và người Mỹ. Tôi chưa
kịp đi tới th́ xẩy ra tiếng súng, tôi
vội lết vào con đường nhỏ để
tránh đạn. Khi đi qua đoạn đường
hồi năy anh cứu tôi, tôi bị một phát súng trong
vườn bắn ra. Tôi ngă ngay xuống đất. Dù
vậy, tôi cũng cố lết tới cái hố bom
để tránh đạn lạc. Khi ở trường
Kiểu Mẫu, tôi thấy có nhiều ngôi mộ
mới. Người ta nói: mỗi ngày có mấy người
chết. Hoặc bị thương từ trước,
hoặc trúng bom. Tôi tưởng qua tới đây th́ có
thể về Phú Bài được. Nhưng giờ th́
tôi hết hy vọng rồi. Tôi không hiểu sao tôi c̣n
tỉnh táo tới phút này để kể cho anh, cho
chị nghe chuyện của tôi được. Có
lẽ máy bay đă xa rồi.
Thôi anh chị để mặc tôi, chạy đi, không
họ tràn tới bây giờ. Xin dựng tôi nơi cánh
cửa, không, nơi cái cột kia cũng được.
Tôi c̣n nh́n thấy mưa, thấy cỏ cây. Bụi cây
trước mặt chưa có một vết đạn
nào tới phá, mưa gội sạch hết để tôi
nh́n...
Thái dựng người thanh niên nơi chiếc cột
ngó ra góc vườn. Ở đó có một chậu cây.
Mấy chậu hoa thược dược trắng và tím
vẫn nở. Xa hơn là một bụi cây lớn
đang nằm nghe mưa vỗ về. Có lẽ máy bay
sẽ trở lại thật. Thái ngỏ ư muốn
đi và đem người thanh niên theo, nhưng anh ta
mỉm cười lắc đầu. Tay anh bắt đầu
run, môi anh ta tím bầm lại và đôi mắt chớp
nhanh như muốn thu hút hết bầu trời và
cảnh vật trước mắt. Đôi mắt dại
dần như có một cái màn mỏng kéo tràn qua. Thái
cầm chặt tay anh ta. Nơi khóe mắt sắp tàn
lụi bỗng rỏ xuống hai giọt nước
mắt và miệng anh mấp máy. Anh cố nhướng
lên như muốn thâu hết mọi h́nh ảnh rồi
đứng tṛng. Thái lắc đầu. Tôi thụt lùi
lại đứng đằng sau lưng Thái. Thái
nhẹ nhàng vuốt mắt cho người thanh niên,
rồi đặt xác anh ta nằm thẳng bên chiếc
bể cạn.
Trời mưa nặng hạt hơn. Tôi thờ thẫn
theo Thái ra ngơ. Trước ngơ, mấy xác Việt
cộng nữa vừa mới chết. Họ nằm
sấp có, ngửa có. Thái vuốt mắt cho từng người
rồi kéo tay tôi đi. Tôi bỗng hoảng kinh muốn
vọt chạy tới đằng trước. Thái
hỏi:
"Chi rứa chị?"
Tôi nói không ra hơi, đưa tay chỉ lui. Xác
một Việt cộng vừa mới được Thái
vuốt mắt xong đă nhắm, bỗng lại mở
trừng trừng ra, như nh́n theo chúng tôi. Thái xô tôi
tới trước:
"Thôi kệ, đi đi chị. Đi đi mau."
Chính chân Thái cũng quưnh lại. Hai chị em dắt díu
nhau chạy thoát con đường nhỏ. Một lúc
sau tới đồn An Cựu, thấy có thúng hột
vịt của ai bị đổ rơi văi đầy
đường, Thái nhặt được ít quả c̣n
nguyên bỏ vào túi.
H́nh ảnh người thanh niên tên Khâm vừa mới
chết trong một căn nhà lạ cứ ám ảnh tôi
măi. Hắn kể tỉnh táo vậy tại sao lại
chết chóng vánh như thế? Cái chết thiệt
dễ dàng và đôi khi không giải thích nổi.
Hắn đă ở nơi bom đạn trong suốt bao
nhiêu ngày, bị bao nhiêu vết thương. Trốn
chạy măi sang gần tới nơi b́nh yên th́ lại
chết v́ một viên đạn nào đó trong vườn,
từ sau một bụi tre bắn đi. Cái chết
thật như sự bỡn cợt.
Vậy số phận tôi, số phận gia đ́nh tôi
lấy ǵ bảo đảm. Tôi đă chạy cùng
khắp, về nhà quê, lộn lại lên Huế. Ở
nhà quê cũng có người chết v́ đại bác
rơi lạc. Về thành phố, t́m nơi an ổn
nhất cũng có những viên đạn đi lạc
hết sức vô t́nh. Tôi bỗng bàng hoàng cả người
khi nghĩ tới những ngày ở nhà thờ, ở
Cung An Định, những ngày chạy từ Tân Lăng
về miệt đường rầy. Ở đâu cũng
đầy cái chết mà chúng tôi chưa biết, chưa
chết, chớ không phải là không thể chết.
Ban đầu tôi nghe đồn là Việt cộng
ở chơi ba ngày, rồi tăng lên bảy ngày.
Rồi tin cụ Hồ vào thăm dân. Cụ chưa vào
mà thành phố đă chết đứt một nửa,
đă tan nát sụp đổ gần hết. Ngày
cụ vào, chắc ǵ con cháu c̣n sống để hoan hô
cụ. Nh́n đồng bào chết, ḷng tôi không
khỏi xót xa, nhưng nh́n những xác Việt cộng
tôi cũng không thể căm thù họ. Họ cũng
chết la liệt cho bác Hồ vô Huế. Thái nói:
"Răng tự nhiên chị khóc?"
Tôi phải nói là tôi sợ lắm. Chắc Thái cũng
đang nghĩ ǵ mà tôi nh́n thấy mắt nó buồn
hiu. Về tới nhà, má tôi đang đứng lấp ló
ở cửa. Bà chạy xổ ra kéo chúng tôi vào nhà,
vừa mắng vừa khóc:
"Tụi bây thiệt. Tụi bây thiệt làm tao
hết hồn hết vía."
Rồi bà kéo chúng tôi vào nhà. Trên bàn thờ ba tôi, mùi
nhang bay thơm phức. D́ Vạn đang thổi cơm
bằng chiếc bếp nấu dầu hôi ở một
góc nhà. D́ nói:
"Trưa ni ăn cơm có đu đủ kho nghe bây.
Dưới Thủy Dương vừa mang lên, của
cậu mợ Giáo gửi cho đó."
Thái ngơ ngác:
"Ai lên, lên khi mô? Mới đánh nhau mà."
"Th́ nó lên rồi bị kẹt ở Mù U. Nó phóng
xe như bay tới đây, ngớt súng là về
liền."
Tôi hiểu d́ Vạn nói nó đây là ai rồi.
Chắc con trai của cậu Giáo.
Má tôi nói:
"Đừng có mở cửa nghe. Có nhiều nhà người
ta về rồi. Mở cửa sợ Việt cộng
biết."
Trưa đó, chúng tôi đang ăn cơm th́ nghe
một tiếng nổ như sét trên đầu. Cả
nhà lại vất hết bưng đầu chui vào
hầm. Lại đánh nhau chăng? Nhưng chỉ có
một tiếng nổ lớn rồi thôi. Hai cánh
cửa sổ đang đóng bật ra, thêm một ít ngói
trụt để lộ những mảnh da trời màu
ch́. Mấy tiếng đồng hồ sau chúng tôi
mới biết là một toán lính Mỹ đi ngang
gần đồn An Cựu, ngồi nghỉ chân tại
bên đường, kiểm lại thấy mất
một cây súng. Vậy là họ kéo vào một căn nhà
lầu đẹp nhất bỏ trống, đặt ḿn
giật nổ cho hả giận.
Mời
xem tiếp phần 12
|