Chương 8
Trở về ngôi nhà cũ
Nhà ở đằng trước đă trở về.
Trước Tết, tôi thấy nhà này đông lắm,
con cháu ra vô đầy sân. Khi ba tôi mất, ông chủ
nhà cũng có qua thăm viếng nữa. Vậy mà bây
giờ chỉ có hai người con trai trở về.
Họ mặc quần áo đại tang và đội mũ
trắng trên đầu.
Tôi biết được họ về là nhờ nghe
được tiếng khóc. Một buổi xế trưa,
khi vừa chui ra khỏi miệng hầm để giúp d́
Vạn lấy nước vo gạo, tôi bỗng nghe
tiếng khóc ai oán ở nhà trước mặt ngơ. D́
Vạn khoát tay:
“Im, ai khóc mà dễ sợ rứa. Ai khóc như ma khóc
rứa hề.”
Tôi nói:
“Con nghe chừng như tiếng đàn ông.”
Thái ḅ ra:
“Tiếng khóc bên nhà trước ḿnh, h́nh như nhà bác
Năm th́ phải chị hỉ!”
“Chắc vậy.”
“Để em ra sân nghe thử coi.”
Thái thoát ra sân. Tôi vội vă chạy theo nó. Đúng
tiếng khóc ở nhà trước ngơ thật. Ngôi
mộ trước sân ai đă thắp hương, làn
khói mỏng manh bay là là sát mặt đất rồi
tan loăng rất mau. Thái đứng trước cây
dừa nh́n vào. Một cái đầu rồi hai cái
đầu ló ra. Hai người con trai lớn của gia
đ́nh này. Mặt mũi đỏ hoe và mắt chưa
ráo lệ. Thái hỏi thăm:
“Mấy anh về rồi đó à?”
“Không, tụi tui về rồi đi liền. Về coi
nhà cửa ra răng.”
Thái chỉ ngôi mộ:
“Mộ bác gái đấy phải không? Hôm nớ mà chôn
được, kể bác gái cũng có phước
lắm.”
“Mạ tui chết ngay tại nhà mà. C̣n con em tui chưa
chết, v́ chưa chết mới mang họa.”
“Ủa, chắc cô đă bị thương nặng
lắm.”
“Nó cũng chết rồi.”
Người em đưa tay lên trời, chỉ về phía
thành phố đang bốc khói:
“Tui thề không đội trời chung với chúng nó.
Anh thử coi, con em gái tui bị thương sáng đầu
tiên, nhà cháy. Ba tui với em tui chở nó đi nhà thương.
Khi nớ mô đă biết Việt cộng chiếm
hết thành phố. Rơ ràng là Mỹ với Việt
cộng bắn nhau rồi nhà tui cháy. Đạn trúng
mạ tui không phải B40 mà là đạn của Mỹ
ở ngoài đường bắn vô. Mạ tui chết
v́ đạn Mỹ chớ không phải của Việt
cộng. Rồi ba tui chở em tui, chị gái tui cũng
đi theo, đi giữa đường bị trúng bom
đạn chi đó chết luôn. Chôn ngoài trường
Kiểu mẫu. Trời ơi, tụi tui tới nơi
chỉ c̣n thấy mấy cái thẻ kiểm tra và cái b́nh
thủy đựng nước sôi đă nguội
ngắt đặt bên mấy ngôi mộ vùi nông.”
“Mấy anh t́m ra mộ bác rồi?”
Cả hai người cùng sụt sùi. Họ chùi nước
mắt:
“Mấy ngày trước lận. Tui nghe họ chỉ
chạy ra tới nơi tưởng chết. Rồi tui
về đây núp đạn đầu tiên hết. Trong
xóm mô có ai. Rứa mà ghê quá, một quả bom chi đó
không biết nữa rơi sụp mái nhà, chui tọt vào
miệng hầm, cái đầu chổng ngược như
một mũi tên, mà nó không nổ. Anh em tui nhắm
mắt chờ nó nổ, nó không nổ. Về sau
chạy ra được khỏi hầm. Chừ trở
về nó vẫn c̣n mà chưa nổ. Đi tản cư
tui cứ lo nó nổ th́ tan tành sự nghiệp.”
Tôi sợ tái người. Té ra mấy ngày nay trở
về, chúng tôi sống bên một ngôi nhà chứa
một đầu bom lớn. Nếu nó nổ, bên nhà chúng
tôi không khỏi bị họa lây.
“Bây giờ mấy anh đi mô?” Thái hỏi.
“Chừ tụi tui về Phù Lương. Ở đây
sợ lắm.”
Hai người con trai sửa soạn ít thứ cần dùng,
ra thắp nhang thêm nơi mộ người mẹ
rồi chào chúng tôi, đi ra đường. Thái
chạy theo hỏi:
“Mấy anh đi bộ.”
“Không, xuống khỏi Mù U có xe Lam rồi. Xe lên
tới rồi.”
Tôi mừng như bắt được vàng:
“Thế hả. Anh làm ơn cho hỏi, xe có qua Thanh Lam
không.”
Tôi sực nhớ tới một nơi mà tôi có thể
nhờ cậy được. Ở Thanh Lam có một cơ
sở nhỏ, chi nhánh của nơi tôi làm việc.
Nếu có xe Lam, tôi sẽ đi xuống đó để
nhờ họ giúp đỡ trở lại Sài G̣n.
Một trong hai người vừa đi vừa trả
lời tôi:
“Có, có.”
Tôi chạy một mạch vào nhà. Má tôi hỏi ai khóc
đó. Tôi không trả lời câu hỏi của má tôi
mà tíu tít khoe:
“Con sắp đi Sài G̣n được rồi.”
“Hí. Mi đi Sài G̣n.”
“Đường đi về Thanh Lam được
rồi. Con sẽ về đó xin phương tiện
về Sài G̣n.”
Má tôi chưng hửng:
“Thiệt không? Tao không tin được.”
Tôi kể chuyện hai anh em con trai nhà đằng trước
ngơ cho má tôi nghe. Má tôi hiểu ra và mừng rỡ.
Miễn là thoát được vô với chồng con. Tôi
bỗng tím lịm người. Chồng con tôi ở Sài
G̣n liệu có c̣n yên ổn không? Sài G̣n cũng đánh
nhau, cũng chạy loạn, cũng chết chóc như
Huế. Các con tôi. Các con có đợi má trở
về? Nước mắt tôi bỗng chảy gịng gịng.
Má tôi nạt:
“Nghĩ tầm bậy. Chắc không can chi mô.”
Câu nói của má tôi vẫn không an ủi tôi được
chút nào hết. Nếu gia đ́nh tôi ở Sài G̣n có
chuyện ǵ, thà tôi chết ở đây với
Huế. Nhưng sợ má tôi phiền muộn thêm, tôi
vội chùi nước mắt.
Buổi chiều hôm đó, Thái đưa tôi về Mù
U để chờ xe Lam. Nhưng xe Lam không có.
Tôi lại nghe phía cầu Bực bị giựt ḿn, xe
cộ không đi lại được. Nhưng đến
xế chiều, nhiều đoàn xe Mỹ chạy lên.
Rồi nhiều đoàn xe Mỹ chạy về. Cứ
mỗi đoàn xe chạy lên, họ chở theo một
ít gia đ́nh về hồi cư, đoàn xe trở
xuống họ cho thêm vài gia đ́nh đi tản cư.
Vẫn cứ cảnh người đi người
về, không ai c̣n biết được ở chỗ nào
yên thân hơn chỗ nào nữa. Người ta cứ
chạy, c̣n chạy được là c̣n biết ḿnh
chưa chết.
Xế chiều hôm đó, Túc lên thăm. Túc cho biết
là đường quốc lộ một ban ngày yên
lắm v́ có Mỹ gác. Ban đêm, Mỹ rút về,
Việt cộng từ trong núi tràn ra và đi lục soát
từng nhà, bắt thanh niên lên núi theo họ.
Tối hôm đó Thái bàn với tôi, ngày mai, hai chị
em đi bộ về Thủy Dương rồi mượn
xe của Túc đi về Thanh Lam. Đêm đó, tôi không
tài nào chợp mắt được.
Ḷng tôi nôn nao một cách khó tả. Lúc này tôi mới
thấy ḷng con người ích kỷ nhỏ nhen hết
sức. Giữa sự chết chóc đầy rẫy, v́
một chút hy vọng chưa đâu vào đâu, tôi
đă vui sướng một ḿnh. Má ơi, má. Nhiều
lúc, giữa tiếng đại bác câu ́nh ́nh trong đêm,
tôi thoáng nghe mơ hồ như có tiếng con trẻ,
trong kư ức bật ra hay trong sự nhớ thương
vọng tới.
Trận đánh đến bao giờ mới tàn đây.
Và thành phố đến hôm nay nữa có bao nhiêu xác
chết. Nằm im một chỗ trong bóng tối, dưới
hầm sâu, tôi không có thể h́nh dung ra sự đổ
nát, tang thương của thành phố. Chừng đó
tiếng súng, chừng đó đại bác, chừng
đó bom cũng đă đủ rách nát cả thành
phố nhỏ bé, quê hương thân yêu của tôi
rồi. Tôi ngạc nhiên khi nghĩ rằng tại sao
tất cả súng đạn, từ Mỹ, từ Nga,
từ Tiệp Khắc bỗng nằm trên tay người
Bắc Việt, người Nam Việt, đổ
xuống một thành phố nhỏ bé, hiền lành như
thành phố Huế. Bom đạn từ những nước
nào thật xa xôi, với danh nghĩa giúp đỡ
miền Nam, viện trợ miền Bắc, bỗng dưng
cùng tập trung vào một thành phố nhỏ, banh
thịt trẻ thơ, cắt ĺa tay chân, mặt mũi
bao người. H́nh ảnh những khúc tay khúc chân tôi
nh́n thấy dọc đường. Những cảnh ái
ân vụng trộm giữa tiếng súng, trong một góc
khu giáo đường trang nghiêm đầy rẫy
tiếng kêu, tiếng khóc. H́nh ảnh một xác hài nhi
bọc trong áo bà mẹ, ôi sự sống, dù sao sự
sống vẫn phải tiếp tục. Như tôi c̣n
thở được trong đêm kinh hoàng này đây.
Không, không phải chỉ một ḿnh Huế, mà h́nh như
trên bao nhiêu tỉnh khác, cả Sài G̣n, nơi các con tôi,
nơi chồng tôi đang sống cũng có những h́nh
ảnh này nữa. Cũng bom đạn, nhà cháy, tan nát,
chết chóc. Nhưng tôi bỗng nhiên cứ tin chắc
rằng không có nơi nào chịu cảnh khổ cùng
cực như Huế, nơi chúng tôi đang chịu.
Trời bên ngoài h́nh như mưa nặng hạt hơn.
Nhưng tiếng mưa đang cố dệt bức màn
êm ái mát lạnh cũng đang bị rách nát v́
hỏa châu, v́ súng đạn, v́ máu lệ nữa. Tôi
nghĩ tới những ngôi mộ mới lấp đất
vội vàng, đêm nay mưa sẽ thấm xuống, mưa
sẽ mở mắt cho người chết, hút thêm chút
sinh lực của sự sống chưa kịp tan trong
thân thể bởi cái chết quá bất ngờ. Mưa
cũng sẽ rửa tai cho họ nghe nữa, tiếng
thở của đất, tiếng rung chuyển của
bom đạn. Đêm nay, c̣n bao nhiêu xác chết chưa
kịp chôn, chưa ai vuốt mắt, hoặc nằm
sấp, hoặc nằm ngửa. Bao đôi mắt sẽ
mở trợn trừng với một h́nh ảnh nào
đó c̣n dán chặt trên mặt đất, hoặc c̣n
trong ṿm trời cao xám xịt. Thành phố có bao nhiêu
con đường hoặc bao nhiêu nhánh rẽ như tay
chân, những cánh tay đó đă chết rách bung, không
c̣n đủ sức để vỗ về người
t́m tới nữa.
Và trong đêm nay, đoàn người gồm các cha, các
sư, dân chúng, bồng bế nhau cầm cờ
trắng chạy xuôi chạy ngược đă tản
mát nơi nào? Có bao nhiêu người ở lại
dọc đường, có bao nhiêu khúc chân khúc tay
chới với? Vậy mà tôi c̣n nằm đây. Lạy
Phật. Lạy Chúa. Xin Phật, xin Chúa phù hộ tôi. Tôi
chợt hổ thẹn quá. V́ đă bao năm rồi, có
bao giờ tôi nghĩ tới Phật, tới Chúa đâu.
Nhưng vô ích, đừng có hy vọng hăo huyền
nữa. Tại sao Phật Chúa chỉ cứu một ḿnh
tôi, chỉ thương xót tôi mà không thương xót
bao người khác?
Sáng ra, khi thức dậy, tôi bỗng cảm thấy
một sự yên tĩnh đến rợn người.
Tôi ṃ mẫm trong bóng tối. Ngọn đèn dầu
vặn tim thật nhỏ đặt trong góc hầm
đă khô dầu tắt từ lúc nào. Tôi đụng
phải những cánh tay, những bàn chân lạnh
ngắt. Sao thế nầy? Không c̣n ai thở nữa
hết sao? Không, tôi vừa đụng phải ngực
của ai đó c̣n nóng hổi.
“Sáng rồi, dậy.”
Tôi đánh thức mọi người. Má tôi mệt
nhọc:
“Tối qua không ngủ được, sáng ra ngủ
chẳng biết trời trăng chi hết.”
Th́ ra cả đêm qua ai cũng thức. Thái vùng
dậy chui ra khỏi hầm và mở cửa sổ. Có
chút ánh sáng tràn vào làm mờ nhạt bớt bóng
tối nhưng chúng tôi vẫn chưa nh́n ra được
nhau. Khi ra khỏi hầm rồi, tôi vẫn c̣n cảm
thấy bị bọc trong một sự im lặng
dầy đặc. Hết đánh nhau rồi sao? Không có
tiếng súng nhỏ, không có cả súng lớn nữa.
Thái ra dấu cho tôi dừng lại ở cửa rồi
chạy ra đường. Một lát nó chạy vào:
“Chị, người ta lại đi tản cư. Răng
lạ rứa hè?”
“Đi mô?”
“Họ đi về phía dưới, chắc về
chợ Mai, Phù Lương.”
Tôi reo lên:
“Ḿnh về dưới Hương Thủy đi.”
“Chị t́m về sở?”
“Ừ.”
Tôi ngỏ ư ấy với má tôi. Lúc đầu bà
cản, nhưng về sau, thấy nhiều người
đi về lối Phù Lương quá, bà bằng ḷng
để cho chúng tôi đi. Ra đến ngơ, má tôi c̣n
dặn:
“Coi đường đi không được th́
trở lui nghe con.”
Tôi phải hứa đi hứa lại cho má tôi yên ḷng.
Chúng tôi theo đoàn người tản cư đi
bộ về Thủy Dương. Về tới chợ,
chúng tôi ghé vào nhà cậu Giáo mượn xe gắn máy.
Nhưng xe hết xăng, không t́m ra xăng ở đâu
để mua nữa. Chúng tôi đành phải tiếp
tục đi bộ. Đi được một đoạn,
chúng tôi theo kịp đoàn người phía trước.
Cũng có vài gánh hàng từ dưới đi lên,
những gánh rau xà lát xanh non. Th́ ra ở đây,
chợ búa vẫn họp như thường. Các vùng này,
chỉ có ban đêm, Việt cộng mới tràn về
bắt bớ, chớ ban ngày hoàn toàn an ninh. Tuy vậy,
nh́n vào những thôn xóm, tôi vẫn cảm thấy như
có một sự ǵ ghê gớm, sẵn sàng bùng nổ.
Thêm một đoạn đường nữa, ngang qua cánh
đồng rộng, chúng tôi phải đi sát vào
bờ đường để nhường lối cho
một đoàn xe đang hối hả chạy ngược
trở lên. Trên xe đầy lính Mỹ. Thái kéo tay tôi
rạt xuống sát bờ ruộng bỏ không, xấp nước.
Đoàn xe này chắc lên Huế tiếp viện. Chúng tôi
đang ở giữa đoàn xe th́ một tiếng
nổ lớn, như tiếng súng cối khai hỏa,
rồi th́ những tràng súng lớn nhỏ bắn
từ trong những cḥm cây xanh phía sau ruộng ra như
mưa. Đoàn xe đi trước vừa bắn
trả vừa tiếp tục chạy. Đoàn xe sau
dừng lại và tất cả binh sĩ Mỹ đều
xuống xe, tràn xuống hai bên bờ ruộng. Chúng tôi
vội lăn xuống ruộng, một nửa người
dầm dưới nước lạnh ngắt, đầu
kê trên một bờ cỏ ướt. Thái luôn
miệng giục tôi:
“Cúi đầu thiệt sát chị. Cứ nằm yên,
đừng có chạy.”
Tiếng súng hai bên bắn trả nhau như mưa băng
qua đầu chúng tôi. Chúng tôi đang ở giữa hai
lằn đạn. Tôi vừa lo sợ vừa hối
hận quá. Khi ra đi, má tôi đă can ngăn vậy mà
tôi không nghe. Bây giờ lỡ chết ở đây
thiệt là lăng nhách. Nhưng may quá, tiếng súng phía
trong những lùm cây xa dần rồi im hẳn. Họ
đă rút. Không ai bị thương hết, đoàn xe
Mỹ chỉ bị hư hại nhẹ và năm phút
sau họ đă tiếp tục lên đường
được.
Chờ cho đoàn xe Mỹ đi khuất thật xa, chúng
tôi mới leo lên đường cái. Phía bờ
ruộng bên kia cũng có nhiều người lóp ngóp ḅ
dậy. Họ cũng là những người đi
tản cư. Đi được một đoạn,
chúng tôi gặp một người đàn bà gánh xà lát
đang bị thương nặng bên cạnh gánh rau
của bà rơi vương văi. Chúng tôi dừng
lại xem xét vết thương của bà và chưa
biết làm thế nào th́ may quá, một chiếc xe Lam
từ dưới Phù Lương đi lên. Người
tài xế thấy đám đông nhảy xuống
hỏi:
“Mới đụng độ khúc ni phải khôn?”
“Vừa mới tức th́ ń. Xe Mỹ ngang qua là
họ bắn.”
“Xe chạy qua được hết rồi há? Bà ni
bị thương răng đây?”
“Nặng lắm. Bác làm phước chở bà ta
xuống Phú Bài, nằm nhà thương Mỹ may ra
sống được.”
“Th́ tui cũng đoán rứa, tui đang núp dưới
nớ, nghe trên ni yên tiếng súng mới lái xe lên coi bà
con có ai bị chi không. Trời, t́nh cảnh ni ḿnh không
thương ḿnh th́ ai thương.”
Bác tài cùng vài người khác khiêng người đàn
bà bị thương lên xe. Bác nói:
“Coi ai đi được th́ cứ quá giang tui
chở. Không lấy tiền nong chi mô. Ngồi chật
chật một chút.”
Thái nói:
“Cho chúng tôi tới đằng nớ. Nơi Thanh Lam
đó.”
“Lên đi.”
Chiếc xe chạy băng băng. Tôi nh́n lui lại
chỗ vừa giao chiến, không c̣n dấu vết ǵ,
ngoài gánh rau xà lát rơi vung văi. Những đồng
ruộng vẫn loang loáng nước và những cḥm cây
xa vẫn im ĺm ôm kín niềm bí mật. Người tài
xế kể chuyện oang oang, tiếng ông lẫn trong
tiếng máy xe nổ nghe khi được khi mất.
Đại để ông cho biết là từ hôm xảy
ra đánh nhau, ông đă chở bao nhiêu người
bị thương về Phú Bài rồi. Giữa
đường có nhiều người chịu không
nổi đau đớn đă chết, ông chở
về làng, ông đem chôn luôn.
Chúng tôi phải hét to rát cả cổ, người tài
xế mới nghe và dừng xe lại, thả chúng tôi
xuống Thanh Lam. Tôi vào sở một ḿnh. Lúc đứng
trong chiếc pḥng rộng, tôi mới thấy người
tôi ướt lạnh, nước không phải chỉ
ứ ra từ quần áo mà như thoát ra từ trong da
thịt tôi nữa. Người tôi cứng lại như
một khối nước đá.
Người coi chi nhánh nhỏ của sở chạy ra:
“Trời ơi. Mấy hôm ni quay quắt không biết
mần răng mà t́m chị. Mần răng mà chị
về đây được. Ngồi đây, ngồi
xuống đây...”
Tôi không đủ sức để ngồi xuống
nữa. Tay chân tôi đi đâu mất trọi. Chỉ
c̣n khối óc chưa đông đặc, ra lệnh cho tôi
phát thành lời...
“Anh V, anh biết tin tức chi ở Sài G̣n?”
“À, chị lo cho anh với các cháu há? Không răng, không
răng. Mới túi qua trong nớ gọi ra hỏi tin
chị. Ngày mô anh cũng tới sở đợi tin
chị. Chị yên trí đi.”
“Anh nghe chi về gia đ́nh tôi không, các con tôi...”
“Các cháu vẫn khỏe mà. Trong đó đánh nhau cũng
lớn nhưng yên rồi. Chỗ chị ở trong
nớ b́nh an vô sự. Tôi bảo đảm với
chị đấy. Đừng lo.”
Một hơi ấm bỗng bừng lên từ ngực và
lúc này h́nh như quả tim tôi vừa đập
vừa toát ra lửa, ra không khí nóng ấm. Làn khí
ấm áp đó chạy rất nhanh truyền qua mạch
máu, tôi đă chợt nhận ra tay chân của ḿnh. Tôi
mấp máy đôi môi:
“Anh nói thật?”
“Tôi cam đoan với chị là gia đ́nh trong nớ
yên ổn hết. Ngày bữa qua trong nớ gọi ra,
bắt đi t́m chị mà. Mà mần răng chị
xuống dưới ni được.”
“Tui đi bộ.”
“Chừ chị ở luôn dưới ni để tui t́m
cách cho chị vô Sài G̣n.”
Tôi nhớ Thái đang đứng đợi tôi ngoài
đường. C̣n má tôi, em tôi, anh chị và các cháu
tôi nữa. Không, tôi phải ở lại, tôi không
thể bỏ đi một ḿnh lúc này được. Mà
chắc ǵ ở lại đây tôi đă yên ổn t́m
được phương tiện đi. Ban đêm,
ở những đồn, những sở vẫn là
những mục tiêu, những miếng mồi ngon
của họ, ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tôi
nói:
“Mai tôi trở lại. Bây giờ tôi phải lên An
Cựu.”
Chần chờ một lát để nghe chuyện Sài G̣n,
tôi trở ra, mang theo một lít xăng để khi
tới Thủy Dương mượn xe gắn máy mà
về Huế cho sớm. Thái vẫn đứng chờ
tôi ở một cái quán nhỏ xế cửa sở. Hai
chị em lại đi bộ đến Thủy Dương.
May dọc đường không có chuyện ǵ xảy
ra. Tới Thủy Dương, hai chị em tôi vào
cậu Giáo. Mợ Giáo đă để sẵn cho chúng
tôi một ít rau váng, khoai lang và ít thịt heo. Đổ
xăng vào xe, chúng tôi chở thức ăn về An
Cựu.
Tôi kể chuyện về Thanh Lam cho cả nhà nghe. Khi
biết tin mấy đứa cháu ngoại không hề
hấn ǵ, má tôi mừng đến phát khóc. Nhưng bà
vừa mừng cho cháu ngoại đến phát khóc th́
sau đó lại khổ sở lo lắng khóc cho đám
cháu nội c̣n kẹt trên Từ Đàm.
Buổi xế chiều hôm đó, bỗng ở căn
nhà bỏ không bên kia đường có hai người
đàn ông lạ mặt tới ở. Trông họ xanh
xao ốm yếu lắm. Họ lần ṃ sang nhà chúng tôi
và xin ở tạm. Má tôi vừa trông thấy họ
đi vào ngơ đă kéo Thái dấu tuốt vào trong góc
hầm. Hai người đàn ông vừa nói chuyện
vừa nh́n quanh nhà bằng con mắt láo liên. Họ
cố sửa giọng nói, tôi không đoán được
giọng nói b́nh thường của họ như
thế nào, nhưng những lời họ nói h́nh như
chưa được quen miệng lắm:
“Thưa bác, chúng cháu chạy loạn về đây, bác
cho chúng cháu ở tạm ít bữa.”
Má tôi vội vàng nói lấp:
“Dạ nhà chỉ có mấy mạ con. Dạ ở dưới
ni ban ngày lính quốc gia kiểm soát, ban đêm mấy
ông giải phóng về kiểm soát. Nhà lại trống
trải, xin mấy anh t́m chỗ khác yên hơn.”
“Sao bác không chạy mà về làm chi?”
Má tôi giả vờ chùi mắt, chỉ vào bàn thờ
ba tôi:
“Dạ, ba cháu mới mất xong, mạ con tui cũng
không muốn đi mô nữa hết, thôi th́ phó mặc
cho số mạng.”
“Chị đây là con bác?”
“Dạ.”
“Chắc chị làm công chức?”
“Dạ không. Vợ chồng nó thợ may. Nó về
chịu tang, c̣n chồng nó kẹt lại ở trong
Quảng.”
“Chị may đồ đầm hay đồ Việt
chị?”
Một tên vừa cười cười vừa hỏi
tôi. Tôi trả lời bừa:
“Dạ đầm Việt chi mô. May mấy đồ bà
ba cho bà con lối xóm mà mấy ông.”
Một người chỉ một căn nhà phía bên kia
đường:
“Tụi cháu ở bên kia bác. Có chuyện chi cần bác
sang gọi chúng cháu sẽ sang đỡ đạn cho bác.”
“Dạ, cám ơn mấy anh.”
Hai người đàn ông đi vào nhà, nh́n quanh
quất và tiến dần đến miệng hầm. Má
tôi vội chạy theo:
“Dạ, các anh ngồi chơi uống nước.
Dạ trong hầm nớ hôi hám lắm. Mấy ngày không
ra ngoài được, mấy đứa cháu nhỏ
ỉa đái hôi ŕnh. Mấy anh ngồi chơi.”
Nhưng hai người đàn ông lạ mặt chào chúng
tôi rồi đi thẳng ra ngơ. Họ đi vào căn
nhà trước mặt. Đến chiều tối chúng
tôi không c̣n thấy họ đâu nữa.
Đêm đến, tiếng súng miệt Phủ Cam,
Bến Ngự nổ ṛn ră. Đại bác câu về phía
đó liên tiếp. Chúng tôi nằm trong hầm, nghe
tiếng đại bác dội lại muốn ù tai.
Rồi hai ba tiếng nổ ầm ầm như căn nhà
đă bị văng đi đâu hết rồi.
Gạch ngói rơi trên nóc hầm rào rào. Chúng tôi
nằm sát vào nhau, quờ quạng t́m nhau, lúc nào cũng
có cảm tưởng như một người thân yêu
nữa sẵn sàng bỏ đi trong đêm tối.
Sáng ra, chúng tôi mới biết là những cánh cửa
sổ được Thái đóng chặt lại,
cột bằng giây thép cũng đă bị văng ra, rơi
sau hè nhà. Căn nhà lại sụt ngói, lụi tường
thêm một ít nữa. Chúng tôi ra vườn quan sát
chỗ nổ. Hai ba căn nhà cách căn nhà phía sau hè
bị đại bác câu trúng. Chúng tôi phải đi ṿng
ra đường, vào hẻm mới tới căn nhà
bị đạn. Căn nhà đă hoàn toàn sụp đổ,
một lỗ hổng lớn ngay giữa nền nhà. Cây
dứa trước sân bị cắt đứt và mái
nhà bên cạnh bị mấy tấm tôn quạt sang, hư
hại một phần ba mái nhà. Không ai chết, chỉ
có vài người bị thương nhẹ v́ người
chủ nhà này đào hầm ở ngoài sân.
Nhà bên cạnh có một ông già ở lại giữ nhà,
con cháu đă đi chạy loạn hết. Ông già quá,
chắc đến trên tám chục, không đi được
nữa. Ông chả đào hầm hố, cứ ngủ
trên tấm phản gỗ nhưng chưa hề hấn
ǵ. Thái và tôi vào căn nhà của ông cụ coi
mảnh đạn văng qua phá nát một vách tường
phía mặt. Ông cụ hấp hem nh́n chúng tôi:
“Răng về rồi hí? Khôn chạy ở đây trúng
đạn hết răng?”
Tôi hỏi:
“Thưa ôn, trong nhà đi mô hết rồi?”
“Xuống âm phủ rồi chớ đi mô. Tổ cha nó,
nói đừng có chạy, cả nhà chạy hết,
nghe chết mô ở gần trường Kiểu mẫu
hết rồi. Tui c̣n một ḿnh, già mà không chết,
con cháu chết hết ở với ai.”
Ông đưa mắt nh́n lên bàn thờ, b́nh hoa vạn
thọ đă héo tàn, mấy bát nhang bỏ không và chén
nước trà đâu từ tối mồng một
đă gần cạn đọng một lớp bụi
dầy trên màu vàng đặc quánh đă sắp hóa
đỏ. Ông già ngồi trên phản gỗ, cứ
đưa tay dụi mắt hoài, tôi không biết ông
bị bụi vào mắt hay đang khóc. Ông ngồi quay
lưng ra phía chúng tôi lầm bầm hoài ǵ đó. Căn
nhà điêu tàn hoang vắng rợn người. Ông già
như một bóng người chết khô chết héo.
Trên bàn thờ, bức ảnh một cụ già móm mém
cười, hai mắt đă mất hết màu thiếc
ảnh, trắng dă như mắt ma... Thái và tôi không ai
bảo ai, đều thụt lùi đi ra cửa.
Đám đông vẫn c̣n bu đầy trong ngoài căn
nhà bị trúng đại bác. Th́ ra xóm này dân chúng
đă trở về khá đông, nhưng chả ai dám chường
mặt ra ngoài, họ đào hầm và sống lẩn lút
bên trong. Thái nói là có những gia đ́nh ở chỗ
khác tản cư tới đây, rồi ở luôn không
đi nữa.
Đám đông đang bàn tán bỗng chạy ào ra
đường. Một đám đông khác đang
tụ tập đầu hẻm. Thái kéo tôi chạy ra.
Đám đông này đang bu quanh một cô gái nhỏ
bị thương nặng. Cô gái được đặt
nằm trên tấm bố cũ, trải trên lề
cỏ ướt.
Theo người ta bàn tán, nhà cô nhỏ này ở trên
đường rầy. Tảng sáng, một trái đại
bác đă rơi trúng sau vườn và mảnh đạn
ghim vào người cô. Một mảnh đạn đă
trúng bụng và đám ruột ḷng tḥng chảy ra ngoài.
Cả người cô được bao kín bằng
tấm mền cũ nhưng máu thấm ra ướt mèm
tưởng vắt thành giọt được. Mặt
cô bé tái xanh, hai mắt mở lờ đờ. Người
cha ngồi xổm bên đứa con gái vừa khóc
vừa lạy van:
“Lạy bà con cô bác, làm ơn kiếm xe dùm chở con
tui xuống Phú Bài cho bệnh viện Mỹ nó
cứu.”
Nhưng đường sá chẳng có chiếc xe nào,
trừ những đoàn người tản cư không
biết từ mạn nào, kéo về và cứ đi
thẳng theo quốc lộ 1. Thái cúi xuống xem xét
vết thương của cô gái rồi lắc đầu.
Một người nói:
“Cứu liền may ra kịp.”
Nhưng cô gái vẫn nằm chờ bên đường
cho tới trưa, cố nhướng đôi mắt
đă lạc thần lên nh́n người cha, nấc lên
một tiếng rồi trợn ngược mắt.
Người cha khóc ầm ỹ, ôm lấy xác con và
cứ thế, ông chạy miết dọc theo quốc
lộ, vừa chạy vừa la khóc thê thảm. Mấy
người lính gác đồn Trường Bia chạy
ra ngăn ông lại, nhưng không c̣n ai ngăn nổi
ông nữa. Chạy được một quăng, ông ta
ngồi lại bên lề đường đợi
chờ từng phút hơi thở con gái yếu dần.
Thái nói:
“Thôi vô nhà đi chị.”
Chúng tôi đi trở về, dọc đường, Thái
hỏi một đoàn người chạy lại:
“Ở mô về đó bác?”
“Từ Đàm.”
“Bác ở mô?”
“Bến Ngự.”
Thái reo lên và cầm chặt tay tôi kéo chạy. Vào
tới nhà. Thái la lớn:
“Trên Từ Đàm tản cư về. Có người
về.”
Nhưng khi má tôi chạy ra được th́ đoàn
người đă đi xa. Những đoàn người
khác tiếp tục kéo về. Họ ở những vùng
khác. Bên phố, trên Bến Ngự, trên ga, Phú Cam.
Một người ở Bến Ngự cho biết là trên
Từ Đàm kẹt lắm, bộ chỉ huy Việt
cộng vẫn đóng ở đó. Và quân Mỹ đă
dàn tới bên kia cầu Bến Ngự.
Má tôi lại thất vọng. Buổi trưa, dù có
đồ ăn ngon dưới Thủy Dương
gửi lên, không ai cảm thấy ngon. H́nh ảnh cô bé
với đống ruột ḷng tḥng chờ chết
từng giây từng phút bên lề đường làm tôi
xốn xang.
Khi chúng tôi ăn cơm xong, ở ngoài đường
lại thấy từng tốp lính từ phía quốc
lộ đi vào thành phố, qua An Cựu. Họ mang ba lô,
súng ống, người này cách người kia
chừng nửa thước, và hoàn toàn im lặng.
Họ không ngó ngang hai bên nhà cửa đường
phố. Thái nhận ra là lính Biệt động quân,
rồi một đoàn nữa là lính Nhảy dù, rồi
Thủy quân lục chiến. Dù má tôi ngăn mấ,
hắn cũng chạy ra đường, giơ tay
vẫy. Tôi cũng chạy theo Thái. Ở một vài sân
nhà khác, cũng có nhiều người ra đứng giơ
tay vẫy và hỏi thăm. Những người lính này
như ở xa đến, người họ c̣n đầy
bụi và có vẻ lo lắng mệt mỏi. Họ
mỉm cười trả lời những bàn tay
vẫy, những lời thăm hỏi. Thái ra sát
đường:
“Anh ơi, anh ở mô tới đó?”
“Tụi này ở Sè g̣ng mới ra.”
Một người vừa trả lời vừa đi.
Người đi tiếp theo tḥ tay vào ba lô lấy ra
hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái:
“Biếu bạn. Mừng bạn c̣n sống.”
Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc,
người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít
đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại:
“Các anh cầm đi mà ăn, c̣n đánh nhau nhiều
mà.”
“Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà
ăn không! Đi quyết tử mà.”
Vài nụ cười, vài cái nhún vai. Tôi đứng
sững người nh́n theo. Mấy hôm nay có nhiều
tin tung ra: lính tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở
đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người
ta hối hả trở về để giữ của,
và v́ sự vội vàng mà nhiều người chết
oan. Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một
thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi. Tôi không c̣n
đủ sức cúi xuống nhặt nữa.
“Mừng các bạn c̣n sống.”
Mấy người lính đi sau tiếp tục la hét.
Những bàn tay vẫy đưa trả lại,
những nụ cười chào nhau tiếp theo. Đoàn
lính đi qua dần, tôi đă cúi xuống được,
cầm chặt thỏi sô cô la trong tay và bóp vụn nát
lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nh́n
thấy những người lính dễ thương như
thế. Họ là lính miền xa đến để
chết ở Huế. Họ người Sài G̣n, người
Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam,
miền Trung, miền Bắc. Họ đến để
chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới
những người lính địa phương,
một số đă bỏ đồn chạy về ngay
từ hôm đầu, một số đợi hơi yên
là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn
nhà bỏ không lấy đồ. Những món ăn béo
bở Việt cộng đă khuân đi từ mấy ngày
đầu xẩy ra biến loạn, những món
cặn thừa c̣n lại dành cho kẻ thừa nước
đục thả câu. Tôi đă thấy hai người
lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng
tủ, khiêng ghế, hoặc bọc những vật
dụng lấy trong các nhà đổ nát, c̣n hôi ŕnh xác
chết. Thái đă ôm mấy hộp đồ lên tay và
giục tôi trở vào. Khi nghe kể chuyện, má tôi
cảm động muốn khóc.
“Tội nghiệp, lấy của họ mần chi,
để họ ăn cho có sức mà đánh.”
D́ Vạn cứ suưt soa hoài:
“Họ tốt quá hí. Rứa mới biết là họ
dễ thương chớ mô có như mấy thằng
mắc dịch ở trong xóm, ăn cắp, thừa nước
đục thả câu mà. Tụi nó lại sống nhăn
mà mấy anh đó lại cực khổ dầm vào
chỗ tên đạn mới tội chớ.”
Có tiếng súng ở xa xa vọng lại rồi.
Chắc lại đánh nhau. Tôi nghĩ tới những
người lính vừa liệng cho chúng tôi những
hộp thịt, những thỏi kẹo. Họ cười
đó, nhưng lúc này đă có người ngă
xuống. Huế sẽ làm ǵ cho họ trong những ngày
sắp tới. Không, Huế cũng đă trơ xương
da rồi, tan nát hết rồi. Nhưng chắc chắn
Huế sẽ c̣n, dù bằng tàn lửa, bằng tro
nguội, bằng xương người. Các anh sẽ
có người c̣n sống c̣n trở về lại quê
nhà và c̣n trở lại để giữ Huế.
Thái đă đốt một điếu thuốc. Nó
thả khói thành những ṿng tṛn, đốm lửa
đầu thuốc lập ḷe khi thu nhỏ, khi bùng
lớn, như nỗi hy vọng đang dần dà
phấn khởi rồi thắt lại trong hồn tôi.
Đúng lúc ấy, tôi bỗng bàng hoàng v́ có tiếng
động ngoài sân. Rồi có tiếng gọi:
“Má ơi.”
Giọng con gái. Má tôi ngồi rột dậy. Cả nhà
túa ra miệng hầm. Má ơi, má ơi, má ơi, má
ơi... Tiếng gọi má ơi không dứt. Cánh
cửa mở tung. Chiếc xe đạp rơi bịch
xuống đất và Hà nhảy xổ vào nằm
gọn trong ḷng má tôi: Má, má, má...
“Con, con... Ui cha con Hà. Ba hồn bảy vía con Hà... Con
về được, con về được.”
Tôi chợt nh́n ra sân, một ông già mặc áo dài đen,
đang đứng cầm ghi đông xe đạp nh́n vào
nhà mà mỉm cười.
Má tôi kêu lên:
“Ôn Minh. Ôn về răng rứa?”
Rồi má tôi khóc, khóc sung sướng, khóc ồn ào:
“Ôn ơi, ôn vô đây. Ôn vô đây ôn.”
Ông già b́nh tĩnh dựng xe đạp, vuốt lại
vạt áo dài đen rồi bước lên từng
bực cấp đi vào nhà. Má tôi vẫn c̣n ôm
chặt cứng Hà trong tay. Ông già mà má tôi gọi là ôn
Minh chỉ vào Hà:
“Tui đem con lỏi xuống cho bác đó. Mấy hôm
ni hắn đ̣i đi, hắn hành tui bất tội thân
mà.”
“Ông đem con xuống đó má.”
Ông Minh vừa ngồi xuống ghế vừa nh́n quanh
nhà:
“May phước, nhà không bị hư hại chi
nặng hết.”
Má tôi vừa giục tôi pha nước vừa hỏi:
“Ôn ơi, tụi c̣n ở trên ra răng ôn?”
“Không răng. Tụi nó c̣n ở trên. Thầy Lễ
thầy nóng ḷng lắm, cứ nhất định đ̣i
đi xuống dưới ni t́m bác. Tui phải cản.
Hai ôn con tui ngày mô cũng t́m cách đi xuống dưới
ni mà đi khôn được đó chớ.”
“Có đứa mô bị...”
Má tôi dừng lại, mặt tái xanh chờ đợi.
Ôn Minh uống một ngụm nước:
“Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một
miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có
mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi.
Nhờ có ông già mặc áo the đen và Hà thuật
lại, tôi biết thêm rất nhiều về t́nh h́nh
trên Từ Đàm. Gia đ́nh anh tôi phải bỏ sang lánh
nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đă gần
tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng
sập mái, nhà giảng th́ bị đại bác câu
tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt
cộng chiếm chùa để trú ngụ và tạm thương,
nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi,
chỉ có cắt quân canh gác và đào hầm chiến
đấu. Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có hàng
trăm người tỵ nạn và xung quanh đó,
nhiều nhà đă sập hoàn toàn. Con đường
từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu
Bến Ngự, hai bên nhà cửa không c̣n một căn
nguyên vẹn. Gia đ́nh anh tôi chạy qua hết bên nhà
cụ Phan cùng với nhiều gia đ́nh và những người
tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già:
“Chị biết ai đây không? Ông Vơ Thành Minh đó.”
Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm:
“Ông là người thổi sáo bên hồ Genève
phản đối chia đôi đất nước
hồi 54 tề, chị.”
Tôi nh́n ông già, ông đang bận kể chuyện cho má
tôi nghe. Hà nói tiếp:
“Ông Minh mà chị không biết há? Ông c̣n tên là Vơ
Song Thiết đó.”
Tôi hỏi nhỏ:
“Bây giờ ông làm ǵ?”
“Ông giữ nhà thờ cụ Phan, ông là đồng chí
của cụ Phan mà chị. Mấy ngày đánh nhau,
nhờ có ông mà nhiều người khỏi chết
đó nghe. Vui lắm.”
Tôi trợn mắt:
“Mày nói vui? Trời ơi, chết như vậy mà mày
nói vui sao?”
“Ông Minh nói ở hoàn cảnh mô, ḿnh cũng cố
gắng vui sống. Ông Minh có sợ chết mô. Ông
đi hoài cả ngày chị. Ông đi phát gạo, đi
tải thương, đi thăm các nơi...”
Tôi nh́n kỹ ông già. Ông mặc áo the đen, quần
vải trắng, đầu đội chiếc mũ bê
rê đen.
Không biết má tôi kiếm đầu ra trầu mà bà
đem ra mời ông nhai trầu bỏm bẻm. Khuôn
mặt ông thông minh, hiền lành. Nh́n ông, người
ta dễ bắt nhạy cảm t́nh hơn là nghi kỵ,
ḍ xét. Hai chiếc xe đạp vẫn c̣n ngoài sân. Mưa
phùn vẫn chưa dứt và tiếng súng vẫn
vọng xa xa. Má tôi lại hỏi:
“Ôn đi ngả mô xuống đây?”
“Hai ôn con tui đi cùng các đường. Mấy
bữa ni rồi. Có bữa đi xuống quá Lầu
Đua Ra lại thấy đánh nhau, bắn nhau quá
phải trở về. Con Hà nó nóng ruột lắm.”
Má tôi đưa đôi mắt đầy trách móc nh́n
em gái tôi. Nó cúi đầu và hơi mỉm cười.
Ông Minh tố thêm:
“Biểu nó ở nhà đố nghe đi. Ôn đi là
con đi với, con đi với ôn. Mấy ngày trước,
hai ôn con lên núi Ngự B́nh coi đánh nhau, định t́m
đường về dưới ni nữa. Gặp lúc
họ đánh nhau, đại bác câu lên núi yểm
trợ ầm ầm, hai ôn con lăn từ giữa lưng
chừng núi lăn xuống, rồi nằm vùi nơi
một hố bom. Khiếp thiệt. Rứa mà con Hà
hắn thích lắm. Con ni gan nó là gan cách mạng mà.”
Má tôi chăm chú nghe ông Minh kể, khuôn mặt lúc tái
lúc vui. Bà thở ra khi nh́n Hà đang nh́n bà mà cười:
“Mi thiệt á!”
“Ừ, hai ôn con lên Lầu Đua Ra, lấy được
đôi giày c̣n mới nguyên.”
“Dễ sợ quá ôn hí. Cả Lầu Đua Ra toàn máu
khôn à.”
“Khỉ, rứa mà cứ đi. Con ni thiệt...”
Có lẽ sợ má tôi lo lắng, Hà nói lơ sang
chuyện khác:
“Ôn ń, chị con đây ôn ń.”
Tôi lại phải gật đầu chào ông Minh.
Vừa gặp ông, tôi đă có cảm t́nh ngay. Nhớ
những lời lẽ do người thanh niên tránh
nạn về kể lại bữa trước, tôi không
thấy xa lạ với ông chút nào hết.
“Hà nó noái chuyện về chị luôn đó.”
Tôi cười:
“Ôn ơi, ôn đừng gọi con bằng chị
nữa. Coi con như Hà rứa.”
Ông Minh gật đầu:
“Phải đa. Rứa cho nó dễ gọi. Tội
nghiệp, con ra đây mắc kẹt phải không?”
“Dạ.”
“Mấy con rồi?”
“Dạ hai.”
“Tội nghiệp.”
Hà chen vào:
“Ông Minh nghệ sĩ lắm nghe chị. Ở trên
Từ Đàm đánh nhau, bắn nhau rầm rầm mà
ôn cứ họp thanh niên trốn trong nhà thờ cụ
Phan lại đàn hát cả ngày.”
Tôi hỏi:
“Quân giải phóng để yên cho ôn làm ồn
vậy răng?”
“Mấy ngày đầu cơ chớ. Về sau th́ lo mà
trốn cho kỹ. Ôn noái mấy anh thanh niên xuống
cầu Bến Ngự đ̣i tuyệt thực phản
đối chiến tranh.”
Tôi tức cười:
“Ôn nói chơi.”
Hà nháy mắt ra dấu bảo tôi đừng nói
nữa. Rồi nó quay sang ông Minh:
“Ông cho chị con coi cái giấy do Mặt trận
giải phóng cấp cho ông đi đường.”
Ông cười hiền ḥa:
“Hà, mi noái tầm bậy. Giấy đó ăn thua chi.
Tao đi bên mô cũng được v́ tao có làm nô
lệ cho ai mô. Tao chống hết, chiến tranh là tao
chống.”
Hà mách tiếp:
“Ôn c̣n viết thư phản đối Hồ Chí
Minh, cả tổng thống Mỹ và kêu gọi thế
giới nữa.”
“Tao mần một ḿnh mà ăn nhằm chi. Rứa nhưng
cũng cứ mần, phải không con?”
Ông đưa mắt sang tôi và mỉm cười. Tôi
gật đầu. Ông nói tiếp:
“Con có dám ra cầu ngồi phản đối
chiến tranh với ôn không?”
“Ôn nói dỡn hoài.”
Má tôi lại chen vào:
“Ôn làm răng đưa Lễ với vợ con nó
về dưới ni giùm đi ôn!”
“Th́ ôn con tui đang ḍ đường đi đây ń.
Khó thoát lắm. Bữa ni phải đi ṿng Lầu
Đua Ra, rồi ṿng xuống ngă đường
rầy không được. Hai ôn con lại ṿng ngă Tây
Thiên. Trên rứa, đại bác như mưa rứa,
đi miết lên Tây Thiên mới ngớt tiếng
nổ.”
Thấy nước mắt má tôi chảy dài, ông an
ủi:
“Có người ta có ḿnh. C̣n tui th́ không lo chi hết
nghe.”
Hà thêm:
“Chị đi ra ngoài xe đạp ôn a tề. Đó, có
cái bị đựng gạo. Bao nhiêu gạo tốt, ôn
đem phát hết rồi, đó toàn là tấm khôn
đó thôi. Thôi th́ cả ngày ôn đi phát gạo,
đi tải thương. Ôn chỉ có cái xe đạp
đó.”
Chiếc xe đạp của ông được dựng
bên cái cột bằng giàn hoa, trên ghi đông treo
lủng lẳng một cái bị bằng vải căng
tṛn. Tôi nh́n lại ông, ông bỏ cái mũ ra rồi
lại vội vàng đội lên đầu:
“Thôi, chắc tui phải đi. Phải lên lại
Từ Đàm.”
Má tôi nài nỉ:
“Ôn ở lại ăn cơm đă rồi lên. Chừ
nghe mô đang đánh nhau mà ôn.”
“Đánh nhau kệ cha chúng. Tui lên. Coi chiều ni c̣n
đi tải thương nữa. Đi tải thương
ń, đi kiếm thức ăn ń, trên nớ tụi nó
hết đồ ăn rồi.”
Hà nói:
“Khi mô ôn xuống?”
“Mơi.”
“Mơi ôn xuống, con lên lại với ôn hỉ.”
Má tôi nạt:
“Mi tưởng chuyện giỡn há, răng mà đ̣i
đi.”
Ông Minh bênh Hà:
“Can chi, sống chết có số cả mà bác. Con ni
dạn lắm nghe. Tui mà c̣n làm cách mạng, tui cho nó
theo liền.”
Má tôi nể ôn Minh, làm thinh. Hà dặn đi dặn
lại: mai ôn nhớ về. Tôi và Hà đưa ông ra
tận ngoài ngơ:
“Thôi bây vô đi. Đứng ở ngoài nguy hiểm
lắm.”
“Ôn ơi, lên tới, nói cho anh con biết kẻo anh
con lo nghe ôn. Noái má con với cả nhà ở dưới
ni yên lành hết.”
“Ừ.”
“Ôn nhớ mai xuống nhe ôn!”
“Ừ.”
Ông leo lên xe đạp và đạp đi, chiếc áo
đen khuất dần nơi nghẹo. Hà ngẩn ngơ.
Tôi nói:
“Thôi vô.”
“Dưới ni yên quá chị hỉ!”
“Ừ yên.”
Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe về những trái
đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng
dấu luôn chuyện đụng độ mỗi ngày
xảy ra trên quốc lộ. Chỉ cần sau ruộng,
sau xóm có một vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là
cả con đường này có thể tan tành hết.
Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên
được tới An Cựu coi t́nh h́nh để
rồi sau đó về nằm yên một nơi cho
Việt cộng hoành hành. Khi đi ngang qua khỏi
nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu
Đại Càng bắn ra. Đoàn quân Mỹ dừng
lại, một vài người Mỹ đi vào nhà
gần nhất lôi ra một thanh niên. Anh này biết nói
tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư
phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa
giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ.
Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng
nổ, người thanh niên tội nghiệp ngă
xuống đất, co dúm người lại. Người
Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong căn nhà gần
đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác
thanh niên khóc lóc. Một vài anh giải phóng đang
đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra:
“Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”
“Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết
anh dũng, một người v́ dân v́ nước.”
Một lá cờ màu mạ nhỏ được đắp
lên mặt người chết. Một lúc sau mọi người
rút đi hết. Chỉ c̣n thân nhân của xác chết
vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng
khóc của họ cũng ch́m dần trong tiếng súng
nổ ran bốn phía. C̣n nhiều nữa, làm sao tôi có
thể kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước
đây, quân Mỹ mất một khẩu súng đă
giật đổ một căn nhà lầu. Mới
mấy ngày trước đây, dăy nhà bên kia đường
có một gia đ́nh mới về. Đêm hôm đó quân
giải phóng về bắt người chủ gia đ́nh
đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe ǵ
đó cho một chi nhánh cảnh sát. Ông ta đă già và
chắc tới nay đă ra người thiên cổ. Hà
vẫn đi bên tôi trở vào nhà. Nó hỏi:
“Nhà ḿnh đào hầm chưa?”
“Không đào hầm th́ chết rồi. Ngày nào cũng
có đạn lạc, có đại bác rơi gần.
Ở đây mới yên có mấy ngày nay.”
“Trên nớ dễ sợ lắm. Chị biết không,
đại bác rơi như không ngừng, rồi máy
bay. Bữa trước có mấy người chết,
người ta sợ quá đem ra vườn chôn. Máy
bay bắn xuống như mưa, sợ quá.”
Má tôi đă đón ở cửa. Khi chúng tôi vừa
lọt vào cửa là bà đóng chặt cửa lại.
Thái cũng ở trong hầm ḅ ra:
“Chào chị Hà.”
“Ủa, khi hồi tới chừ mi ở mô?”
“Trốn ở trong hầm.”
“Răng mi không ra?”
“Ra sợ lắm. Biết chị ra răng mà ra. Lỡ
chị là người của giải phóng th́ răng.”
“Đồ con khỉ. Tao về mà mi không mừng.”
“Em nói chơi đó chớ. Nghe tiếng chị là em
mừng bất chết. Nghe có tiếng đàn ông, em tưởng
nhiều người em sợ. Mấy hôm ni, túi họ
về bắt người dữ lắm nghe chị.
Cứ có tiếng cú rúc là họ về.”
“Ủa, răng giống trên nớ rứa? Trên nớ
đêm mô cũng nghe toàn tiếng cú rúc. Dễ sợ
lắm.”
“Mật hiệu của họ đó.”
Má tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
“Mà răng họ để cho con đi?”
“Mấy bữa đầu họ cấm, về sau
đại bác bắn lên quá, họ để ai đi
th́ đi. Đàn ông thanh niên đi, họ mới
bắt.”
Tối hôm đó, mấy chị em nằm cạnh nhau, Hà
kể chuyện Từ Đàm, cho biết tất cả
chùa đều bị sập. Quân giải phóng treo
cờ làm trụ sở chính ở chùa Linh Quang, và
tổ chức những buổi học tập tại
đó. Mấy ngày đầu không ai được ra
khỏi nhà. Ở trong nhà làm hầm, ở ngoài quân
giải phóng đào hố cá nhân, không khí có vẻ
khẩn cấp lắm. Nhưng mấy ngày đầu hoàn
toàn được yên tĩnh, không ai lo sợ mấy,
đến khi đại bác câu tới, dân chúng mới
hoảng hốt đi tản cư. Nhưng ra đường
là chết. Tôi hỏi họ có treo cờ đỏ sao
vàng không. Hà nói chỉ có cờ máu mạ. Ngay ngày
đầu, họ đă hô hào hạ hết “cờ ba
que” xuống và kiếm vải may cờ máu mạ. Thái
hỏi thăm về đoàn cán bộ xây dựng nông
thôn đóng ở trường học mấy hôm trước
Tết. Hà ngao ngán: Tụi đó nó chạy đâu
mất hết từ khi có tiếng súng nổ, vất
đồ lại lung tung. Khi em lên tới th́ không có chi
nữa. Hà tả cho tôi nghe những cô nữ cán
bộ. Các cô này đi thăm dân, vào từng nhà
hỏi han, nhưng các cô vào nhà ai là làm cho trẻ con,
bà già sợ rụt lưỡi lại. Hà kể cho tôi
nghe chuyện bà xếp Mập. Nó nói:
“Buồn cười lắm chị. Mấy người
giải phóng bầu cho bà xếp làm mẹ giải phóng.
Chút chi họ cũng gọi mẹ giải phóng. Bà
sợ họ lắm. Cứ mỗi lần gặp họ
vô nhà là bà tíu tít: Mẹ giải phóng, mẹ giải
phóng. Các con xức chút dầu với mẹ. Bao nhiêu
chai dầu Nhị thiên đường bán nơi quán
của bà, bà cho hết. Cứ thấy mặt họ là
bà ngă lên xuống sứt mặt sứt mày hết.”
Tôi hỏi Hà có sợ không, nó nói sợ th́ có sợ,
nhưng mấy ngày đầu, nhờ có ông Minh nên vui
lắm. Ông họp thanh niên lại hát hỏng đờn
ca ở nhà thờ cụ Phan. Ông đ̣i viết thư
phản đối chiến tranh. Mấy ngày đầu
không có tiếng súng, ông ngồi đánh máy chữ lóc
cóc rồi tổ chức hát. Ông nói rằng hát như
thế mới bớt th́ giờ trống để lo
sợ. Hà cho biết là khi qua bên nhà thờ cụ Phan
th́ gặp bà vợ ông giáo sư Lê Văn Hảo, người
được quân giải phóng đưa ra làm thị
trưởng Huế. Tôi ṭ ṃ hỏi thăm. Hà cho
biết là bà ta nói là trước Tết, ông Hảo
bảo bà mua ít gạo thức ăn dự trữ,
chứ không cho bà biết ǵ hết. Trái với lời
của người thanh niên thuật lại, Hà nói bà
Hảo rất dễ thương, bà c̣n có đứa
con tên Nai. Ông Minh hết ḷng giúp đỡ bà ta. Bà
Hảo cũng như những người đàn bà
sợ súng đạn và nhát gan. Bà chẳng rơ ǵ công
việc của chồng hết.
Má tôi nói làm thế nào cũng phải đưa anh
Lễ và gia đ́nh về dưới này. H́nh như
Mỹ đă tiến tới cầu Nam Giao. Hai bên đang
hầm hè nhau và cùng giữ thế thủ. Nếu để
họ đánh nhau th́ bao nhiêu dân c̣n lại sẽ
chết hết.
Hà nói:
“Mai ôn Minh về, con lên Từ Đàm.”
Má tôi làm thinh. Hà nói:
“Chị lên với em không?”
Tôi không hứa với Hà, tôi đang ở trong t́nh
trạng vô cùng nguy hiểm. Nếu họ biết tôi,
họ t́m ra tôi, chắc chắn tôi cũng sẽ
bị bắt đi như bao nhiêu người công
chức khác. Thái hỏi:
“Đi ngả mô?”
“Đi ngả núi Ngự B́nh. Trên đó trống không,
họ rút cả rồi. Bữa trước em với ôn
Minh đi lên thấu núi Ngự B́nh đứng coi hai bên
bắn nhau. Đại bác câu tới, sợ quá lăn
xuống núi, c̣n đầy dấu nơi tay em đây ń
chị. Em đi với ôn tới Lầu Đua Ra
nữa. Toàn máu là máu, có xác chết thúi ŕnh...”
“Chị đi rứa có thấy xác Mỹ không?”
“Phía sau Lầu Đua Ra, tao có thấy một hai xác
chi đó. Nó trương lên rồi, coi dễ sợ
lắm.”
Hà đưa tay sờ vào tường hầm, nói:
“Hầm như ri dễ sợ lắm. Làm lại
hầm đi. Ở đây yên rồi nhưng sợ
đại bác câu lạc trúng th́ chết hết.”
Má tôi nhớ lại mấy trái đại bác hồi
tảng sáng làm sập nhà, chết người, bà
thở dài:
“Lấy chi ra mà làm hầm.”
Hà nói:
“Mai con lên trên nớ, con mua bao cát về cho. Trên
nớ bán thiếu chi.”
Thái cũng chen vô:
“Trên bác con c̣n một ít, để mai con lên trên, con
hỏi anh Bé.”
Chúng tôi lại bàn việc đào hầm. Hà nói không nên
làm hầm trong nhà, nguy hiểm lắm. Nhỡ nhà
sập, hầm không sập cũng không thể có
lối ra, dám bị chết nghẹt lắm. Cuối cùng,
chúng tôi bàn mai sẽ đào hầm ở ngoài sân. Má tôi
nói: Thôi chị em bây ngủ đi. Hà ôm lấy tôi, tôi
cũng ṿng tay ôm lấy nó. Thật là may mắn, trong
khi bao nhiêu người chết, bao nhiêu gia đ́nh tan nát,
chị em tôi c̣n được nằm cạnh bên nhau.
Mải nói chuyện, chúng tôi quên cả tiếng súng
vẫn ỳ ầm khi gần khi xa. Một lúc sau, Thái nói:
“Bắn dữ quá chị.”
Hà góp:
“Dữ chi mà dữ. Trên đó cứ nổ ́nh ́nh
bốn phía, lúc nào cũng như sắp nổ trên
đầu ḿnh.”
“Rứa Việt cộng có chết không?”
“Có chớ răng không. Ḿnh ở trong nhà, trong hầm
tốt mà c̣n chưa chắc yên, huống chi họ
ở trong cái hố nhỏ xíu. Trước nhà ḿnh c̣n
có một tên giải phóng gác.”
“Có nói chuyện với em không?”
Hà làm thinh. Má tôi gắt nhỏ:
“Ngủ đi chớ bay, nói chuyện hoài răng.
Ngủ đi, sáng mai lấy sức mà đào hầm
mới.”
Tôi nghĩ tới anh tôi, lúc này đang cùng vợ con
ở trong căn hầm tối tăm, và biết đâu
đêm nay, quân Mỹ Việt sẽ tấn công lên
Từ Đàm. Chỉ một giờ, một phút qua,
mọi sự có thể thay đổi hết. Biết
đâu ngày mai em tôi không c̣n trở lên trên đó
được nữa. Cũng như tôi, biết đâu
bây giờ đang ở vùng đă yên, mà sẽ không c̣n
được trở vào Sài G̣n để gặp
chồng con nữa.
Nhưng rồi tôi cũng chẳng c̣n đủ sức
để nghĩ tiếp. Tôi nhắm mắt và ngủ
êm trong tiếng đại bác đang nổ tới
tấp, cày nát một thành phố thơ mộng, đẹp
đẽ.
Mời
xem tiếp phần 13
|