Chương
9
Con chó giữa ḍng
Chỉ một đêm ngủ dậy, sáng ra, đường
sá bỗng náo nhiệt hẳn. Lính từ dưới Phú
Bài theo quốc lộ 1 lên nhiều lắm. Họ đi
bộ và vẫn cứ đi dọc từng người,
đeo ba lô. Họ vừa đi vừa nh́n xung quanh, hai
bên đường, và mỉm cười chào những
người đang đứng nh́n theo họ. Không
biết dự trữ từ bao giờ mà một bà già
đă bày một rổ giá đựng thuốc lá ra bán
ở góc nghẹo Đường Nay. Vài anh lính dừng
lại:
"Mẹ bán cho con một gói Ru by đi mẹ."
"Các anh muốn gói mô cứ lấy. Tui có biết Ru
by là thuốc chi mô."
Một giọng hỏi:
"Vậy thuốc đâu mà mẹ bán vậy
mẹ?"
"Há? Thuốc mô há? Th́ tui tản cư về đây,
tui thấy người ta bỏ lại có cái giá bán
thuốc ni dưới gầm giường. Thấy
mấy anh đi qua, tui bày ra bán kiếm ăn."
"Mẹ lấy bao nhiêu?"
"Biết chi mô. Mấy cũng được."
Người lính móc ví lấy ra tờ giấy hai trăm
đưa hết cho bà già. Bà ta ngẩn ngơ:
"Nhiều ri! Mấy chục mà."
"Mẹ cầm hết mà tiêu."
"Khôn, khôn. Mấy anh đi đánh giặc, cầm
lấy mà mua thức ăn. Tui biếu không đó..."
Vài người dừng lại, họ vất ra một
trăm, hai trăm lấy thuốc. Chỉ một lát,
thuốc lá hết sạch. Bà già cầm một nắm
tiền toàn giấy trăm chạy theo mấy anh lính:
"Mấy anh ui, tui không lấy tiền. Cho chi mà
diều ri ń..."
Mấy cái đầu quay lại, cười:
"Mẹ giữ mà mua thức ăn. Tụi con
biết sống chết ra sao."
"Đi tới đầu đạn mà mẹ."
"Chúc mẹ may mắn..."
Đoàn đi trước đă bỏ bà già quá xa, đoàn
lính sau tiếp tục đi đến, thấy một
bà già vừa chạy vừa kêu, không hiểu chuyện
ǵ. Họ lại móc trong ba lô ra những đồ
hộp nhỏ, liệng tới chân bà già:
"Bà đói hả? Đây, cầm lấy mà ăn."
"Bà c̣n con cái chi không?"
Nhiều tiếng thăm hỏi. Nhiều hộp nhỏ
rơi tới chân bà. Bà chưa kịp nhặt th́ có
mấy đứa trẻ con ở đâu chạy ra
nhặt hết. Mấy anh lính nạt đùa:
"Ê nhường cho người già cả với
tụi bây."
Bọn trẻ ù té chạy. Mấy cái hộp được
trao tận tay bà già. Vài anh ân cần:
"Thôi bà trở về nhà đi, đừng chạy
theo mà nguy hiểm lắm."
Đoàn lính lại tiếp tục đi. Thái và tôi đứng
ngóng xem có đoàn người nào tản cư về
không. Nhưng chắc thấy lính Mỹ lên nhiều quá,
họ không dám đi nữa. Má tôi rối rít giục làm
hầm, bà quên là chúng tôi chưa có một bao cát nào.
Đoàn lính đi tới gần trưa mới hết. Chúng
tôi yên tâm dọn ra bàn ăn. Lâu lắm mới có
một bữa ăn đàng hoàng như thế. Dưới
mợ Giáo vẫn tiếp tế thức ăn lên đều
đều. Hôm nay chúng tôi có món thịt kho với
đu đủ sống. D́ Vạn hà tiện thức
ăn, kho thiệt mặn, nhưng chúng tôi ăn vẫn
thấy ngon như thường. Má tôi hỏi thăm
ở trên Từ Đàm ăn uống ra sao th́ Hà nói
nhờ có ông Minh nên ăn uống sướng lắm.
Ôn đi về là có thịt có rau. Nhưng mấy hôm
nay đánh nhau quá, ông bận đi tải thương,
nhà lại hết thức ăn, mấy đứa
nhỏ đă bắt đầu khóc.
Ăn cơm xong, Thái đi bộ xuống tận Mù U,
nghe nói dưới này có họp chợ. Nhưng chỉ
mới tới Trường Bia th́ đă bị lính
đuổi lên.
Ông Minh giữ đúng lời hứa, ông về lại
thật. Ăn cơm xong, chúng tôi sửa soạn
nghỉ trưa th́ ông dắt xe đạp vào sân.
Cả nhà ùa ra đón ông vào nhà:
"Sao ôn, tụi trên nớ răng?"
"Yên hết, không răng hết. Thầy Lễ nghe t́m
được ra bác với cả nhà, thầy mừng
lắm."
Hà lăng xăng:
"Con lên với ôn. Đường ra răng ôn?"
"Th́ vẫn đi ngả núi. Bắn nhau quá
chừng. Tao phải cột hai vạt áo lên vác xe mà
chạy."
Hà có vẻ hứng khởi:
"Con đi với. Con sửa soạn đi với ôn
nghe má."
Má tôi lo lắng:
"Liệu đi được không con?"
"Được, được mà."
"Rứa răng Lễ nó chưa về?"
"Đi được là người tay không chân
rời, chớ nó vợ con đùm đề, lại con
Hy bị thương mần răng mà đi."
Rồi ông nói tiếp:
"Hà sửa soạn đi. Vân rót cho ôn chút nước."
D́ Vạn hỏi:
"Ôn có đem gạo theo phát không?"
"Có chớ. Có cái túi đó."
Hà đă sửa soạn xong, nó dắt xe đạp ra
rồi cùng với ôn Minh đi lên Từ Đàm. Má tôi
lấy một ít thức ăn bắt Hà đem lên trên
đó. Hà nói tối về thế nào cũng có bao cát.
Vậy là Thái với tôi kiếm chỗ đào hầm.
Chúng tôi định đào ngay trước sân. Thái
bắt đầu công việc. Chúng tôi phá cái hầm cũ
làm thành cái hầm mới khác.
Buổi chiều hôm đó, Hà về một ḿnh, không có
ông Minh, nó cũng không đem theo xe đạp. Đi theo nó
có hai người sinh viên, mặt mày xanh xao, tóc tai
rối bù như người sống từ một nơi
thiếu ánh sáng mặt trời đă lâu. Hà nói:
"Đây là mấy anh sinh viên, anh Chữ với anh Hát."
Má tôi hỏi:
"Làm răng mấy anh đi được mà Lễ
chưa chịu đi."
Hà kể:
"Trốn đi đó chơ má. Họ canh dữ
lắm. Anh Lễ đi th́ họ biết liền. Con
phải giả vờ đi vô đi ra cả chục
lần, rồi mới đem mấy anh đi được."
Thái hỏi:
"Rứa họ không thấy hay răng?"
"Có, có cái tên gác trước cửa trông thấy.
Tao sợ bất chết, sợ nó bắn. Nhưng
thấy nó không nói chi cả. Nó nh́n theo."
Thái đùa:
"Chị có nháy mắt với hắn không?"
"Khỉ, sợ bất chết c̣n chọc. Mà tên
đó c̣n trẻ, hắn tử tế lắm."
"Hắn có khi mô nói chuyện với chị không?"
"Không, ít lắm."
"Nó nh́n chị không?"
"Khỉ."
"Rứa là nó mê chị rồi."
Hai sinh viên gượng cười. Má tôi mời:
"Mời vô trong nhà, đừng đứng ngoài ni mà
họ ḍm ngó."
Hà đi dẫn đầu:
"Vô đi, vô nhà nghỉ đi."
Hai người sinh viên khệ nệ ôm mỗi người
một bao cát to tướng. Gần năm trăm cái
bao. Làm hầm đủ rồi. Hà nói. Má tôi hỏi
sao ông Minh không đưa xuống. Hà nói ông bận
đi tải thương. Mỹ tới cầu Bến
Ngự rồi, nhờ Mỹ tới cầu nên quân
giải phóng rút bớt lên ngả núi mà nhiều người
mới chạy thoát được. Hà cho biết trên
Từ Đàm, đại bác câu như mưa, càng ngày càng
dữ dội.
Ngay chiều hôm đó, cả nhà hiệp lực đào
hầm lại. Măi tới ngày hôm sau hầm mới
dựng xong. Cái hầm cũ ở trong nhà vẫn c̣n
giữ lại v́ nhà quá đông. Chúng tôi đă mua
được ít thức ăn, và mỗi lần ông
Minh xuống chúng tôi lại gửi lên được
một ít tiếp tế cho trên gia đ́nh anh chị.
Cách ngày sau, một gia đ́nh ở Từ Đàm bạo
gan đi ngả Tây Thiên, trốn về được
An Cựu. Nhà này gánh gồng theo được
nhiều thứ lắm, v́ hai vợ chồng ông ta là
chủ một quán tạp hóa. Ngang nhà tôi, họ tràn vào
và xin ở tạm. Má tôi bằng ḷng ngay. Họ
chiếm ngay căn nhà bếp, lật đật giở
hết cửa ra làm hầm. Ông chủ nhà này c̣n đem
theo được cả xe gắn máy, cả dầu hôi,
ông có đứa con gái bằng tuổi Hà. Vậy là
hai cô nhỏ bàn nhau t́m cách trở lên Từ Đàm, liên
lạc với những người c̣n kẹt lại
để trốn về An Cựu.
Ba bốn lần đi về không, mới có một
lần đi lọt được. Anh Lễ tôi
nhắn về là thế nào cũng thoát xuống An
Cựu, nhưng đợi cho quân giải phóng rút
bớt đă, sợ họ để ư.
Má tôi sốt ruột nhất, suốt ngày ngồi đứng
không yên. Bà đi ra đi vào hỏi thăm những người
từ phía Bến Ngự, Từ Đàm tản cư
về. Ông Minh bị cắt đứt liên lạc trong
mấy hôm. Đường núi đại bác câu nhiều
quá, Hà và cô gái nhỏ tên Nga không dám mạo hiểm
nữa. Nhưng vài ngày sau, ông Minh trở lại, ông
vất chiếc xe đạp gẫy ghi đông ra
giữa sân, rồi vừa thở vừa đi vào nhà.
Má tôi hỏi ngay:
"Răng, trên đó ra răng rứa ôn?"
"Nguy lắm. Họ dàn quân, sắp đánh nhau
rồi. Đại bác bắn như mưa, chừng vài
bữa nữa là nát hết."
"Trời ơi, rứa vợ con thằng Lễ ra răng
hả trời."
Ông Minh thở dài:
"Tui cũng đương lo. Dù răng cũng
phải cứu gia đ́nh nó."
"Rứa ôn đi ngả mô về?"
"Đi dọc mé sông, đạn bắn như mưa.
Người chạy loạn bị thương đầy.
Tui vừa chở một người bị thương
tới bệnh viện Huế rồi vô đây. Bên ni yên
rồi, đi lại được rồi. Nơi bưu
điện, nơi ngân khố c̣n ch́nh ́nh mấy xác
Việt cộng chân bị cột nơi đại liên,
thấy ớn quá."
Hai anh sinh viên chạy ra, ông Minh nói:
"Ủa, tụi bây chưa ra nhà thương. Ra nhà
thương mà giúp đỡ dân chơ. Ngoài nớ yên
rồi có chi mô."
Ông quay lại Hà:
"Con đi t́m coi có ở chỗ mô sửa được,
sửa cái ghi đông xe cho ôn con."
Hà vác xe đi rồi vác xe về:
"Đă có ai mà sửa. Ôn lấy xe con mà đi."
"Ừ, thôi, bác cho tui miếng trầu. Tui phải
đi chừ đây."
Má tôi lại gửi ít đồ ăn lên Từ Đàm.
Mấy ngày nay ở Trường Bia đă có chợ, người
ta hạ cả heo để bán thịt, có rau dưới
chợ Mai gánh lên bán. Tôi cầm tay Hà đưa ông
Minh ra tận ngoài đường. Hà có vẻ dùng
dằng, cứ dặn ông hoài:
"Ôn, nhớ rảnh là xuống đây nghe ôn. Ôn
đừng ở trên nớ nữa."
Ôn Minh quay lại mắng Hà:
"Con nhỏ ni hư thiệt. Đừng có buồn, ôn
c̣n lo cho nhiều người trên đó nữa chơ.
Để ôn đưa anh chị với mấy cháu về
cho. Yên trí, yên trí."
Ông nói xong, trèo lên xe đạp, đạp thẳng ra
phía cầu An Cựu. Thái chạy ra, ba chị em lại
đi bộ ra ngả cầu. Mỹ đă gác ở
đây, nơi đồn vận tải cũng có lính gác.
Khu vực chúng tôi hoàn toàn yên rồi, chỉ lo cho anh
chị tôi đang ở khu nguy hiểm nhất. Các thanh
niên chạy loạn trở về đă đạp xe
đạp đi ra ngoài trường Kiểu Mẫu coi
đánh nhau bên phố. Chiến trận phía bên kia có
vẻ ác liệt lắm. Chắc phía trên Từ Đàm cũng
thế. Chúng tôi đang đi bộ th́ gặp một
đoàn người từ phía cầu đi lại, người
đi xe có, đi bộ có. Có tiếng xe gắn máy
dừng lại sát chị em tôi. Tôi ngẩng lên nh́n và
kêu mừng rỡ:
"Anh Trai."
Ông anh họ của tôi đang ngồi trên xe gắn máy,
mừng rỡ hỏi thăm tíu tít:
"Lễ về được chưa? Nhà yên hết
há?"
Tôi buồn bă:
"Nhà yên nhưng anh chị Lễ c̣n kẹt trên
Từ Đàm."
Anh cười. Tính anh vẫn vui nhộn như thế
đối với chúng tôi:
"Anh về nhà rồi. Tới chơi nghe. Đừng có
lo cho Lễ, không răng mô. Có tin chi cho anh biết hí."
Anh định dợm đi, rồi lại thắng xe
lại:
"Ê, tụi bây, tao có cái ni."
Anh đưa tay vô túi áo măng tô. Có vật ǵ
phồng lớn ở trong đó. Hà đưa tay móc túi
lôi ra một quả hột vịt lộn c̣n nóng. Anh lôi
tiếp mấy quả nữa:
"Mỗi đứa một cái hột vịt
lộn."
Trước khi đi, anh dặn:
"Đừng có ra ngoài cầu. Mỹ nó gác nó bắn tùm
lum đó. Người ta chạy loạn khóc như ri
ở ngoài."
"Ở mô chạy xuống?"
"Anh cũng chạy bất chết, không có
hỏi."
Có mấy tiếng súng nổ lẻ tẻ, Thái kéo tôi
đi về.
Ngay hôm đó, Bé xuống nhà, giúp chúng tôi đắp
đất thêm lên hầm và nói là sẽ đi tŕnh
diện. Nó nói trong ngày mai sẽ đưa gia đ́nh
về dưới Phù Lương vào trại tỵ
nạn, v́ nhà đă hết gạo ăn. Thái cũng nóng
ruột đ̣i đi tŕnh diện. Một vài người
lính địa phương đạp xe đạp qua
cho biết tin tức là quân đội đă đóng
ở hữu ngạn, dẹp xong xuôi Việt cộng
rồi, dân chúng hăy trở về và ai là quân nhân, công
chức phải đi tŕnh diện ngay. Có thể lên Ṭa
tỉnh hoặc ở trường Kiểu Mẫu cũng
có văn pḥng. Vậy là Thái thay quần áo đi ngay,
mặc dù má tôi và tôi ngăn trở hết sức cũng
không được.
Hai tiếng đồng hồ sau Thái trở về, nói
là dường như phía hữu ngạn đi
được rồi, quân Mỹ và Việt đă
đóng hết. Bên phố bắn nhau như mưa,
lửa bốc mù trời. Ở Từ Đàm vẫn chưa
dẹp xong, quân Việt Mỹ vẫn chưa dám xông qua
cầu Bến Ngự, hay cầu Nam Giao. Dân chúng
chạy loạn ở bên kia cầu kêu khóc như ri. Thái
c̣n kể là ở trên ṭa tỉnh, trên Nha đại
biểu, c̣n đầy xác Việt cộng chưa ai chôn.
Hai anh sinh viên từ giă gia đ́nh chúng tôi để
đi ra nhà thương Huế săn sóc những
kẻ bị nạn. Thấy hợp lư, chúng tôi cũng
không giữ. Tôi hỏi Thái đă tŕnh diện chưa,
Thái nói rồi, ngày mai đi lĩnh vũ khí và công tác.
Thái cho biết cấp chỉ huy của hắn đă
bị giết, một người đàn bà khác, có
chức vụ nhỏ trong đoàn cán bộ xây dựng
nông thôn bị chặt đầu, cắt hết tay chân.
Ṭa tỉnh vắng ngắt và h́nh như ông tỉnh trưởng
cũng đă bị giết. Nhiều tin đồn lung
tung ghê gớm lắm.
Cũng ngay chiều hôm đó, Thái đi một hồi,
khi trở về, nhờ tài ăn nói hoạt bát,
hắn đem về cho nhà nửa bao gạo. Má tôi nh́n
bao gạo mừng đến chảy nước
mắt. Tôi th́ từ hôm liên lạc được
với sở một lần rồi bị kẹt
đường mất liên lạc luôn. Tôi mượn
cái xe gắn máy của gia đ́nh người ở
tạm căn nhà bếp, rủ Thái xuống Thanh Lam
một lần nữa. Lần này may mắn hơn, tôi
liên lạc được với Sài G̣n và yên trí
một trăm phần trăm là gia đ́nh tôi vẫn yên
ổn. Tôi chỉ chờ có máy bay là thoát được.
Một ngày nữa trôi qua, Từ Đàm vẫn kẹt
trong khói lửa, bom đạn, và chúng tôi hoàn toàn không
biết tin tức ǵ của anh tôi hết. Rồi
những người ở Bảo Quốc chạy
về, những người ở Bến Ngự
chạy được về. Ông Minh cũng biệt tăm
dạng. Ai lo việc người đó, tôi cố ḍ
hỏi hết sức, nhưng không có kết quả.
Hai ngày sau, một cậu em đi ngang qua, ghé thăm, cho
hay tin cậu Đội Ḥa đă chết. Cậu Đội
Ḥa là người điều khiển ban nhạc đại
nội. Cậu đă già nhưng vẫn c̣n khỏe
lắm, nhà cậu ở sát dưới chân bực
cấp chùa Bảo Quốc. Một túp lều tranh
đơn sơ, trước sân bày đầy chậu
hoa, chậu kiểng. Trong nhà cậu, đủ các
thứ đàn, từ những cây đàn thật
cổ, tới những cây đàn mới nhất. Tôi thường
ao ước được cậu cho một chiếc
đàn tranh như thủa nhỏ cậu vẫn nói:
"Con học được, cậu cho cái đàn
hồi trước của ngài ngự đàn, ngài đàn
hay đến nỗi ma nó đứng ngoài nó
nhịp."
Nhưng tôi lại không biết ǵ về quốc
nhạc, và cũng không dám xin cậu chiếc đàn quư
giá đó.
Bây giờ cậu Đội Ḥa đă chết. Cậu
chết ở đâu? Trong lúc chạy loạn hay ở
nhà? C̣n số phận những cây đàn, túp lều
tranh nữa. Tôi run giọng hỏi cậu em. Khánh
kể là cậu Đội Ḥa chạy loạn tới trước
nhà Khánh ở gần bưu điện. Ở đó
đang yên, bỗng một trái đại bác bắn sai
rơi xuống. Cậu chỉ trúng có một miểng
đạn nhỏ nơi thái dương, và cứ
thế, cậu nằm xoải người, tâm trí
rất tỉnh táo, đợi máu chảy hết, khô người
là chết. Tôi ứa nước mắt. Tôi đă khóc
quá nhiều. Trước biến cố Mậu Thân, tôi
đă khóc cho cái chết của ba tôi. Trong lúc thành
phố tan nát, tôi đă khóc cùng với bao nhiêu người,
bây giờ tôi khóc cho ông cậu nghệ sỹ hiền
lành, thường cố làm vẻ nghiêm trang, cổ xưa
trước mặt con cháu. Và những cây đàn
nữa, bao nhiêu vốn liếng của cậu tôi, cũng
là những vốn liếng cuối cùng của quốc
nhạc, thôi thế đă theo cậu chôn vùi trong khói
lửa.
Má tôi cũng ngồi lặng người đi một
giây. Chắc má tôi nhớ lại thời nào cùng ở
với cậu trong hoàng thành rực rỡ. Những
tiếng đàn, tiếng phách. Những buổi sáng
nhạc nhă vang lừng. Những áo mũ, những thanh
âm ngày vua ngự triều. Má tôi cũng từng học
đàn với cậu thủa nhỏ và được
cậu che chở cho trong những lúc ông ngoại
giận dữ v́ má tôi không có khiếu về âm
nhạc, học dở hơn cậu.
"Mà có chắc là ông Đội Ḥa thật không, hay con
nghe ai nói lại?"
"Không, chính mắt con thấy mà. Ông chết trong nhà
con."
Tôi nắm chặt bàn tay má tôi. Bàn tay má tôi run run. Măi
lúc sau, má tôi mới nghẹn ngào:
"Rứa c̣n bà th́ răng?"
"Dạ không can chi, bác gái c̣n sống."
Má tôi quay sang tôi:
"Mần răng mà đi đón mợ con về đây."
Nhưng Khánh lắc đầu. Ở ngoài đó hay
ở đây cũng có thể yên ổn mà cũng có
thể ăn đại bác rơi lạc bất cứ
lúc nào. Với lại chắc ǵ mợ tôi đă đi.
Khánh cho biết là gia đ́nh cậu tôi ra khỏi nhà
trong lúc căn nhà c̣n đang bốc cháy. Cậu tôi
vừa quay lại vừa kêu trời kêu đất,
muốn lao trở vào để cùng cháy với mấy
cây đàn. Người ta phải lôi cậu tôi đi.
Từ đó cậu không nói với ai một câu nào cho
tới khi cậu trúng miểng đạn chết.
Như vậy là hết, từ người già cả,
cổ xưa nhất như cậu tôi, tới đứa
nhỏ lai Mỹ đều đă bị quật
chết trong trận chiến. Mỗi ngày có bao nhiêu
tấn bom đạn, đă trút xuống đầu thành
phố Huế. Mấy ngày nay, máy bay bay nhiều vô
số. Đứng ngoài quốc lộ, chúng tôi có thể
nh́n thấy những chiếc phản lực liệng
nhanh như chớp và thả xuống từng loạt
bom, tiếp theo những tiếng nổ, dù dội xa, nhưng
vô cùng kinh khủng. Ra xa hơn, đứng ở bên này
sông nh́n sang, chợ Đông Ba trở thành b́nh địa,
nhà cửa bên phố như quấn chặt trong đám
khói mù. Mỗi tiếng nổ, cát bụi, gạch ngói
lại bay tơi tả như một trái pháo khổng
lồ nổ tung xác.
Má tôi nghe tin cậu Đội Ḥa mất, rồi bặt
luôn tin tức ông Vơ Thành Minh, bắt đầu
hoảng hốt. Đôi khi đang ngồi ăn cơm, bà
bỏ chén đũa ôm mặt khóc. Tôi sợ đầu
óc má tôi trở nên bất b́nh thường. Trong hoàn
cảnh này, ai cũng có thể điên được.
Như một người quen cũ của gia đ́nh tôi
chạy loạn về ngang qua, má tôi níu lại. Bà ta
đang khóc mùi mẫn, đi vào nhà kể chuyện
chẳng có đầu đuôi ǵ hết. Rồi
bỗng bật cười:
"Chưa khi mô tui nh́n thấy đám cháy to như
rứa. Người chết cháy cứ như heo
quay."
Cười được rồi, bà ta ngạc nhiên và
lại ôm mặt khóc. Bà ta điên được
từng phút ngắn.
Trưa hôm sau, Thái đă liên lạc được
với đoàn của nó. Khi trở về, Thái báo tin:
"Người ta ở Từ Đàm, Bến Ngự
chạy về đông lắm. Phía ḿnh đă gọi
bằng máy bay, khuyên dân hăy chạy để quân đội
tràn lên đánh địch."
Má tôi nhảy choi choi như một đứa trẻ
con:
"Rứa há. Đứa mô đi đón. Đi đón
liền."
Tôi, Thái và Hà t́nh nguyện đi ngay. Chúng tôi ra
tới cầu An Cựu. Tôi đoán chắc anh chị tôi
có đi cũng chỉ đi được đường
bờ sông, quân giải phóng sẽ rút lên phía núi, và
ở đó, chắc súng đạn đang rền
trời. Chúng tôi đi bộ ra cầu. Nhiều người
chạy loạn quá. Họ gồng gánh, bỏ cả
trẻ con vào thúng mà gánh chạy. Thái la cà lại
hỏi, nhưng không ai muốn trả lời, hoặc có
trả lời th́ câu trả lời cũng chẳng giúp
ích ǵ được chúng tôi. Mấy anh lính Mỹ gác
ở hai đầu cầu nh́n đoàn người
chạy loạn lôi thôi lếch thếch cười
với nhau, chúng nheo mắt, làm tṛ, đôi khi đưa
súng lên bắn chỉ thiên dọa nữa. Đoàn người
nghe tiếng súng là bỏ chạy, những tràng cười
thích thú nổi lên đằng sau lưng.
Người chạy với chó, chó chạy với người.
Những con chó ở đâu chạy theo đoàn người
mà nhiều thế không biết. Một con chó đen
bị những bước chen lấn, chạy tràn
xuống một đầu cầu mép sông. Bỗng
một phát súng nổ, con chó kêu một tiếng
thảm thiết, lăn tṛn và rơi xuống nước.
Tiếng cười ồn ào nổi lên. Mấy người
Mỹ đen, Mỹ trắng đứng trên cầu
tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên
bờ. Con chó cứ xa dần bờ, kêu oẳng
oẳng, hết sức thảm thương. Những viên
đạn vẫn bắn tới tấp nhưng h́nh như
không định giết con chó, mà chỉ giữ không
cho nó vào bờ. Có những viên đạn bắn
trệch lên bờ đường, những viên khác
dội xuống nước. Đoàn người tản cư
chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời.
Tiếng kêu khóc càng to th́ tiếng cười của
một số người Mỹ bên kia sông cũng càng
lớn. Ngă xuống rồi đứng dậy, đứng
dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc tôi đấy
sao? Con chó đang cố lóp ngóp lội vào bờ t́m
sự sống đó sao? Đáng thương cho dân tôi, nước
tôi, thân phận người dân không bằng một tṛ
đùa, không bằng một con chó. Tôi cúi xuống
nhặt ḥn đá cầm chặt trong tay. Tôi bóp
chặt ḥn đá như bóp chặt tim ḿnh. Quăng
đi, liệng vào mặt chúng. Đồ dă man, tàn
bạo. Trong một lúc, nh́n đoàn người lúc nhúc
chạy, la khóc, sợ hăi, tôi bỗng uất hận tràn
người. Dân tộc da vàng nhỏ bé thật, nhưng
c̣n ǵ béo bở nữa đâu? Con chó chạy rong dài
trong bao ngày đă khô nước miếng, đă lở
loét, rụng lông. Tôi đưa ḥn đá lên. Liệng
đi. Liệng vào mặt chúng rồi ra sao th́ ra. Nhưng
không, ḥn đá mà làm được ǵ! Con chó đă
xa bờ lắm. Nó cố kêu lên mấy tiếng
nữa, rồi hai chân trước không phải bơi mà
đập nước lung tung. Tôi thả rơi ḥn
đá xuống đất. Đoàn người la hét khóc lóc
đă đi qua được đoạn đường,
một vài gói đồ rơi lại không kịp
nhặt. Đoàn người khác tiếp tục đi
tới. Con chó bây giờ đă ch́m cả ḿnh xuống
nước, mặc cho gịng nước lặng lẽ
cuốn đi cùng những gịng máu đỏ thấm
hồng mặt nước sông xanh. Tôi nuốt nước
miếng, cổ họng khô đắng, nước
mắt như muốn trào lên. Thái đứng cạnh tôi
im lặng. Mặt nó và Hà cùng tái nhợt trong một
nỗi thống khổ, nhục nhă như không bao
giờ gột rửa được.
Một bàn tay đen đui đưa lên vẫy chúng tôi.
Một hộp thịt ném tới lăn lóc dưới
chân. Không biết nghĩ sao, Thái đá mạnh vào
hộp thịt. Hộp thịt lăn lóc rơi
xuống sông và ch́m nghỉm. Vài tiếng cười
khả ố vang lên. Tôi đưa khăn lên chùi nước
mắt, nghẹn ngào bảo các em:
"Ḿnh về đi."
Trước khi đi, tôi lại nhặt viên đá
cầm trong tay để rồi không làm ǵ hết.
Chỉ một viên đá này mà đổi tới ba phát
súng, ba mạng người, dám lắm. Lúc này, ai
chả có thể là kẻ địch da vàng dưới
lối nh́n của những con mắt xanh.
Khóc lên đi, gào to lên nữa đi, khóc với quê hương
yêu dấu đang quằn quại, đang gẫy xương
sống. Đoàn người đi qua, rồi đoàn khác
tiếp tục. Những đôi mắt vàng úa, thất
thần, những bàn tay níu chặt bọc quần áo,
gia tài c̣n lại và đi măi. Cỏ đă cháy, cây
đă ngă, nhà đă sập. Gịng sông xanh thơ
mộng mùa xuân đă loang đầy máu người, máu
chó. Đống gạch càng ngày càng cao. Ḥn đá cầm
chặt trong tay để làm ǵ. Tôi ném nó vào một ngôi
nhà đổ. Ḥn đá mất tăm luôn dấu
vết.
Cùng buổi sáng hôm đó, tôi nghe thêm được
nhiều nguồn tin lắm. Bên phố coi như đă
thanh toán gần xong. Cầu Tràng Tiền đă găy, công
binh Mỹ đang cố gắng bắt tạm nhịp
cầu khác để chuyển quân qua, và súng đại
liên, tiểu liên, máy bay bắn xuống như mưa trên
những căn nhà đổ nát. Ở phố, người
ta không dám chạy thoát ra đường, từ nhà này,
dân chúng đục thủng tường qua nhà khác, và
cứ thế, họ thoát về ngả Gia Hội,
hoặc có người chạy ngược lên Kim Long.
Người ta nói tới cái chết của ông Tinh Hoa,
chủ hiệu sách, ông đói và khát quá, chạy băng
ra đường. Trước khi ra, ông đă nghiên
cứu một lối chạy, chạy xiên xẹo, ngang
qua ngang lại theo chữ chi để tránh đạn.
Nhưng đạn vẫn bắn tới và ông ngă
sấp, chết liền tại chỗ. Người
đoán là Việt cộng bắn, người đoán
quả quyết là Mỹ bắn, nhưng dù ai bắn th́
ông ta cũng đă chết. Tôi nghĩ tới những
người đang mắc kẹt ở Từ Đàm,
ở Thành Nội. Toàn thành cao bao xung quanh, cửa Chánh
Tây là lối tiếp quân của Việt cộng, phía các
cửa Thượng Tứ, Đông Ba, cửa Sập th́
đạn máy bay, đạn Mỹ bắn như mưa.
Có bao nhiêu người đang quay quắt, quằn
quại trong đó. Những chiếc hầm kiên cố
nhất chỉ có thể chịu đựng nổi
với những cỡ súng nhỏ, làm sao chịu
thấu với những quả hỏa tiễn, những
tấn bom hằng ngày trút xuống. C̣n thành nội
cổ kính nữa, di tích cuối cùng của một
thời lịch sử, với những cành vàng điện
ngọc, với những chiếc b́nh bằng sứ
điểm hoa xưa cổ hàng trăm đời vua,
với chiếc ngai vàng bỏ không nữa. Thôi, súng Nga
Sô, Tiệp Khắc, súng Mỹ, đă san bằng, đạp
nát một thành phố của cổ kính, của
lịch sử. Không bao giờ c̣n dựng lại
được nữa. Tôi không hy vọng ǵ nữa. Ngày
thường, tôi ít để tâm đến vấn
đề này, nhưng lúc này, nh́n những tấn bom trút
xuống thành nội, ḷng tôi đau thắt lại. Má
tôi đă từng kể chuyện trong hoàng cung thời
trước. Nào lầu vàng điện ngọc, nào nơi
Ngài ngự, nào nhạc ban mai, chuông buổi tối. Nào
ngày đưa đám Khải Định, có cọp
bạch về chầu. Bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu
huyền sử trong những câu chuyện thủa
nhỏ, đẹp và hay hơn cả truyện cổ tích.
Quá trưa hôm đó, một chuyện bất ngờ
xảy ra nữa, bất ngờ đến nỗi
cả gia đ́nh chúng tôi bàng hoàng sửng sốt,
bấu da bấu thịt xem chuyện có phải thực
hay trong mơ. Ăn cơm trưa xong, cả nhà đang
ngồi kể lại chuyện mỗi người nghe
được th́ có tiếng gọi ngoài cửa:
"Mệ ơi, mệ."
Má tôi quên cả xỏ guốc, chạy ùa ra sân. Con
Mai, người làm của anh chị Lễ tôi đang
khiêng một đầu, đầu đằng sau là
một người đàn ông lạ c̣n trẻ, ở
giữa là Hy, em gái chị dâu tôi. Hy nằm trên cái vơng
và đang cố ngóc đầu lên để nh́n. Con
Mai vừa kêu: Mệ ơi, mệ ơi, vừa
đưa một tay vẫy rối rít. Hy được
khiêng vào nhà, con Mai chỉ ra đường vừa khóc
vừa nói:
"Mệ ơi, thầy Lễ đang chạy đằng
sau, đang ở ngoài đường."
Tôi chạy băng ra trước, má tôi chạy theo,
rồi Hà, rồi Thái. Ngay trước ngơ, anh tôi đă
tới nơi. Anh tôi đang đẩy một chiếc
xe sắt trẻ con, đi chân không, tóc tai rũ rượi.
Trên xe đặt hai đứa con trai mặt mày đầy
thuốc đỏ, và đang mếu máo khóc.
Tôi ôm choàng lấy các cháu. Cháu gái lớn Ti Na đang
chạy lúp xúp đằng sau cũng nhào vào ḷng tôi. Nước
mắt tôi trào ra. Các cháu tôi cũng khóc thút thít. Anh tôi
chỉ lui đằng sau:
"Chị đang ở đằng sau nớ."
Tôi rời tụi nhỏ, chạy tới phía cầu. Nhưng
chỉ ngang nghẹo Đường Xay, tôi thấy chị
dâu tôi đang ngồi bệt xuống đất,
chiếc nón tơi tả đặt một bên. Chị
bế đứa con nhỏ mới sinh, mặt mũi cũng
đầm đ́a nước mắt. Tôi ôm cháu
nhỏ, dẫn đường. Chị dâu tôi không
đi dép, mệt mỏi đi theo sau. Vào tới nhà, anh
chị tôi đứng trước bàn thờ ba tôi.
Chị tôi gục đầu vào bàn thờ mà khóc.
Mấy đứa nhỏ khóc theo. Má tôi, tôi và Hà cũng
chảy nước mắt mừng mừng tủi
tủi.
Mời
xem tiếp phần 14
|