Con chó giữa ḍng (tiếp)
Một lúc
sau, anh chị tôi mới tỉnh táo kể chuyện
chạy loạn được. Tôi hỏi thăm anh
đi ngả nào, anh tôi kể:
"Đạn trên nớ bắn dữ quá. Việt
cộng không thể kiểm soát được nữa.
Quân Mỹ đă tới cầu Nam Giao và Bến
Ngự. Ngày hôm qua, lúc chập tối, một chiếc
hầm sập, đè chết một đứa nhỏ
chắt của cụ Cường Để, một đứa
bị thương. Anh bế hai đứa nhỏ đầy
máu me. Bà Xếp bế một đứa. Tụi
nhỏ cho đi trước cầm cờ trắng, kéo
xuống cầu Bến Ngự để đưa
mấy đứa nhỏ ra nhà thương. Vài người
chạy theo nữa, tới cầu Bến Ngự, anh
tỏ ư xin qua, nhưng thấy đông quá, bọn
Mỹ nghi ngờ, giơ tay xua bắt trở lại.
Cả đoàn chưa kịp quay lại, họ đă
bắn vào chân, sướt bên tai, trên đầu. Lũ
nhỏ khóc quá, cả đoàn phải kéo lên. Đứa
nhỏ chịu không được đau đă
chết."
Chị dâu tôi nói thêm:
"Anh gan lắm má. Ôm hai đứa nhỏ máu me đầy
ḿnh. Anh giơ áo cho má coi."
Anh tôi đưa tay áo lên, những vết máu đă thâm
tím lại. Anh tôi gầy nhom, hai mắt vàng khè và
mặt không c̣n chút máu. Mấy đứa nhỏ đ̣i
ăn. Hà lục lọi lấy cơm cho các cháu. Má tôi
hỏi dồn:
"Trên nớ tan hết rồi hay răng con?"
"Ui, c̣n chi mà c̣n má. Nhà ḿnh hư hết rồi. Có
đem theo chi được mô. Mỗi cháu chỉ
mặc một bộ quần áo. Mấy bữa súng yên,
tụi con Mai nó qua, lôi được ít đồ
gửi bên nhà thờ cụ Phan. Không biết nay mai, bàn
thờ c̣n nguyên lành không nữa. Đêm qua, súng c̣n như
mưa, cứ tối là họ kéo về, giăng cờ
dụ quân ḿnh. Hai bên bắn nhau. Con chắc mai bên ḿnh
lên được trên nớ. Biết ở lại răng
cũng chết, ông Minh khuyên tụi con nên liều mà
đi."
Má tôi vẫn chưa ngớt xúc động:
"Con đi bằng ngả mô rứa? Ngả mô mà
xuống được?"
"Đi ngả đường rầy má. Nhờ ôn Minh
hết đó."
Anh tôi chỉ người thanh niên:
"Ôn Minh phải lên tới Tây Thiên nhờ anh đây
xuống khiêng giùm Hy đi. Một ḿnh con mắc ba
bốn đứa nhỏ. Bê mới sinh c̣n đồ
đoàn nữa. Ôn Minh lo hết, tội ôn quá."
Bê là tên của chị dâu tôi. Hà thắc mắc:
"Răng anh không nói ôn về một lần luôn."
"Ôn c̣n bận cứu thương, tải thương.
Ôn nói ôn chưa đi được, ôn đi mà để
lại bao nhiêu người kẹt trong ṿng súng đạn,
ôn không yên tâm."
Tôi rót nước mời người thanh niên uống.
Anh ta khoảng ba mươi tuổi, nét mặt rắn
rỏi. Anh tôi không ngớt lời cám ơn. Hà th́
buồn rầu lo lắng cho ôn Minh không hết. Má tôi
hỏi thăm những người hàng xóm. Chị Bê
cho biết bà Xếp Mập đang đi ở đằng
sau, con ở của bà bị thương nhẹ, đi
cà nhắc, vừa đi vừa dẫn bà. Má tôi
hết ôm đứa nhỏ này lại ôm đứa khác.
Tội nghiệp, chúng như một đàn chim nhỏ
bị đạn, nghe tiếng súng đại bác sau Trường
Bia bắn đi cũng run lẩy bẩy, đưa tay
che đầu.
Uống xong chén nước, người thanh niên
nhất định đ̣i lên lại Tây Thiên. Má tôi
mời ở lại, anh ta nhất định không
chịu. Anh nói anh phải đi gặp ông Minh. Anh tôi lo
sợ đường có ǵ bất trắc. Anh mượn
một chiếc xe đạp, nói đi ngả núi
Ngự B́nh, chắc không sao. Má tôi ân cần dặn
đi dặn lại nhờ anh thế nào cũng
chuyển lời mời ôn Minh về.
Một lúc sau bà Xếp Mập tới nơi. Con ở
vừa đi cà thọt vừa cầm tay bà. Vào tới
sân bà đă khóc nức nở:
"Thầy Lễ đă tới chưa? Đă tới chưa?"
Anh tôi ra đón bà vào nhà. Bà đặt cây gậy
dựa vào chân ghế, nh́n quanh nh́n quất, thấy má
tôi, bà lại khóc:
"Bác ơi, tưởng không c̣n trông thấy mặt
nhau rồi chơ... Trời đất ơi, tự nhiên
mà đất bằng nổi sóng... Nhà ḿnh yên hết
chơ bác."
"Bà ngồi đỡ mệt đi. Nhà yên hết.
Lạy Trời lạy Phật."
"Nam mô A Di Đà Phật. Tui cứ sợ cho họ
bắt thầy Lễ na đi..."
"Tui ở dưới ni mà ruột như nung như
nấu bà ơi..."
Má tôi cũng bật khóc. Hà thấy vậy khôi hài:
"Mẹ giải phóng đi mà các con giải phóng không
giữ lại răng mẹ?"
"Ừ, Ừ... tụi nó chạy hết rồi.
Bỏ cả cha lẫn mẹ."
Câu nói của bà làm cho mọi người đang
rầu cũng bật cười, mà riêng bà, bà lại
lau nước mắt:
"Thôi bác ơi, thấy nhau là quí rồi. Người
c̣n của c̣n..."
Hà hỏi anh tôi:
"Trên nớ họ rút hết chưa?"
Anh tôi nhăn mặt:
"Thiệt tụi nó khôn hết sức. Nó rút đi
hết rồi, chỉ c̣n để lại vài tên,
cứ chạy góc này lẹt đẹt vài tràng đạn,
tới góc khác lẹt đẹt vài tràng đạn. Quân
Mỹ ở dưới cầu tưởng đông không
dám tràn lên, chớ thiệt họ rút đi gần
hết, chỉ để lại vài chục mạng
cầm chưn rứa thôi. Nói thiệt tức cười,
mấy tên ở lại bắn chọc để
chặn quân Mỹ, c̣n đường lên núi họ
sắp hàng rút quân, vừa đi vừa hát. H́nh như
họ đi tiếp viện mô ở cửa Chánh Tây."
Tôi hỏi thăm về một người bạn cũ,
cũng là cháu nội của cụ Cường Để:
"Thạch Hà đă tản cư được chưa?"
"Chị Hà cùng núp trong nhà thờ cụ Phan. Bữa
hầm sập, chị Hà mất một đứa.Th́
anh bồng con nhỏ đó đi xuống cầu
Bến Ngự, con Ti Na, Nô Răng cầm cờ
trắng. Bà Xếp với mấy người nữa
đi đằng sau ń. Mà nó bắn nơi chân đó.
Chị Hà tản cư lên miệt Tây Thiên. Anh là
nhờ có ôn Minh ḍ đường mới xuống
đây được đó chớ."
Đứa cháu nhỏ của tôi khóc:
"Cô, cô. Cây vú sữa nhà ḿnh găy, cháu hái được
hai trái chín mùi."
Tôi vừa thương hại vừa buồn cười.
Một cây xanh tốt hàng năm cung cấp bao nhiêu trái
cây, nó không mừng, găy rụi xuống, để
chỉ lượm có hai trái th́ đứa cháu tôi
lấy làm thích thú.
Về tới An Cựu, anh tôi yên tâm hơn. Chúng tôi lo
lắng tổ chức lại đời sống.
Gạo chắc chắn sẽ không đủ ăn
nếu t́nh trạng này kéo dài, nhưng gia đ́nh chúng
tôi cũng không thể về những khu tỵ nạn
để lănh gạo, lănh tiền. Thái vừa lo đi
tŕnh diện, vừa lo chuyện mua gạo. Tôi lại
đi liên lạc với sở để đợi máy
bay vào Sài G̣n. Nhưng trước đó, tôi cũng
phải lo cho Hy v́ vết thương để lâu ngày,
đang làm độc. Tôi chỉ cầu cứu ở
sở, nhưng đường sá lại bắt đầu
khó đi lại. Tôi đành rán chờ.
Chiều hôm sau, ở Từ Đàm lại kéo xuống thêm
mấy gia đ́nh nữa, trong đó có gia đ́nh
một ông thầy cũ của tôi, và những người
con cũng đă đi dạy học, những đứa
cháu nhỏ. Anh Lễ đón họ vào nhà, người
nào cũng đi chân đất, chạy tơi tả.
Chúng tôi được biết thêm là sau khi anh tôi
trốn thoát, Việt cộng lại về bắt
một số thanh niên. Khéo trốn lắm mới thoát
được. Ôn Minh h́nh như cũng bị họ
giữ lại. Hà kêu lên thảng thốt: Ôn Minh mà cũng
bị bắt hả?
Thầy Liên, thầy giáo cũ của tôi, đă già,
lắc đầu tuyệt vọng:
"Tối qua họ c̣n bắn mấy thanh niên gần
nơi trường học."
Má tôi hỏi:
"Trên nớ đă ngớt súng chưa?"
"Ôi, như mưa rào, càng ngày càng dữ. Chúng tôi
liều chết để đi. Lạy Trời lạy
Phật, về đây mới biết là sống."
Ngôi nhà chúng tôi bỗng đông vui hẳn. Ngay sáng hôm
sau, mọi người lo làm hầm. Cứ mỗi gia
đ́nh một góc sân, tất cả các thứ ǵ c̣n
lại trong nhà có thể giở ra làm hầm được,
họ đều trưng dụng. Nhưng chúng tôi không
phiền hà ǵ, nếu phải tháo cả chiếc nhà ra
để làm thêm một cái hầm nữa, chắc ai
nấy cũng hết sức vui vẻ.
Các nhà bên cạnh cũng lục đục kéo nhau
về, làm hầm pḥng đại bác. Chợ nhỏ
họp ở trước con đường dẫn vào
Trường Bia. Một vài quán ăn đă mở.
Sức sống vun trồng thật nhanh, vừa mới
mấy ngày, nhà cửa, làng xóm đ́u hiu như không
bao giờ c̣n có hơi thở nữa. Vậy mà chỉ
qua hai ba ngày sau, dân chúng trở về. Ở đâu có
người, có hơi thở là có quán, có khói, có
bữa cơm. Nhưng cũng thê thảm lắm,
cạnh đó, cách chừng một cây số, hai cây
số, máu vẫn tiếp tục chảy. Buổi sáng
đoàn lính biệt động, nhảy dù, thủy quân
lục chiến vừa đi ngang qua quốc lộ, nét
mặt c̣n đỏ hồng máu, buổi chiều, xác
họ đă được khiêng trở về con
đường cũ.
Mặc dù khu vực chúng tôi đă yên tĩnh, nhưng
ban đêm, Việt cộng vẫn về bắt người.
Ban ngày, lính Mỹ lên, gác đường, gác trong các
khu vườn và nh́n sinh hoạt dân chúng với đôi
mắt nghi ngờ, không mấy thiện cảm. Chỉ
một tiếng động khả nghi là một băng
đạn bắn vào hầm đầy người.
Một tiếng súng nổ, cả một xóm nhỏ phía
sau ruộng bốc cháy. Lính Mỹ đứng gác xua dân
chạy ra khỏi nhà nhưng không được mang
theo một thứ ǵ hết. Tiếng khóc la vang trời
dậy đất. Người ta chạy ra khỏi nhà,
đứng nh́n ngọn lửa. Dân chúng ở vùng này càng
đông hơn v́ những người tản cư
mới đến. Những mũi súng của người
Mỹ chỉ vào họ. Họ đành vừa khóc
vừa chạy loạn thêm một lần nữa.
Mỗi lần thấy lính Mỹ vào vườn là anh tôi
kêu cả nhà và giục những người trong các
hầm khác lên khỏi hầm và vào nhà hết.
Thấy nhà chúng tôi đông, đàn bà trẻ con
nhiều, họ không khả nghi ǵ hết.
Chắc chỉ có xóm tôi ở là dân chúng về
sớm và đông nhất, ở các vùng khác cạnh
đó, mặc dù đă yên ổn nhưng chưa ai dám
trở về.
Lính địa phương thừa lúc chủ nhà
bỏ đi, cạy cửa vào khuân hết đồ
đạc. Nhiều người trở nên giàu có. Tôi
đă từng thấy những người đàn ông
khiêng cả xe Honda c̣n khóa đi ngang qua nhà. Tôi cũng
trông thấy cảnh mấy anh lính nhảy dù ở xa
đến rượt theo với người lính địa
phương v́ họ đang ôm đồ ở một
nhà nào đó chạy ra đường. Một anh
thủy quân lục chiến ở Sài G̣n ra đưa
cho Thái xem một cây bút máy khắc hai chiếc tên
lồng vào nhau. Anh kể, anh lượm được
nơi xác chết một cô gái. Cô gái Huế nào
chết cũng để lại một mái tóc thật
dài, làm anh cứ ôm hết mối tiếc thương
này tới mối tiếc thương khác. Một vài
gia đ́nh khác nữa cũng vừa thoát được
ở Từ Đàm về, cho hay là Mỹ đă qua
được cầu Bến Ngự, nhưng chưa lên
khỏi dốc, c̣n nằm chờ. Tôi nghĩ tới
những trái đại bác sẽ dẫn đầu cho
đoàn quân. Tất cả đă tan nát rồi, chắc
sẽ c̣n dằn chặt xuống đất sâu
nữa. Người ta nói tới những xác chết
dọc đường. Những đứa trẻ không
kịp chôn cất, vất bừa trong bụi cây, hay vùi
giữa đống gạch. Đám chó đói từ lâu
bỗng được dịp no nê. Ai thống khổ,
ai chết chóc mặc, chỉ có lũ chó là phè
phỡn. Tôi để ư thấy quanh vùng tôi có
nhiều chó xuất hiện. Ngoài việc pḥng ngừa
đại bác, pḥng ngừa Việt cộng về
bắt, c̣n phải trữ ít gạch để
liệng chó nữa. Mỗi lần dọn cơm,
bọn chó hầm hè ngoài vườn. Nhưng bọn chúng
đông th́ nhân số trong nhà chúng tôi cũng đông
đúc không kém, chúng không thể tràn vào nhà được.
Thái tiếc rẻ:
"Mấy hôm đói gần chết chẳng thấy
con nào, không ông đă vồ lại, ông ăn thịt
cho đỡ ḷng."
Hàng ngày chúng tôi ra đường đứng nh́n xem máy
bay thả bom bên thành nội. Những chiếc máy bay
gầm thét như xé rách bầu trời buồn
thảm. Những ngọn khói như núi vẫn tiếp
tục bốc cao. Ở Gia Hội có một vài người
thoát đi được, hỏi đến, họ
vừa khóc vừa kể:
"Chết hết rồi, chết hết rồi.
Họ đặt bộ chỉ huy ở trường Gia
Hội, đấu tố, giết chết hàng ngày. Ghê
lắm."
"C̣n trong thành nội?"
"Chạy tản cư ra Gia Hội."
"Gia đ́nh anh c̣n ai không?"
"C̣n một ḿnh tui. Qua chuyến đ̣ mất ba ngàn.
Thôi chào bà con cô bác."
"Vô đây tạm đỡ vài ba bữa rồi
đi."
Nhiều người mời, nhưng người đàn
ông cô đơn từ chối. Chắc ông ta muốn
đi càng xa đống khói, xa máu me chết chóc càng
sớm càng hay. Ông ta đi như chạy trên đường
quốc lộ.
Một người khác kể:
"Chúng nó bắt đầu giết người
dữ lắm rồi. Gặp đàn ông là bắn. Nghe
ai điềm chỉ là bắn. Tui trốn hai mươi
mấy ngày trên máng xối, có bữa đói quá,
phải nhổ rêu mà nhai, lùa nước trên máng
xối mà uống. Bà con coi, cái bụng tui ph́nh ra như
đàn bà bị báng. Tui phải về Phú Bài xin
nằm bệnh viện."
Người ta c̣n kể cả một gia đ́nh ở
Gia Hội chết v́ cái Ti Vi:
"Máy này để liên lạc với địch?"
"Dạ thưa không, cái máy Ti Vi để coi hát múa."
"Vặn lên nghe thử."
Mở máy, không thấy có h́nh ảnh hát múa. Một băng
đạn, đàn bà trẻ thơ ngă gục. Một
bản án được đắp lên: Để đồng
bào noi gương. Đứa nhỏ chết không kịp
nhắm mắt. Hai đứa con của một người
mẹ Việt Nam lai Mỹ, người mẹ đi Vũng
Tàu để hai đứa nhỏ ở nhà cho chị vú.
Đây là con Mỹ Đế, để lại sau có hại
cho tương lai dân tộc. Không cần phí đạn.
Hai cái đầu của hai đứa nhỏ bị
đập vào tường. Óc, năo, máu me phun tung tóe.
Vẫn c̣n những người bị thương
được khiêng đi. Hoặc họ chạy
loạn bị thương, hoặc họ tiếc
của trở về trong lúc hai bên đụng độ,
trúng đạn. Bao nhiêu căn nhà bỏ hoang, bao nhiêu
của cải c̣n bỏ lại. Các anh giải phóng
chỉ giải phóng xương máu và cầm nhầm
những thứ nhẹ nhàng như đồng hồ, bút
máy, những đồ vật nhỏ nhỏ, xinh xinh,
hay ngộ nghĩnh. Phần c̣n lại dành cho kẻ
thừa nước đục thả câu, bao nhiêu cũng
không vừa. Người ta c̣n kể rằng, một
thanh niên c̣n nhỏ tuổi, con của một ông
chủ tiệm vàng, bị gù lưng, đă dắt trong
ḿnh mười mấy lượng vàng chạy
trốn. Anh ta bị bắn chết ngay ở trên
hố, một phát đạn không biết của ai, vàng
cũng chảy theo máu, chỉ để lại xác người
xấu số. Chưa hết đâu. C̣n tàn sát,
chết chóc nhiều nữa. Những người thanh
niên, đàn ông bị Việt cộng nói ngon nói
ngọt là đi học tập mười lăm ngày, măi
chưa thấy về và những người khác
vẫn bị tiếp tục mang đi. Số phận
những người này sẽ ra sao? Họ đă
cố t́nh giữ dân lại, chắc để sẽ
đem làm bia đỡ đạn trong lúc thế cùng.
Nhưng dân chúng, phần chết chóc, phần bỏ
trốn, chắc cũng chẳng c̣n bao. Những
tiếng rú nửa đêm, những bản án, những
tiếng súng giết người không lư do, làm sao để
dân chúng dám ở lại, dám tin tưởng.
Hàng ngày tôi ra đứng bên đường, hy
vọng trong đám người tản cư về, có
ông Vơ Thành Minh. Mới gặp ông có mấy ngày, tôi
đă hết sức yêu kính ông. Ai hèn, ai can đảm
trong cơn biến loạn này đều lộ diện
ra hết. Hôm nay, nghe tin Mỹ đă tràn lên tới
Từ Đàm và hai bên đang đánh nhau, giành từng
tấc đất, chắc ông Minh không c̣n có thể
ở yên đó mà tải thương theo tinh thần hướng
đạo của ông nữa. Không ai c̣n sức để
sống đến hôm nay mà chết cho súng đạn.
Tôi hy vọng ông Minh sẽ về. Họ bắt ông
để làm ǵ? Chắc ông sẽ thoát được
và tôi sẽ gặp ông trước ngày bỏ Huế.
Tôi đă liên lạc được với sở và
chuẩn bị ngày lên đường vào Đà Nẵng.
Nhưng sao tôi vẫn chưa muốn đi. Tôi chờ
đợi ống khói khổng lồ vươn lên
từ trong thành nội lụn dần. Nó phải
lụn dần chứ. Một người đàn bà
đă dẫn một đứa nhỏ đi trên
đường quốc lộ vừa khóc vừa
kể:
"Ối, bà con làng nước ơi. Nhà tui cháy,
chồng tui bị bắt, rứa mà con tui cũng
lạc."
Người ta ṭ ṃ hỏi bà:
"Rứa đứa nhỏ bà dắt theo là ai? Không
phải con bà hay răng?"
"Con tui lạc rồi bà con ơi. Tui cầm nó nơi
tay mà lôi mà chạy. Rứa mà khi nh́n lại th́ không
phải, gặp thằng bé này."
Người đàn bà lại tiếp tục khóc,
tiếp tục kể và lôi thằng bé chạy. Người
đàn bà gọi con, đứa nhỏ gọi cha mẹ
nó. Cảnh trông thật tức cười nhưng cũng
rớt nước mắt. Trên quê hương tôi, bao
nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu bà mẹ đă khổ
như thế? Kể làm sao hết được.
Một ngày nữa trôi qua, lại một ngày nữa
đến. Khu An Cựu có vẻ yên lành hơn trước.
Buổi sáng, tôi đă ăn được những bát
cháo ḷng heo, gị heo của những người bán hàng
rong. Chúng tôi không c̣n phải chui rúc dưới hầm
tối suốt ngày nữa. Nhưng không khí dường
như độc địa hẳn. Mắt mọi người
lúc nào cũng cay xè. Thuốc hơi cay của quân đồng
minh rải khắp nơi để bắt những
giải phóng quân c̣n sót lại. Ngay sau khu vườn cách
nhà tôi vài căn, có một ngôi nhà bỏ không, một
chiếc hầm bỏ không, người ta cũng bơm
hơi cay, xông ra một giải phóng quân bị thương,
bị đồng đội bỏ lại. Và khi lên nh́n
thấy ánh sáng th́ hắn cũng vừa thở hắt
ra mà chết. Ở trong hầm, dù đau đớn,
hắn cũng viết nhật kư, viết thư gửi
cho mẹ và em. Điều đặc biệt là hắn có
một lá thư nguệch ngoạc viết phản đối
chiến tranh nữa: Khi tôi chết, tôi muốn gối
đầu lên đất Bắc, dù chân tôi ở
miền Nam. Tôi đă gây cảnh đổ máu ở thành
phố này, tôi phải để máu của tôi lại
để ḥa cùng với ḍng máu oan ức của dân
Huế, của dân tộc tôi. Người lính Biệt
động đọc xong mấy ḍng trên, anh vội nhét
lá thư vào túi, rồi lặng lẽ bế xác tên
Việt cộng, xác một người Việt Nam, ra vườn.
Anh đào một cái hố nhỏ và chôn xác người
miền Bắc chết cùng với dân Nam. Anh nh́n quanh
quất, tính lui tính tới để t́m ra phương
Bắc làm chỗ gối đầu cho kẻ bạc
mệnh.
Tôi muốn xin anh lính bức thư, nhưng thấy
mặt anh lầm ĺ và vác khẩu súng nặng nề quá,
tôi lại thôi. Chỉ một lát sau, khi ra ngoài lộ,
tôi trông thấy chính anh lính đó ria một tràng súng
vào một bụi cây. Không có người nào hết,
ngoài một con chó ốm. Con chó chạy ra, mắt
hực lửa, miệng nó đang tha một cục xương
người. Thôi, tôi không muốn kể nữa. Người
ta c̣n đồn là ở trong thành nội, xác chết
của dân và của Việt cộng đă chất cao.
Những người dân chạy loạn bị trúng
đạn nằm chồng lên nhau. Những xác Việt
cộng nằm đầy những hố, xác ở dưới
mương, bên đường lều bều như cá
chết mắc cạn.
Cũng từ hôm đó, ở phía Nam Giao, Từ Đàm không
c̣n ai chạy loạn về nữa. H́nh như cũng
chả c̣n ai để mà chạy. Họ đă bỏ
đi, và số c̣n lại th́ đă ở giữa hai
lằn đạn rồi. Tôi mất luôn tin tức
của ông Minh. Anh tôi thở dài mỗi lần nghe
chị em tôi nhắc nhở tới ông. Má tôi mua
được ít cau trầu vẫn để dành. Không
hiểu căn cứ vào đâu mà má tôi tin là ông Minh
sẽ b́nh yên vô sự.
Tôi th́ tôi không tin được như thế. Có
thể ông đă bị bắt đi như những
lời đồn. Ông bị bắt đi cùng thầy
Đôn Hậu. Như vậy, có thể ông không bị
giết. Có được không? Nhưng tôi vẫn nghi
ngại lắm. Hai đứa bé con lai Mỹ th́ tội
t́nh ǵ? Một nhà sư như thầy Đôn Hậu,
một hướng đạo, một chiến sĩ như
ông Vơ Thành Minh. Trời ơi, sao giữa tiếng súng,
giữa cảnh máu me, giữa bao nhiêu người
chết oan ức, tôi lại cứ thắc mắc
những điều như thế. Điều cần
thiết là tôi phải làm sao để thoát khỏi
Huế, để sống được, để
trở về trông thấy các con tôi, gặp mặt
chồng tôi. Tôi sẽ ra đi dù để lại
Huế quay quắt, tan tành, đổ nát. Để
lại má tôi, anh tôi, em gái, các cháu, bà con gịng họ.
Có thể ở lại thêm một đêm, đến lượt
tôi cũng sẽ bị bắt. Tiếng cú rúc,
tiếng báo hiệu của tử thần vẫn c̣n
mỗi đêm, khi xa khi gần. Tôi đem những điều
suy nghĩ trên nói với anh tôi. Anh tôi cũng khuyên:
"T́m được phương tiện, em nên đi
ngay, đừng chần chờ. Về được
tới đây, anh cảm thấy nhà ḿnh đă yên tâm
hơn rồi."
Nh́n thấy điều ǵ mà anh tôi dám quả quyết
như vậy? Tôi nh́n lên bàn thờ ba tôi. Chị dâu tôi
đă đốt hai ngọn nến, thắp một cây
nhang lớn. Mùi hương thơm phức. Trong thành
phố này, bao nhiêu ngôi mộ đang lạnh lẽo,
đang vời nuối khói hương. Ba ơi, ba
vẫn may mắn. Điều đó làm cho anh con tin tưởng
phải không ba? Nếu ba gắng gượng sống thêm
vài ngày nữa. Chuyện ǵ sẽ xảy ra cho ba? Tôi không
dám nghĩ tiếp nữa. Huế ơi, một ngày tôi
về chịu tang cha, chịu tang thêm cho cả thành
phố. Trong biến cố này, bao bạn bè tôi lớp
cũ đă ra đi. Ngôi trường Đồng Khánh thân
yêu, nơi dung dưỡng tuổi thơ ấu,
tuổi lớn lên của tôi đă đổ nát
tới chừng nào? Những cây phượng, những
hốc cây đầy kỷ niệm nữa, sao tôi
vẫn có cảm tưởng như những hốc cây
kỷ niệm của tôi nơi sân trường đang
ứa đầy máu. Tôi muốn được trông
lại ḍng Chúa Cứu Thế, nơi tôi đă tránh
nạn những ngày đầu tiên, muốn ghé lại
cung An Định, xem đống gạch đă khổng
lồ như thế nào. Muốn tới Tân Lăng để
coi căn nhà của chị U, để coi ngôi nhà
thờ họ, c̣n nguyên vẹn hay đă đầy
vết bom đạn. Những nơi tôi đă dung thân,
tôi đă gửi lại một ít kỷ niệm.
Những nơi đó tôi đă nh́n thấy máu, nh́n
thấy sự chết, và cũng đă nh́n thấy
sự sinh sản. Ôi, căn gác nơi nhà thờ, nơi
đó đă sinh ra đời thêm được bao nhiêu
em bé nữa. Giữa cảnh rẫy chết, tanh hôi,
tiếng khóc ra đời của trẻ thơ vẫn vùng
vẫy mạnh mẽ, vẫn vươn lên tột cùng
sự kiêu hănh của sức sống. Không chỉ nơi
căn gác chuông của ngôi nhà thờ đó đâu.
Gần một tháng trời nay, khắp thành phố
Huế, trong hầm tối, giữa đường, bên
bờ ao, bên những vũng máu đă nguội,
những tay chân què quặt, c̣n bao nhiêu trẻ thơ khác
ra đời nữa. Đất lấp những tiếng kêu
thống thiết th́ đời cũng mở những
tiếng khóc sơ sinh. Không, Huế sẽ không bao
giờ tan nát, đổ vỡ tới như sự
tận thế. Bên ṿng lửa, cạnh bom đạn,
những buổi chợ đă họp lại, kẻ
sống sót đă trở về ṿng quanh quẩn, lăm
le đợi chờ. Và dưới mương bên
đường, trong đất tối, bao xác chết
mở mắt trừng trừng chờ đợi. Tôi
gặp thêm một số người các nơi chạy
về nữa. Từ Gia Hội, từ Bến Ngự,
từ Kim Long. Vậy là Huế đă rỗng. Một người
sống sót kể lại v́ muốn cứu khoảng hơn
mấy chục người mắc kẹt trong một xóm
nhỏ, các anh lính đă phải hy sinh một số khá
đông. Một người khác nói rằng chính anh
vừa thoát được từ dưới địa
ngục lên. Anh ta bị bắt đi. Một đoàn người
bị bắt, một sợi dây thừng dài cột người
này liền với người khác. Đoàn người
được dẫn lên phía núi. Tới một
khoảng đất trống, một anh giải phóng ra
lệnh mở giây trói cho mọi người, bắt
họ đào hầm hố. Những hầm hố
mới nguyên bên cạnh những cây cối c̣n xanh tươi.
Đoàn người được đứng sắp hàng
lại. Một loạt đạn thi ân: Giải phóng.
Một số người được chừa
lại: Xô họ xuống hố và lấp đất
đi. Những giọt nước mắt không ứa ra
được, nóng như lửa chảy ngược
xuống nung đốt ruột gan. Số người c̣n
lại về sau cũng bị số phận như
thế. Nhưng tôi, tại răng tôi may mắn thoát
chết? Trời đất quỷ thần. Tôi thoát
được mà về đây. Ông bà tôi đă
cứu tôi. Trời Phật hay ma quỷ đă cứu tôi.
Chào tất cả chào bà con cô bác. Tôi phải chạy
trốn chúng nó. Tôi phải đi t́m vợ con tôi. Tôi
đi trốn đây, bà con cô bác trốn đi.
Trốn ngay đi. Người đàn ông kể xong
chuyện xúc động quá chắc đă hóa điên
rồi. Chúc anh được điên để quên. Điên
được, thật sung sướng cho anh biết
mấy.
Một người khác th́ trái lại, vừa kể
chuyện vừa khóc. Ông ta không điên mà rủi thay,
c̣n quá sáng suốt để tràn đầy sự xúc
cảm.
"Họ ở trong nhà tui mười mấy ngày.
Nhiều người bị thương mang về.
Nhiều người chịu không thấu đă
chết. Bà con biết không? Họ cũng biết thương
người, họ cứu thằng c̣n tui bị
miểng đại bác. Một anh lính Bắc Việt
trẻ đă than thở với tui: Các bác nghĩ
lại đừng ghét bỏ tụi cháu. Tụi cháu
chỉ biết thi hành theo lệnh trên. Tụi cháu cũng
xa gia đ́nh, đói khổ. Nh́n cảnh đồng bào
chết như thế này, tụi cháu cũng khổ
đau lắm. Ngoài Bắc họ tuyên truyền vào Nam
đánh Mỹ chớ cháu đâu biết cớ sự
như thế này... Đó, họ cũng tội, họ cũng
oán chiến tranh lắm chớ."
"Vậy sao bác chạy tới đây?"
"Họ bỏ đi hết rồi. Nhà chỉ c̣n toàn
xác chết. C̣n có một anh bị thương ở
lại đó, khuyên tôi nên đi đi, ở lại là
chết. Bây chừ tui đi, đi tới nơi mô yên
ổn nhất. Đây vưỡn chưa yên."
Họ cũng là người chứ! Huế ơi,
Huế có căm thù họ không? Những đôi mắt
mở sâu trừng trừng trong đất đen, trong cơi
vô minh có căm thù họ không? Căm thù chứ,
phải không? Nhưng không phải căm thù họ, mà
căm thù những trái đạn từ đâu nhập
vào đất nước để biến chúng ta thành
kẻ bị giết hoặc bị bắt, buộc
phải giết người, giết anh em, cha, mẹ, bà
con ruột thịt. Ruột và thịt, trong gần
một tháng qua tôi đă nh́n thấy bao nhiêu. Bao nhiêu
đó, có đủ để nhắc nhở ǵ chăng?
Các em tôi đă đi tŕnh diện hết. Thái
được đưa về Phù Lương, Bé
trở lại đơn vị. Phía hữu ngạn
đă bắt đầu kiểm soát dân. Những người
trở về ùn ùn kéo nhau đi lĩnh phiếu
kiểm soát. Anh tôi cũng đă lĩnh phiếu.
Xung quanh khu vực tôi ở, h́nh như người ta
đă trở về gần hết. Về tới nhà,
gia đ́nh này thiếu mất mẹ, gia đ́nh khác
thiếu cha, kẻ mất con. Những tiếng khóc thê
thảm bật lên, nối từ nhà này sang nhà khác. Người
ta kể cho nhau nghe về những ngày chạy loạn,
những cái chết thê thảm, và người ta khóc mùi
mẫn. Những giải khăn tang đă bắt đầu
xuất hiện.
Ở sở cho người lên báo tin là sẽ có
trực thăng đưa tôi từ Huế vào Đà
Nẵng, để từ Đà Nẵng, tôi sẽ đi máy
bay vào Sài G̣n. Tôi mừng rỡ lắm. Nhưng không dám
tỏ sự mừng rỡ đó ra cho má tôi, anh tôi
biết. Càng ngày, má tôi, anh tôi càng tỏ ra buồn bă,
cơn xúc động, kinh hoàng ban đầu đă
lắng dần và trở thành đá trong mỗi cơi ḷng.
Đêm, chúng tôi vẫn phải ngủ hầm, ngày sặc
sụa nước mắt v́ hơi cay. Nhưng chúng tôi
vẫn tin tưởng là tai nạn sắp chấm
dứt. Buổi tối hôm đó, trong bữa cơm, tôi
mới dám đem chuyện ở sở báo tin có máy bay
cho má và anh tôi nghe. Má tôi khuyên:
"Con nên t́m cách đi sớm. Ngó Huế rứa
chớ chưa yên mô, má thấy c̣n nhiều rủi ro
lắm."
Tôi biết má tôi muốn nói tới những viên đạn
lạc, những trái đại bác sai đường,
những tiếng cú rúc ban đêm, những bước
chân ḍ dẫm mỗi buổi tối. Tôi nói với
cả nhà:
"Đi như thế này, con chưa yên tâm. Con thoát
một ḿnh con thôi, rồi ở nhà lỡ xẩy ra
chuyện ǵ..."
"Chuyện ǵ xẩy ra nữa th́ cũng đành
chịu. Số mạng mà em."
Anh tôi nói. Đôi mắt anh nh́n lên bàn thờ ba tôi.
Ngọn nến vẫn le lói cháy và trầm hương
vẫn thơm phức.
"Có lẽ sáng mốt con đi. Chiều mai, con
phải về dưới Phù Lương ở lại.
Sợ có chi bất trắc kẹt đường."
"Lo trước vẫn hơn," má tôi nói.
Mấy đứa cháu nhao nhao:
"Cô sợ súng, cô đi phải khôn cô?"
"Thế cháu có sợ súng không?"
"Mới bữa đầu sợ, về dưới
ni, cháu hết sợ rồi."
Đêm đó, tôi không ngủ được. Chỉ c̣n
một đêm nay nữa, ngủ nơi ngôi nhà này, ngôi
nhà mà tôi đă trở về chịu tang cha để
rồi chịu tang chung cho cả một thành phố, tôi
có cảm tưởng như trong đêm tối, ngoài vườn,
vẫn c̣n đầy tiếng chân đi. Thỉnh
thoảng những tiếng rú, tiếng hét vẫn c̣n
dội trong tiềm thức. Má tôi cũng không ngủ,
bà nằm bên cạnh, lần tay trong bóng tối t́m
cổ tay tôi:
"Con ngủ đi cho khỏe con. Thức chi mà
thức hoài."
Tôi trở ḿnh, thở ra, nói với má tôi:
"Súng bắn nhiều quá má."
"Chắc bên thành nội."
"Không biết trên Từ Đàm đă đánh xong chưa?"
"Con yên tâm, trên nớ yên là ḿnh về lấy đồ.
Chắc cũng không mất mát nhiều đâu."
"Má không tin là cái nhà đó đă sập à?"
Má tôi tin tưởng:
"Không, có sập cũng không đến nỗi."
"Chuyến ni yên, má có định bỏ Huế không?
Hay để con vô trong thu xếp mang cả nhà ḿnh vô Sài
G̣n luôn."
"Không."
Tiếng "không" má tôi trả lời mau, không suy
nghĩ. Bỏ làm sao được phải không má?
Phải không Huế? Tôi tưởng tượng ra ngôi
mộ của ba tôi nằm trên sườn đồi, vây
quanh giữa những ngôi mộ ông tôi, bà tôi, chú tôi và
những bà con thân thuộc khác. Rồi ngôi vườn,
căn nhà tôi đang sống đây nữa. Cả
một đời người, sau bao lần thất
bại, ba tôi mới dựng nổi ngôi vườn, căn
nhà này. Những cây cối vẫn c̣n cố sống, dù
vàng vơ, xơ xác ở ngoài vườn kia, đều
do bàn tay ba tôi đă gầy dựng lên. Bây giờ ba tôi
đă nằm xuống. Cùng với biến cố này
trong thành phố, bao nhiêu người nữa đă
nằm xuống. Nhưng cây cối sẽ phải
tiếp tục mọc tiếp tục xanh, như sự
chết của người dưới mồ phải
tiếp thêm sức lực cho sự sống của
cỏ cây mọc tràn trên đất. Giọng má tôi
vẫn đều đều:
"Má nghĩ ḿnh c̣n sống, ḿnh c̣n gầy dựng
lại được."
Rồi bà nói sang chuyện khác:
"Con vô Sài G̣n nhớ t́m cách báo tin cho má biết gia
đ́nh trong đó ra răng."
Tôi cam đoan với má tôi là ở Sài G̣n yên tĩnh
trở lại rồi, và tin tức nhận được
là gia đ́nh tôi vẫn yên ổn. Nhưng má tôi
vẫn thắc mắc:
"Vô, con nhớ làm cái hầm. Chuyến ni về
phải làm cái hầm lại cho chắc chắn."
Tôi dạ dạ vâng vâng cho má tôi yên ḷng. Đêm đó tôi
khóc âm thầm măi. Nằm nghe tiếng súng nổ ran
từ phía bên kia thành nội, tiếng đại bác câu
đều đều, âm thanh như đưa oan
hồn. Mai tôi bỏ Huế để đi một ḿnh,
để t́m b́nh yên một ḿnh. Nhưng liệu có c̣n
chỗ nào b́nh yên? Quê hương, nơi nào cũng có
máu, có lửa. Tôi chúc cho Huế những ǵ đây?
Sáng hôm sau, Hà cùng với mấy cô nhỏ ở chung nhà
đi xe đạp, cố t́m đường lên Từ
Đàm. Nhưng đến xế trưa, Hà trở về,
mặt mũi đầy bụi. Nó nói: đường
không thể nào đi được. Ở trên đó
đang đánh nhau dữ dội lắm. Các ngả
đường lên xuống bị chận hết.
Tôi bận rộn sửa soạn để xuống
Thanh Lam. Nói là sửa soạn chớ thật chả có
ǵ, ngoài sự bịn rịn người thân trong nhà.
Trước khi đi, tôi với Hà đi một ṿng thăm
xung quanh khu tôi ở. Lên nhà chú tôi, cả nhà đă
đi tỵ nạn dưới Phù Lương. Xung quanh
hàng xóm trở về thưa thớt. Những ngôi nhà
bị trúng đạn càng ngày càng hư hại,
hết sức tiêu điều. Đi ṿng con đường
nhỏ này là ngả ra núi. Nơi đó, mộ chôn ba tôi.
Nhưng không dám đi xa hơn nữa.
Hai chị em xuống cầu An Cựu. Lính Mỹ
vẫn gác đầy, chúng tôi muốn đi xa hơn nhưng
có người nói nguy hiểm lắm. Khu trường
Kiểu Mẫu vẫn c̣n bị ăn đạn bên kia
sông bắn qua. Khi chúng tôi về tới nhà, thấy
trong nhà có người lạ. Một ông lăo đang
ngồi uống nước và nói chuyện với
cả nhà. Ông lăo này có tới tám mươi tuổi.
Má tôi giải thích là ông ở một trong các căn nhà
phía sau vườn. Con cháu đă tản cư hết,
chỉ c̣n một ḿnh ông ở lại trong căn nhà
đó từ ngày đầu xảy ra tiếng súng
tới giờ. Tôi ṭ ṃ hỏi thăm, nhưng h́nh như
ông không nghe ǵ hết, cứ hỏi một điều
ông lại nói một chuyện khác. Một lúc sau, tôi
mới biết là ông vừa ḷa vừa điếc. Tôi
hỏi lớn:
"Cụ ở một ḿnh lấy chi mà ăn?"
"Có chớ. Nhiều lắm. Tụi con cháu tui nó
để lại bánh ḿ khô, bánh chưng, gạo ń..."
"Cụ không sợ súng sao?"
Câu hỏi này tôi phải hỏi tới hai ba lần, và
làm dấu cụ già mới hiểu:
"Súng há? Ăn thua chi. Tui điếc mà, có nghe cũng
như nghe tiếng bắp rang nổ rứa thôi."
"Mấy ngày đầu cụ có gặp họ không?"
"Chi?"
"Gặp họ?"
"Họ là chi?"
"Việt cộng đó cụ."
Tôi la lên đến khan cả cổ. Cụ già gật
đầu ra vẻ hiểu:
"Ờ, ờ. Việt cộng. Có, có. Họ vô nhà
thấy ông già th́ mần chi ông già, ăn cứt ông già..."
Tôi đang buồn cũng không nhịn cười
được. Ông cụ già lại kể:
"Cái tụi con cháu nói không được. Tui
biểu đừng có đi, cứ đi. Nghe nói trúng
bom cả lũ chết hết rồi. Chết hết
để lợi một ḿnh tui. Khổ thân chưa..."
"Chừ cụ tính răng?"
"Tui nghe bên ni về đông người, muốn qua
hỏi thăm t́m đường đi t́m xác tụi
chúng. Khổ quá các bác, các cháu ơi. Tui đă khuyên
tụi nó đừng đi, nó không nghe. Như tui
cứ ăn no rồi nằm ngủ. Kệ súng kệ
đạn, rứa mà có chết mô nà trời. Rứa mà
tụi nó khôn biết ma đưa lối quỷ
dẫn đường chi mà bồng bế nhau đi
hết."
Má tôi khuyên:
"Ôn về nhà đi, đừng có đi t́m. Ai
chết người ta cũng chôn hết rồi,
biết mô mà t́m."
Ông cụ già đưa tay dụi mắt:
"Chôn hết há? Chôn mô?"
"Chết mô người ta chôn ở đó."
Tôi nh́n thấy hai giọt nước mắt hiếm
hoi chảy xuống trên g̣ má nhăn nheo của ông già.
Ông không chào hỏi ai, đi ra khỏi cửa. Tôi đi
theo, đưa tay đỡ ông, ông để cho tôi
đưa ông về tới nhà.
Thật lạ lùng hết sức. Ngôi nhà ông sập
hết một nửa, lại đầy cả vết
bom vết đạn. Vậy mà ông già không hề
hấn chi hết. Tôi chỉ những dấu đạn
ở tường. Ông nói:
"Nó bắn đó."
Ông lần tới gần bên vách tường sập:
"Cái nhà định đổ. Tui có nghe chi mô,
chỉ có tiếng b́nh một cái, người tui hơi
dội trở lên, mở mắt thấy cái nhà đổ
rồi."
Tôi thấy bên góc nhà mấy cái cờ giải phóng
đầy máu, một vài chú ruồi vẫn c̣n bâu
ở đấy. Mấy chiếc cờ tiết ra
một mùi tanh khó ngửi. Thấy tôi nh́n, ông già
giải thích:
"Của mấy ông giải phóng bỏ lại đó.
Mấy bữa đầu thôi th́ chết, rồi bị
thương tùm lum. Đem vô đây, đó, nằm ở góc
nhà đó rồi khiêng đi, không biết đi mô
nữa."
"Bây giờ cụ sống với ai?"
"Một ḿnh."
"Lấy chi ăn?"
"Mai mốt yên, ḿnh nhờ chính phủ chớ. Con cháu
chết hết cả rồi. Ḿnh nhờ chính
phủ."
Tôi chào ông cụ già rồi đi về. Tới nhà
đă thấy xe sở đợi sẵn. Má tôi đang
đứng nói chuyện với mấy người trong
nhà, thấy tôi, má tôi chạy ra:
"Họ tới đón con rồi đó."
Tôi ôm chầm lấy má tôi. Tôi muốn khóc mà không khóc
được. Nhưng má tôi bật khóc dễ dàng:
"Thôi con vô sửa soạn mà đi."
"Má."
"Con sửa soạn đi đi..."
Giữa không khí hoang mang của ngày giá rét, má tôi dường
như đang gạt lệ, nh́n ngọn đồi cao
trước mặt. Trên đó, là phần mộ ba tôi.
Trước khi tôi đi, tôi thắp một nén hương
lên bàn thờ. H́nh như tôi muốn khấn một
điều ǵ đó, nhưng trí nhớ của tôi
thật hoàn toàn mù mịt.
Xách cái túi nhỏ. Ôm khóc vẫy chào mọi người.
Tôi đă ra đến lề đường. Chiếc
xe nổ máy chờ sẵn. Ngay trên đầu tôi,
những chiếc máy bay không ngớt gầm thét, lượn
ṿng. Và ở phía xa bên kia thành nội, những ụ
khói bốc cao, quằn quại trong những tiếng
nổ tung vỡ.
Tôi thật sắp bỏ Huế rồi sao?
Mời
xem trờ lại phần 01
Nguồn: In lần
đầu tại Sài G̣n 1969, giải thưởng văn
học nghệ thuật quốc gia 1970, nay đă
tuyệt bản
|