Mục
lục:
(Vui ḷng click vào các số
sẽ xem được ngay từng phần)
[1]
Những giờ đầu tiên
[2] Nhà thờ
Ḍng Chúa Cứu Thế
[3] Nhà thờ
Ḍng Chúa Cứu Thế (tiếp)
[4] Những mănh
vụn góp nhặt
[5] Qua một chuyến
đ̣
[6] Người
ở Từ Đàm về kể chuyện
[7] Người
ở Từ Đàm về kể chuyện (tiếp)
[8] Đi về trong
lửa đạn
[9] Đi về
trong lửa đạn (tiếp)
[10] Chuyện từ
thành Nội
[11] Chuyện
từ thành Nội (tiếp)
[12] Trở về ngôi
nhà củ
[13] Con chó giữa
ḍng
[14] Con chó
giữa ḍng (tiếp)
Chương 1
Những giờ đầu tiên
Không biết tiếng súng đầu tiên nổ vào
giờ khắc nào? Giữa đêm, tôi đă choàng
tỉnh dậy v́ tiếng nổ xé toạc cả
những giấc mơ vụn.
Vừa kịp lăn xuống khỏi tấm phản
gỗ, tai tôi đă ù đi v́ những tiếng nổ
ran bốn phía. Chuyện ǵ vậy? Không biết làm
thế nào mà tôi lăn tṛn từ pḥng ngoài vào pḥng
trong. Bàn tay ai kéo tôi giúi vào giữa pḥng. Tôi nằm
đè lên da thịt ai non mát. Một tiếng kêu
nhỏ tắc nghẽn vào âm thanh hỗn độn
của súng đạn bên ngoài. Khi tôi kịp định
tỉnh lại tâm thần th́ đứa cháu nhỏ
đă ngồi lên được, nằm gọn gàng
trong ḷng tôi. "C̣n đứa mô nữa? Vô hết
đi. Vô một chỗ.” Tiếng má tôi th́ thào. Que diêm
tắt phụt nhưng có ánh nến le lói từ pḥng
ngoài hắt vào. Đứa em trai tôi trườn theo làn ánh
sáng mỏng đó, nó ngồi áp vào bên má tôi. “Làm
ơn tắt giùm ngọn nến ngoài bàn thờ đi,
tắt luôn cả lư trầm nữa.” Ông anh lớn
của tôi vội vă làm theo lời má tôi, rồi
nhảy đại rất nhanh vào ngồi dồn cùng
một đống. Lúc này tôi mới cảm thấy
ngột ngạt đến muốn tắt thở v́ hơi
người, v́ mùi trầm hương và mùi nến khét.
Căn pḥng quá chật, lại bị cái giường
chiếm mất một nửa. Anh tôi phải lăn
xuống gầm giường. Người này nằm gác
lên người kia. Cái bô để dưới chân giường,
thỉnh thoảng bị va chạm, vang những âm thanh
rổn rảng càng khua động thêm nỗi sợ hăi
của mọi người.
Nằm im được một lát, hoàn hồn lại,
mọi người bắt đầu nghe ngóng. Tôi dán
tai xuống nền gạch. Đứa cháu gái đă lăn
xuống nằm cạnh tôi, hai tay nó ôm đầu, hai
chân nó lọt vào hai chân tôi. Tôi hỏi nhỏ:
"Tina nằm có chật không?"
"Không, cô ơi. Tina sợ quá."
"Đừng có khóc.”
Tôi vỗ về đứa cháu. Nhưng cùng lúc đó
những tiếng nổ ́nh ́nh lại dội thốc lên.
Đứa cháu bỏ tay, ôm chặt lấy tôi, người
nó run cầm cập. Trời ơi, súng bắn cả
sau vườn ḿnh. Tôi nghe tiếng súng đằng sau vườn
thật trong, thật buốt. Thằng em ghé vào tai tôi:
"AK. Thôi, tụi nó về rồi."
Tôi kéo nó:
"Mày nằm xuống đi."
"Không can chi mô chị. Để em ngồi."
Cánh cửa sổ bỗng bị bật ra và cứ
thế, hai cánh cửa cứ dội mở ra, đóng
ập vào theo những tiếng nổ lớn. Tiếng
đạn ở sau vườn bắn thật rát. Má tôi
th́ thầm:
"Đánh tới đồn vận tải."
"Không, đồn trường bia."
"Không, đánh cùng khắp. Con nghe phía vận
tải, phía trường bia, phía ruộng, phía sau
đường rầy."
"Suỵt, im đi cho với. Trời ơi. Trời
ơi. Trời ơi."
Tiếng trời ơi đất hỡi bỗng nằm
ngay trên chót lưỡi. Bầu trời xoẹt lửa
sáng trưng, đất rung chuyển như địa
chấn. Lên cơn rồi. Tôi cũng không thể
nằm yên để nghe tiếng dội tức cả
ngực được. Tôi muốn ngồi nhổm
dậy để nghe ngóng, nhưng chỗ nằm
chật không nhúc nhích được. Đứa em họ
lúc này cũng chen được một chỗ, hai chân
nó chuồi dưới giường, đầu nó tḥ
ra khỏi một nửa cửa pḥng. Nó lại bật
diêm, lại có tiếng la nhỏ: con khỉ, tắt diêm
đi. Ngọn diêm tắt phụt. Nhưng trong bóng
tối, lúc này tôi tưởng tượng ra được
rồi. Tôi đồng điệu run với mạ tôi,
anh tôi, em gái tôi. Tôi đồng điệu co quắp,
cố đè nén sự run rẩy, cố ưỡn tung
lên để tiếng nổ bớt dội ngực. Đứa
em họ tôi nghe ngóng một hồi rồi ngồi
dậy, nó ḅ ra gian nhà ngoài, chúng tôi nín thở chờ
đợi. Chỉ một lát sau, nó ḅ vào nói rỉ tai
từng người:
"Nó ở đầy sân vườn nhà ḿnh."
"Suỵt."
Lại nhiều tiếng suỵt lọt ra khỏi
cửa miệng như một hơi huưt gió nhỏ.
Anh tôi giọng hơi gay gắt:
"Nó bắn như pháo ở bên ngoài, vài tiếng
động nhỏ làm sao nghe được."
Rồi anh tiếp:
"Quái ǵ, nó về đánh đồn trường
bia rồi. Lần trước cũng đánh suốt
một đêm, sáng ra là rút hết."
Tôi mừng thầm. Chúng tôi chịu đựng có
lẽ đến hai tiếng đồng hồ rồi.
Tôi cố đưa cổ tay lên để nh́n mặt
chiếc đồng hồ, nhưng rủi cho tôi, tôi
mang đồng hồ không có kim dạ quang. Và ngoài tôi
ra chẳng có ai kịp th́ giờ mang đồng hồ
hết. Dù sao chúng tôi cũng hy vọng mong cho
trời sáng. Ông anh tôi không biết sao bỗng trở
chứng kêu đau bụng bất th́nh ĺnh. Vậy là
chiếc bô lại có dịp được dùng
tới. Chúng tôi đau khổ v́ lát lát mấy đứa
nhỏ đ̣i đi tiêu, đi tiểu. Lát lát anh tôi
lại kêu đau bụng, mà cái bô th́ quá nhỏ.
Mọi người vừa nằm vừa run, vừa
cố giữ cho chân tay khỏi lóng ngóng. Tôi cố nghĩ
đến một cái ǵ để dằn cơn sợ
hăi, nhưng không, tôi không nghĩ ǵ được
hết. Đầu óc tôi vang dội tiếng súng. Tay chân tôi
cứ lật bật run rẩy bất chấp cả
sự tự chủ vượt bực của tôi. Có
nhiều lúc ngay cả chân tay, thân thể ḿnh cũng không
nghe lời ḿnh nữa.
Nhưng rồi nhờ sự chịu đựng quen
dần, tôi b́nh tĩnh lại được và cơn
run rẩy biến mất. H́nh như chúng tôi đă
chịu đựng một thời gian khá dài và b́nh
minh sắp đến. Tôi nghe tiếng rục rịch
trong chuồng gà ở đàng sau tấm vách tường
lọt vào nhờ hai cánh cửa sổ đă bật
tung cùng với tiếng súng đạn hỗn loạn.
Thái, tên đứa em họ tôi, đă b́nh tĩnh
ngồi dựa vào tường, và ph́ phà trên môi điếu
thuốc lá lúc nào. Tôi lần tay, nắm chặt tay nó:
"Thái, liệu có yên được không?"
"Em làm răng biết được, cái nớ th́
chịu..."
Tôi lại hỏi anh tôi, lúc đó đă nằm trên giường
v́ không chịu nổi sự chen lấn dưới
đất:
"Anh, sáng mai chắc yên há anh?”
"Làm răng biết được, anh cũng
chịu."
Tôi đâm ra thất vọng ngang. Những ánh lửa
xẹt ngang dọc phía ngoài cửa sổ không c̣n
nữa, nhưng hai cánh cửa vẫn c̣n bị dội
bật ra bật vào v́ những tiếng nổ lớn.
Súng to, súng nhỏ đang nổ ran từ mặt
quốc lộ, từ miệt chùa, từ phía sau
đường rầy. Căn nhà của chúng tôi
nằm đơn lẻ, chịu đựng bốn
mặt đang đánh nhau. Quốc lộ và bờ
ruộng ở ngay trước mặt, đường
rầy xe lửa ở đàng sau lưng. Hai phía hai bên,
một xéo với đồn trường bia, một xéo
với đồn vận tải An Cựu.
Không thể nằm yên để chờ tới sáng, tôi
lại khơi chuyện:
"Sáng ngày yên chắc ra đường dễ sợ
lắm!"
Thái phà thuốc trúng ngay vào mặt tôi:
"Buồn quá, lúc này có súng đỡ sợ hơn
nhiều. Biết vậy tối qua em lên đơn
vị."
"Không biết tới sáng đă yên được
chưa?”
Tôi hỏi hoài một câu như người ngớ
ngẩn: Biết đâu. Mà yên chứ. Sáng ra mà súng
đạn không ngừng th́ chết hết.
"Trời ơi, đừng nói, tụi nó trong vườn."
Đứa em gái của tôi cười nhỏ:
"Má sợ chi mà sợ dữ rứa. Chị Vân, sáng
ra chị với em đi thăm trận đánh nghe. Coi
chừng về Sài G̣n viết một phóng sự
chiến trường đầu năm đầy gay
cấn."
"Giỡn chi mà giỡn vô hậu tế đợi
rứa. Mấy chuyện đó đừng có ham.”
Má tôi cằn nhằn. Nhưng chúng tôi đă bớt
dần cơn sợ hăi, bắt đầu nói chuyện
được, mà câu chuyện cũng bớt ngớ
ngẩn. Lúc này tiếng súng ở trong vườn đă
dịu dần, nhưng xung quanh th́ vẫn c̣n nổ ran.
Tôi nằm mà mắt không rời khỏi cánh cửa
sổ phía trên đầu đứa em gái. Tôi nằm
chờ, cho tới khi bầu trời tối mịt bên
ngoài kia bị hút bớt màu đen đặc.
Lúc này tôi cần sự b́nh tĩnh, cần sức
mạnh. Tôi mong cho trời sáng th́ trời đă
gần sáng rồi. Mấy chiếc lá cây phất phơ
bên ngoài cửa sổ đă hiện lờ mờ,
rồi rơ dần. Mấy đứa cháu tôi kêu khát nước.
Chúng tôi chờ đợi cho tiếng súng bớt ồ
ạt, Thái mới đi ra ngoài rót một ly nước
cho hai đứa nhỏ. Tiếng súng đă có vẻ thưa
hơn, bức màn đêm đă bớt mắc kẹt
đạn. Anh tôi hy vọng hơn ai hết:
"Thái, coi yên súng đem xe Honda ra ngoài, anh muốn lên
Từ Đàm. Chắc chị và mấy đứa nhỏ
sợ ghê lắm."
Gia đ́nh tôi lúc này đang chia làm hai. Chị dâu tôi và
mấy đứa nhỏ c̣n ở nhà trên đầu
dốc Bến Ngự. Nên anh tôi là người lo
lắng nhất. Nhưng chắc không sao. Moị người
tự an ủi. Đến sáng là yên, vậy sáng rồi.
Môi má tôi đă bớt tím, tay chân bà cũng bớt run
rẩy. Nhưng nỗi vui mừng của chúng tôi không
được lâu. Đúng lúc tôi nghe tiếng gà gáy nơi
chuồng gà th́ tiếng súng đă bắt đầu
nổ lại. Rồi có tiếng đấm cửa
rầm rầm, cùng nhiều tiếng chân chạy ở
ngoài sân:
"Mở cửa, mở cửa."
Thôi chết rồi. Chúng nó đă tới. Chúng nó
sắp tràn vào nhà. Má tôi mặt tái xanh, định
chạy tới tắt ngọn đèn vừa mới
thắp. Tiếng đại bác dưới Phú Bài
bắn lên ầm ầm. Tiếng súng nhỏ nổ chát
chúa. Cánh cửa muốn bật tung v́ những tiếng
đập. Thái ḅ ra giữa nhà.
"Suỵt, để con."
Rồi hắn chạy ra mở toang cửa. Có nhiều
tiếng quen thuộc la hét bên ngoài. Cánh cửa vừa
mở tung ra, th́ cả nhà đầy người. Chú tôi
ở phía dưới đường rầy, sát chân núi
Tam Thái, cùng gia đ́nh con dâu với những gia đ́nh
hàng xóm khác chạy túa vào. Trẻ con người
lớn chen chúc chật cả một gian nhà giữa
rộng răi. Mấy đứa nhỏ hoảng sợ quá,
ngă vật ra giữa nhà, có đứa vừa run
vừa đái ra quần. Chú tôi vừa khóc vừa
kể:
"Sập hết rồi chị ơi. Trên đó
bị mọt-chê câu, nhà mụ Nghệ bên
cạnh đó mất nửa cái nhà."
Bé, đứa con trai lớn của chú tôi ôm một lúc
hai đứa con nhỏ, vừa thở vừa nói không
ra hơi:
"Tụi nó đông lắm. Trên con đầy nhà
rồi bác."
Tôi ṭ ṃ:
"Làm sao em chạy xuống được?"
"Dân họ chạy xuống dưới này hết.
Trên đó mọt-chê câu sập hết nhà
cửa. Chạy giữa đường em thấy
Việt cộng tụm năm tụm ba, nó ngồi
cả trước sân nhà người ta."
Chú tôi chợt nh́n quanh rồi hốt hoảng:
"Con Hồng đâu rồi, con Hồng bế
thằng Điện chạy phía nào rồi. Thôi chết
con tôi cháu tôi...”
Chú tôi chưa kịp dứt câu th́ đă ngă phịch
xuống v́ một quả B-40 phạt xuống mái ngói.
Tôi đang há hốc mồm th́ gạch vụn đă
đầy một miệng.
Cái bô để dưới chân giường không
biết bị ai đá vào tràn ra nhà. Tôi vừa sát người
xuống th́ đă phát nôn v́ một mùi thúi hoắc xông
lên tận đầu, nhưng không c̣n cách cựa
quậy ǵ nữa. Nhiều đứa trẻ không
chịu đựng nổi ré khóc vang nhà. Nhưng
tiếng khóc bị chận ngay v́ những bàn tay đă
bịt miệng, hoặc những tràng súng cắt đứt.
Trời ơi, đến sáng rồi sao không yên? Tôi
quay quắt hỏi đứa em:
"Lần trước có lâu như vầy không?"
"Không, lần trước bắn ít hơn, không có
đại bác câu nhiều như thế này. Sáng ra là nó
rút đi hết."
Bé ḅ lại phía tôi:
"Trời, chị không tưởng nổi mô. Em
thấy tụi nó máu me cùng ḿnh. Tụi nó ngồi bên
vườn thím Quyệt, em chạy xuống đây em
thấy."
"Thấy mày chạy họ để yên à?"
"Tụi họ cũng vừa chạy vừa bắn,
ḿnh cũng chạy đại. Ở trên đó chắc
chết quá chị ơi."
Nó vừa nói vừa ôm chặt đứa con gái trong ḷng.
Vợ nó khóc thảm thiết:
"Anh coi đi t́m con Hồng với thằng cu Điện,
không tui chạy ra cho súng bắn cái đùng cho
rồi."
Má tôi gắt:
"Chết đến nơi không lo, ai mượn
tụi bây không chạy với nhau."
"Làm răng chạy với nhau được,
mạnh ai nấy chạy, tưởng c̣n sống đến
chừ mô."
Hai vợ chồng nó nín im, nhưng chỉ một giây
sau, tôi lại nghe chúng càu nhàu căi cọ. Một lát sau
tiếng súng lại thưa dần. Bé vội chạy ra
sân rồi ṃ dần ra đường. Chừng hai mươi
phút sau nó trở lại, một tay bế thằng con.
"Chị...”
Bé hạ giọng, tiếp:
“Em đi t́m con Hồng với thằng Cu, em phải
đi bằng ngả sau vườn. Ngang đường
rầy em gặp tụi nó, nó hỏi em đi mô rồi
bắt giữ em lại. Chúng nó có ba đứa,
một đứa bị thương. Em năn nỉ nói
đi t́m con lạc, ban đầu nhất định nó
không cho, nó hỏi em làm nghề ǵ. Em nói thợ
mộc, em bị lạc con. Về sau nó cho đi. Em tính
nếu nó bắt, em liều chết giựt súng.
Một thằng bị thương gần chết,
một thằng bị thương nhẹ không cầm súng
được, c̣n thằng kia ốm yếu hơn
em..."
Hà, em gái tôi, nạt:
“Thôi, mi đừng có ba hoa, nói phách tấu...”
“Em nói thiệt, người ta quân đội mà...”
Rồi nó sực nhớ lại đồn trại và
đồng đội, nó ngồi buồn hiu. Lát sau
thở dài:
“Lính tráng mà ngồi một xó như ri có nhục không?”
Những người xóm trên vào nhà tôi bây giờ
mới hoàn hồn lại. Người vạch vú cho con
bú, người bắt đầu kháo chuyện. Mỗi
người kể một chuyện đại để
cũng thấy Việt cộng ra sao. Họ kể
họ cũng chạy suưt chết, cũng thấy viên
đạn nó to và đỏ rực như đâm vào
mặt mà không biết sao lại không trúng.
Bỗng nhiên vào lúc 8 giờ sáng, tiếng súng như
dồn về miệt Phú Cam. Tiếng đại bác dưới
Phú Bài không câu lên nữa. Lúc đó chúng tôi mới
lần ra sân. Vườn cây yên tĩnh không một bóng
người, nhưng trên cỏ, trên đất, c̣n
lấm tấm những vạt máu khô đặc.
Một vài nhánh cây găy, nơi bờ tre cuối
đường ngả ăn thông ra mặt đường
rầy, những cành khô được banh ra, chừa
những lối đi gọn. Mấy chị em chúng tôi
hết sức sung sướng hít thở, ai cũng
mừng thầm như thế này là đă yên. Anh tôi
chuẩn bị để lên nhà ở Từ Đàm. Tôi ra
cái bể cạn trước sân múc nước súc
miệng, đánh răng. Những người trú
ngụ trong nhà tôi vội vă bồng bế nhau trở
về xóm. Chú tôi là người chạy băng ra
khỏi nhà trước tiên. Ông quá lo lắng không
biết nhà cửa c̣n hay đă mất. Tôi cố nhón gót
nh́n lên miệt núi, cũng không thấy được
ǵ. Thái, em tôi, hỏi:
“Chị nh́n chi rứa?”
Tôi thở ra:
“Chắc đêm qua trên núi mồ mả bị chân
đạp lung tung, mộ bác mới chôn.”
Mồ mả mới chôn đây là mộ của ba tôi.
Từ Sài G̣n, những ngày cuối năm vợ
chồng con cái tôi đang chuẩn bị đầu năm
về ăn Tết ở Huế th́ tin ba tôi hấp
hối. Leo lên một chiếc máy bay quân sự chở
thực phẩm cho lính ở tiền đồn, tôi
về tới vừa kịp những giờ cuối cùng
của người cha.
Thái cúi đầu. Nó đi tới bể cạn múc nước.
Tiếng má tôi kêu:
“Thái, con đem cái này đổ ra sau vườn.”
Anh Lễ tôi đă mặc quần áo xong. Chiếc Honda
đă được dựng sẵn. Tôi nói:
“Cho em lên Từ Đàm với.”
Anh Lễ bảo:
“Để coi sao đă. Thấy không yên rồi, ngoài
đường vắng tanh vắng ngắt.”
Nhưng lời anh tôi nói chưa dứt th́ có nhiều
tiếng động ́ ầm của xe chạy vào thành
phố ngả quốc lộ. Chúng tôi đứng ở
sân nh́n ra. Một đoàn xe cam nhông chở lính Mỹ và
những khẩu đại bác đang từ từ
đỗ lại ngoài đường nối hàng dài. Lính
Mỹ nhảy xuống, Thái bật la to:
“Bác ơi, yên rồi, quân Mỹ đă lên. Ḿnh ra
đường, ḿnh coi được rồi.”
Má tôi kêu:
“Vào nhà hết, vào nhà không nó bắn.”
Anh tôi cản:
“Đứa nào ở đâu cứ ở đó. Đứng
yên đừng có chạy mà nó tưởng Việt
cộng chết hết cả giờ.”
Đoàn lính Mỹ đă xuống xe, tiến vào các khu vườn,
nằm ḅ xuống vệ đường, lủi
xuống phía ruộng. Chỉ một phút sau vườn
nhà tôi đă đầy lính Mỹ.
Một vài người lính Mỹ nh́n chúng tôi ḍ
chừng rồi lủi ra phía vườn gườm súng
chĩa vào các bụi cây trước khi băng qua vườn
khác. Không có ǵ xảy ra hết. T́nh h́nh hoàn toàn yên tĩnh.
Chúng tôi đi vào nhà ngồi yên ở tấm ngựa
gỗ. Ra đường lúc này nguy hiểm. Ai cũng
nghĩ thế. Có lẽ lính Mỹ đang đi lùng
Việt cộng đây. Chúng tôi im lặng ngồi nh́n
nhau, hồi hộp chờ đợi. Hai người lính
Mỹ đi ngang qua sân, hờm súng vào trong nhà. Chúng tôi
cố giữ vẻ mặt thật thản nhiên. Má tôi
c̣n có vẻ cố gắng làm ra vui mừng nữa. Hai
người lính Mỹ dừng lại, rồi đưa
mắt cho nhau, đi vào bậc thềm, hất hàm ra
hiệu cho chúng tôi ra đứng ở cửa hết.
Một người lính Mỹ nói hai tiếng ǵ đó
không phải tiếng Mỹ.
Chúng tôi ngơ ngác nh́n nhau, người lính Mỹ
lộ vẻ tức giận, nạt lớn:
“Kên cượt.”
Anh tôi hỏi một câu tiếng Anh, nhưng người
Mỹ vẫn la:
“Kên cượt.”
Má tôi là người hiểu ra đầu tiên, bà nói
lớn:
“Ông Mỹ hỏi thẻ căn cước.”
Người lính Mỹ gật đầu. Người
đi cùng chỉ súng thẳng vào người chúng tôi.
Chúng tôi tŕnh thẻ căn cước. Khi tôi đưa
tấm thẻ của cơ quan VOF (Voice of Freedom) th́ người
lính Mỹ gật đầu và khuyên chúng tôi trong lúc này
nên ở yên trong nhà. Trả thẻ lại, một người
trọ trẹ nói tiếng Việt cám ơn, rồi
đi ra phía vườn. Chúng tôi chưa kịp ngồi
xuống tấm ngựa gỗ đă nghe mấy
tiếng nổ lớn. Thái quen với súng đạn, kêu
lên:
“Thôi, B-40 của Việt cộng rồi.”
Tiếng B-40 từ phía núi, từ phía đường
rầy bắn ra như mưa. Phía ngoài đường,
những xe thiết giáp mang súng cối 40 ly bắn
trả lại kịch liệt. Từng mảnh ngói
bị sức ép, hoặc trúng sướt lằn đạn
rơi tứ tung lên đầu lên cổ. Cả nhà
lại chui vào pḥng trong. Cùng lúc đó những
tiếng la khác nổi lên như ri ở miệt ngoài
đường. Cái ǵ vậy? Thái muốn chạy ra trước
tiên. Má tôi nắm áo giữ riệt nó lại, nhưng
Thái cứ van nài măi. Cuối cùng hắn ló ra cửa,
thụt lui thụt tới v́ những tiếng súng
bắn đi trả lại cứ vèo vèo ngang qua mái nhà.
Ầm. Ầm. Vài thân cây lớn ở ngoài vườn
đổ xuống. Chúng tôi ai nấy nằm sát
xuống đất, buông trôi cho sự may rủi.
Lần này chắc chết quá. Cầu nguyện đi.
Tiếng la khóc ở vườn bên, ở trước
mặt càng lúc càng thảm thiết. Rồi tiếng kêu
chết kêu cháy vang lên.
Mấy người lính Mỹ đang núp ở vườn
sau vội chạy ra đường phía có tiếng kêu
khóc. Lúc này đạn bắn đi cứ như mưa,
tiếng B-40 yếu dần rồi tắt luôn. Tiếng
kêu khóc đă nghe rơ mồn một. Chúng tôi không ai
bảo ai cùng một lượt chạy ra sân. Căn vườn
mé mặt trước, đang có căn nhà bốc cháy
và lính Mỹ đang cố dập tắt lửa. Lúc này
tôi mới hoàn hồn lại chút ít. Má tôi lo sợ không
biết lửa có lan sang căn nhà thờ của chúng tôi
không. Bà hét gọi mấy đứa cháu lo gói đồ
lại, có ǵ c̣n mang ra được chút của
cải. Trong tiếng lửa nổ lốp đốp,
trong âm thanh ồn ào của những tràng tiểu liên
bắn ran khắp các miệt vườn, tiếng khóc
nổi lên thảm thiết: D́ ơi, dượng ơi,
má tui chết rồi. Ai cứu cho với. Tiếng kêu,
tiếng khóc, tiếng chân hàng xóm chạy th́nh
thịch bất chấp cả súng đạn. Má tôi lùa
chúng tôi vào nhà. Thái được cử sang chữa
lửa. Mấy người lính Mỹ đi ṿng
lại, qua sân nhà, nh́n vào. Người Mỹ soát
giấy chúng tôi lúc năy đưa mấy ngón tay và nói
một câu tiếng Việt bập bẹ đại ư báo
cho biết ngoài đó có mấy người chết.
Xong rồi họ ra xe, đoàn xe rồ máy chạy vào
thành phố, nhưng chỉ mấy phút sau, có lẽ xe
chưa kịp qua khoảng cầu An Cựu, th́ chúng tôi
nghe miệt cầu đủ thứ súng nổ dữ
dội. Một lát, đoàn xe Mỹ ầm ầm rút
lui, không c̣n kiêng nể ǵ nữa, cứ bắn như
mưa dọc hai bên đường. Nhưng lần này,
xe trở về rất ít, h́nh như chỉ có đoàn
xe đi sau. Có lẽ những chiếc xe này về
chở thêm súng đạn, và đoàn xe đi trước
đă lọt ổ phục kích.
Tiếng súng ở mạn cầu đă thưa thớt
dần.
Chừng mười lăm phút sau, khi nh́n ra đường,
chúng tôi thấy có một đoàn người mặc
quần áo màu vàng, vai vác súng đi đầu trần.
Tôi lật đật ra sân: Thôi đúng rồi, họ
rút đi, và lính ḿnh về. Tôi mừng rỡ như
điên định đưa tay vẫy th́ chợt
nhận ra nơi hông họ đeo cái bị rết. Lính
quốc gia th́ mang ba lô chứ. Tôi sững lại. Đoàn
người cũng không đông lắm, chỉ
chừng vài chục người.
Thái lúc này mới thấy sợ hăi:
“Thôi chết em rồi. Họ vào biết em là cán
bộ xây dựng nông thôn th́ không cách ǵ sống
nổi.”
Tôi bảo nó đưa giấy tờ cho tôi giữ. Tôi
cẩn thận bỏ giấy tờ của nó trong cái túi
áo rồi xếp gọn đặt giữa mớ
quần áo đang gói ngổn ngang trong một tấm
drap lớn. Anh tôi cố tin tưởng:
“Anh nhà giáo chắc không can chi. Nếu họ hỏi
em, em nói em là học sinh nghe.”
Thái dạ nhưng nghe chừng yếu x́u. Gia đ́nh Bé
lại lật đật dọn xuống. Mấy bao
bố đựng gạo, áo quần, mấy cái soong. Chú
tôi không đi, má tôi kêu trời kêu đất, nhưng
tụi em tôi bảo chú ở lại giữ nhà. Trên
đó đă có cái hầm cũ làm sau vụ pháo kích
lần trước. Má tôi không tin tưởng vào cái
hầm đó lắm. Bà bắt Bé đi gọi ông
xuống nhà, nhưng Bé vừa đi một lát, đă
hớt ha hớt hải quay lại:
“Bác ui, họ về đông như kiến. Họ
đang họp ngoài nghẹo, họ treo cờ, họ hô
hào. Họ lấy hết Huế rồi. Người ta
bảo bên Phú Văn Lâu treo cái cờ ǵ to thục lúc.
Con vừa tới thấy họ đang bắc loa
gọi, con lủi nhanh vào vườn Bác Ái lủi
về, may mà họ không thấy.”
Tôi hỏi có ai bị thương không, Bé nói là
thấy họ đông lắm, sáng thấy có người
bị thương, chừ đem đâu hết rồi.
Má tôi nói liệu có di tản lên Từ Đàm được
không th́ Bé cho biết là đường sá họ gác
hết rồi, góc nào cũng có người đứng
gác. Tôi hỏi đi hỏi lại là mày có thấy
tận mắt không, nó bực ḿnh: “Th́ thấy
mới chạy thục mạng về đây. Đồn
vận tải thấy vắng teo như không có người
ở, tường thành ǵ cũng đổ nát
hết...”
Lúc đó khoảng mười một giờ. Chúng tôi
hết đứng lại ngồi, lóng ngóng nh́n ra
đường. Lát lát má tôi sai một đứa cháu
ra nh́n xem có ai đi lại không. Nhưng đường
xá vắng ngắt. Mấy lần nó định đi
lần về phía nghẹo đường xay, nhưng
không đủ can đảm lê bước tới đó.
Lúc này nó đă nh́n thấy ở đó treo một lá
cờ VC. Nó trở vào mặt mày rầu rỉ:
“Trời lính mà ai cũng như tui th́ Huế mất là
phải. Biết vậy đừng có về cho xong. Đă
nghe lịnh cấm trại rồi mà c̣n về.”
Bé buồn cũng phải. Đáng nhẽ ra dù Huế c̣n
hay mất nó cũng phải có mặt với anh em. Nhưng
ba tôi chết cuối năm, Bé được giấy
phép mấy ngày đầu năm để lo việc nhà.
Lúc này, đèn đuốc trên bàn thờ ba tôi lại
sáng trưng, mỗi đứa chúng tôi đều
thắp hương và cầu nguyện. Đây là căn nhà
thờ duy nhất của ḍng họ tôi mà phải
suốt cả một đời lăn lộn cực
khổ làm ăn lương thiện, ba tôi mới
gầy dựng nổi. Căn nhà chưa tu bổ th́ ba
tôi đă có một chỗ ngồi trong căn nhà
thờ này. Súng đạn đêm qua và sáng nay đă nhân
đức với căn nhà thờ của ḍng họ chúng
tôi ngoài mức tưởng tượng.
Rồi chúng tôi cũng c̣n lo ăn nữa. Bữa cơm
trưa được nấu vội vàng nhưng không có
đồ ăn. Ngày cuối năm th́ xong việc đám
ma. Đến ngày mồng một gia đ́nh tôi nguyện
ăn chay để cầu nguyện cho người
chết. Đáng nhẽ phải ăn Tết ở ngôi nhà
anh Lễ tôi ở Từ Đàm, chúng tôi, kể cả anh
Lễ, má tôi, cô em gái, mấy đứa cháu nhỏ, cùng
mấy đứa em con chú đă t́nh nguyện ở
lại để cầu kinh. Căn nhà thờ chứ không
phải là nơi để ở nên thiếu thốn
đủ thứ. Chúng tôi phải nạy cửa nhà
ngang, xuống căn nhà phụ cho ông giáo Trường
An Cựu thuê, vợ chồng họ về quê ăn
Tết, để lấy chén bát và t́m đồ gia
vị như nước mắm, muối ớt. Khổ
là v́ không định ở đây, chúng tôi không tích
trữ gạo. Lúc này đă không c̣n nghe tiếng súng,
hoặc có th́ cũng chỉ là tiếng súng nhỏ
vọng xa xa, ở một miệt nào đó. Như
thế là nghĩa lư ǵ? Không có một chiếc máy bay,
không có một chiếc xe chạy.
Đoàn xe Mỹ đă vào tới thành phố tan biến
đi ngả nào. Những Việt cộng vừa tụ
họp tại nghẹo Hàng Xay bỗng tản đi
đâu hết. Tại sao chú tôi ở xóm trên chỉ cách
một con đường rầy, mấy cái vườn,
cũng không xuống được. Lâu lâu lại
thấy một đoàn người đi đâu ngoài
đường phía dưới quốc lộ, vào thành
phố. Căn nhà thờ của chúng tôi nằm ở
An Cựu, sát ngoại ô, lại ngay đường
quốc lộ nối Phú Bài với Huế.
Trong thành phố Huế lúc này ra sao, chúng tôi không tài nào
đoán nổi. Cả nhà hợp nhau lại sửa căn
hầm cũ dưới nhà bếp. Tiếng súng càng
về chiều càng dữ dội. Ngoài đường
bỗng vắng tanh. Ở nhà bếp, nhà trên, dân trong xóm
đến tỵ nạn nằm la liệt mấy căn
buồng nhỏ được che hai ba mặt tường.
Má tôi sai đứa cháu dâu nhóm bếp nấu một
nồi cháo, chắc chẳng ai c̣n ḷng dạ nào
ngồi ăn cơm chiều. Nhưng nồi cháo
nấu vừa chín tới th́ Thái đă nh́n thấy có
người đi lại ở ngoài đường.
Mặc kệ tiếng súng đang nổ ran mọi phía,
mặc kệ bom đạn có thể nổ ngay trên
đầu ḿnh, cả nhà chúng tôi tràn ra sân, rồi ra
đường cái. Một hai người đạp xe
từ phía cầu An Cựu đi lui đi tới, Thái
vẫy lại hỏi: “Ngoài nớ có ai đi không?”
“Người ta tản cư qua bên sông hết.” Má tôi
la lớn:
“Lên Bến Ngự Từ Đàm được không?”
“Chắc được.”
Nghe tiếng “chắc được” thôi mà cả
gia đ́nh tôi cũng tràn trề hy vọng. Mấy
đứa cháu giục phải di tản qua bên kia sông
hoặc lên Từ Đàm chứ ở đây chắc
chết hết. Việt cộng đă về đóng kín
hết mọi nhà, mọi đường phố. Nhà chúng
tôi lại nằm ngay giữa hai cái đồn và
ngọn đồi Thánh Giá nằm ngay phía đàng sau lưng.
Nếu xáp lá cà ở đây một trận chắc
cả làng An Cựu ra tro hết. Má tôi vơ vội
một ít quần áo của ba tôi những thứ c̣n
bỏ lại, không đem liệm cho người
chết. Bà gói lại cẩn thận. Gia đ́nh
mấy đứa em họ tôi th́ lo gánh gạo,
quần áo, nồi chảo và những dụng cụ
cần thiết. Tôi xách cái ví tay, cái xách nhỏ. Anh tôi
dắt chiếc Honda chở em gái tôi với hai đứa
cháu đi trước. Tới gần cầu An Cựu,
má tôi nói anh cứ đi trước đi, chở con và
em lên rồi trở lại đón từng người
bằng xe cho mau. Thái lấy chiếc xe đạp t́m
đường sang phố. Chúng tôi chia tay ở trước
đồn vận tải. Từng đoàn người
cắm cúi lật đật, bồng bế, xách gói
chạy qua phía cầu. Chúng tôi theo họ nhưng
tới cầu cả bọn không được đi
về phía Tân Lăng, Phú Cam mà cứ bị xua lại
cầu. Lúc chúng tôi chạy tới, một trong hai người
đàn ông gác cầu đưa tay chận lại:
“Đi đâu, bà con ai ở yên trong nhà, không được
chạy.”
Tôi đứng sững đàng sau lưng má tôi. Hai người
đàn ông mặc quần áo ka ki vàng, nhưng chân đi
dép. Không phải là lính quốc gia rồi; chắc
họ là quân giải phóng. Tôi nh́n sững họ không
nói được một câu, miệng tôi cứng
lại. Má tôi nói như muốn khóc:
“Nhà cửa sập rồi mấy ông ơi, c̣n chi mà
ở. Tui sang nhà bà con bên kia sông.”
Lúc đó tôi không c̣n thấy bóng em tôi chở em gái và
cháu tôi đâu nữa. Tôi nghĩ là anh đă đi thoát
rồi. Hai người lính vẫy cho chúng tôi qua
cầu. Mấy vũng máu đọng giữa cầu chưa
khô, ruồi nhặng bu đen x́. Chỉ một đoạn
đường ngắn mà tôi nh́n thấy biết bao
nhiêu dép, giày vớ, quần áo rách, bị rết, ba lô
văng bừa băi, dính lẫn với máu và những
mảnh thịt.
Má tôi bảo qua cầu rồi cứ đi dọc
bờ sông t́m đường lên căn nhà ở
Từ Đàm. Nhưng đi được một đoạn,
chúng tôi thấy những người đi trước
lúp xúp chạy trở lại, vừa chạy vừa khóc.
Chúng tôi hỏi họ không nói ra được, cứ
làm dấu vẫy lui. Tôi chận một cô nhỏ:
“Sao trở lui vậy em?”
“Trên nớ, nơi cầu Phủ Cam họ đứng
đầy, họ gác, họ đuổi lui.”
“Cứ đi tràn không được à?”
“Họ bắn hai ba người.”
Má tôi níu chúng tôi lại. Mấy đứa em tôi cũng
hốt hoảng bảo vợ con tất tưởi
đi lui. Chúng là lính gặp họ chắc không ổn
rồi.
Không hiểu nhờ phép lạ nào mà khi qua cầu
họ không hỏi tỉ mỉ. Khi má tôi xin qua cầu
được, cả đoàn cứ nối đuôi nhau
mà chạy. Cũng có lẽ họ c̣n bận với
những đoàn người đi sau.
Qua được cầu rồi, lúc này tôi mới dám
nh́n hai bên đường phố. Chợ An Cựu như
một băi chiến trường, máu c̣n chưa khô, máu
in đỏ trên những bức tường loang lổ
vết đạn. Một chiếc xe tăng lủi vào
lề đường đâm vào một căn phố,
tấm bảng hiệu c̣n treo lủng lẳng. Hai ba căn
phố không c̣n h́nh dáng ǵ. Không một căn nhà trước
đường nào c̣n nguyên. Giữa đường
đầy rẫy chướng ngại vật, máu me,
quần áo, rác, sắt vụn, gỗ ván. Chúng tôi len
lỏi mà đi. Không một đôi mắt nh́n ra
cửa, những căn nhà như đă hoang vắng
hết. Không c̣n biết đâu yên mà chạy tới
nữa. Thôi cứ liều, má tôi nói liều mà t́m
đường lên Từ Đàm, gia đ́nh họp
lại sống chết có nhau. Chúng tôi đi hết con
đường ngắn, dọc xuống Lê Lợi. Con
đường đàng trước mặt dẫn sang
nhà bưu điện và cầu Tràng Tiền sao vắng
ngắt. Tiếng súng ở mặt nhà dây thép nổ như
bắp rang. Đoàn người này đi tới, đoàn
người kia chạy lui, không kịp nghe nhau trả
lời, cứ thế, chạy loanh quanh trong những khu
vực chưa bị kiểm soát. Cuối cùng chúng tôi
dồn vào khu nhà thờ ḍng Chúa Cứu Thế.
Không c̣n chạy đi đâu được nữa, phía
trước mặt người ta đă chạy lui
lại hết. Phía đàng sau cũng không c̣n đường
trở lui. Má tôi kêu trời kêu đất. Anh tôi đă
mất tăm dạng. Ngoài đường thưa người
dần và nhiều tiếng súng gần tới nơi.
Mọi người chạy ào vào bên trong nhà thờ
hết. Tất cả được dồn vào khu nhà
giảng. Tiếng súng như đă bao quanh khu nhà
thờ.
Má tôi kêu chúng tôi xuống căn hầm xây dưới
giảng đường nhưng chỗ đó không c̣n
chen chân nổi. Chúng tôi lại kéo nhau vào một
chỗ trong góc. Bé trải chiếc chiếu cũ,
cả nhà hơn mười người, gồm người
lớn và con nít chen nhau một chỗ ngồi nhỏ.
Khi t́m ra được một chỗ ngồi rồi, tôi
mới nghe thấy tiếng vo ve từ dưới
hầm đưa lên, tiếng trẻ con la khóc,
tiếng căi nhau, tranh giành nhau một góc nhà. Bên ngoài
tiếng súng vẫn nổ ṛn ră. Được một lát
khi tiếng súng dứt, một số người khác
chạy đến nhà thờ. Tôi chạy ra sân gặp
Thái đi vào. Nó chụp lấy vai tôi: "Vô đi
chị. Súng c̣n nhiều lắm."
Tôi hỏi:
“Sao em trở lại, có gặp anh Lễ không?”
“Không chị ơi, em lên cầu Kho Rèn, định
đi qua cầu, gặp họ họ kêu lại, bắt
giữ em. Em năn nỉ măi mới cho đi. Em tưởng
em bị bắt rồi.”
Tôi hỏi Thái thấy ǵ không. Thái nói thấy gần
mũi cầu xác chết c̣n la liệt. Một số người
bị bắt ngồi bên kia cầu. Có hai ba người
Mỹ bị trói dẫn đi.
Một số người khác lại tràn vào nhà
thờ, tôi tới hỏi thăm có ai miệt cầu
Bến Ngự về có thấy một người
đàn ông chở hai đứa nhỏ và một cô gái
không. Một cậu nhỏ kể: có thấy một người
đàn ông, chở hai đứa nhỏ với một cô
gái cứ phóng đại xe qua cầu. Họ bắn
mấy phát, xe suưt đâm xuống sông. Họ giữ
lại, rồi thấy tha cho đi lên phía cầu
Bến Ngự. Thái nghe nói quả quyết anh Lễ
đă thoát. Tôi dẫn Thái tới chỗ má tôi
ngồi. Mấy đứa cháu nhỏ đang ngồi
ăn bánh chưng. Má tôi đưa mắt nh́n tôi ḍ
hỏi. Tôi kể lại chuyện vừa nghe được
cho má tôi nghe. Thái kêu khát nước, vặn cái ṿi nhưng
không có một giọt nước nào. Mấy đứa
nhỏ đái cả ra chiếu.
Người này cứ hỏi người kia măi về
những điều đă trông thấy, đă kể. Tôi
hỏi thăm Thái về đường đi lên
Từ Đàm, Thái nói qua cầu Tràng Tiền được,
không đi lên Nam Giao được. Nó đă cố
hết sức, nhưng thấy không có cách nào nên đành
quay về nhà thờ, không ngờ gặp gia đ́nh cũng
ở đó. Tôi và Thái cứ nghe êm êm tiếng súng là
ra sân đứng ngóng, cho tới chiều tối không
thấy anh tôi trở lại. Chúng tôi dắt nhau đi
vào. Thái lấy cái áo măng tô của ba tôi để
lại, khoác vào người tôi:
"Chị mặc đi kẻo lạnh."
Trời mưa lất phất, cả một ngày tôi không
c̣n đủ sức để ư đến bầu
trời, đến cây cỏ. Tôi nh́n lên bầu
trời màu ch́, nặng nhọc, những hạt mưa
bám vào tóc, vào mặt không làm tôi lạnh hơn.
Sự lạnh lẽo, tê cóng, lo sợ, run rẩy
suốt một ngày đă bóp cứng da thịt, và
thể xác tôi đă như bị ướp trong tủ
lạnh. Khi trở vào tôi bước qua chân mấy người
bị thương nằm la liệt ở một pḥng
nhỏ gần cửa ra vào. Mấy người đàn
ông đang băng bó, họ làm việc cũng lăng xăng
lắm. Mấy ngọn đèn cầy đă được
thắp ở mấy cái bục, ở các hàng ghế,
khi tôi vừa xuống khỏi mấy bực cấp nơi
khoảng giữa giảng đường xây cao, đặt
tượng Đức Mẹ, tôi bỗng ngồi thụp
xuống. H́nh như Thái cũng kéo tay tôi nữa.
Một tiếng vỡ khô khan. Tiếng một người
rú lên. Khi định tỉnh nh́n lại, một trong
hai chậu cây kê ở hai cái bệ đá đă đổ
xuống. Chị đàn bà nằm sấp xuống
nền gạch, bên cạnh những mảnh sành vỡ.
Chị đă dựa đầu vào cái chậu, và quên
đi. Cái chậu rơi, đẩy chị ngă bổ nhào.
Nhiều tiếng chửi rủa vang lên ở nhiều góc
tối. Tôi ngồi bó gối bên cạnh má tôi và Thái.
Má tôi chưa ăn ǵ, tôi cũng vậy. Thái hỏi tôi
có đói không rồi chạy đi, một lát, nó
trở vào với đ̣n bánh tét trên tay. Cầm
miếng bánh đưa lên miệng, tôi nuốt không trôi.
Tôi cũng không thấy đói, thấy khát mà chỉ
thấy trong ḷng cồn cào trăm thứ.
Một ngày rồi, tôi không nhớ chồng con. Căn
nhà nhỏ của gia đ́nh tôi ở Sài G̣n lúc này ra
sao? Có yên ổn không? Chồng con tôi đang làm ǵ? Tôi
tưởng tượng từng khuôn mặt các con, h́nh
dáng đi ra đi vào của chồng, rồi cả
bữa cơm tẻ nhạt nữa. Bữa cơm không
có bàn tay người đàn bà, thiếu chỗ
ngồi đó, bữa cơm tẻ nhạt tội
nghiệp lắm. Má tôi cầm chặt tay tôi:
“Con ơi, dựa vào vai mạ mà ngủ.”
Thái đứng lên, nó nói phải đi kiếm một
chỗ nào tốt hơn. Tôi gục đầu vào vai má
tôi. Mấy đứa cháu nhỏ đang khóc, đ̣i nước,
đ̣i cơm, đ̣i sữa. Tôi nghe tiếng cánh
cửa sắt phía cửa chính kêu lẻng kẻng. Không
có một ai ở ngoài đường, ngoài sân. Ngôi nhà
giảng rộng lớn có mái cong và nhiều chỗ
đặt kính, tường thật dày, cách khoảng
những lá cửa bằng gỗ lim đóng chặt.
Nhiều tiếng đạn lớn bay ngang qua khu nhà
thờ, rồi tiếng nổ ầm ầm sau đó. Má
tôi kéo tôi tựa người vào bà. Tôi ngồi như
thế và nh́n măi ngọn đèn cầy đặt nơi
chân ghế, trước mặt. Ngọn lửa không
nhắc nhủ tôi ǵ hết, cũng không đem tới
chút hy vọng nào.
Tôi nghe những tiếng khóc nhỏ, nhiều vô số
kể. Có tiếng khóc thét lên ở góc pḥng đằng
kia. Chắc một người nào đó vừa mới
chết.
Có tiếng dép lẹp xẹp từ một ngách nhỏ
nối liền nhà ngang. Rồi một cái bóng to lớn
nổi lên ở khoảng tường đằng trước
mặt. Rồi lố nhố những cái bóng nhỏ khác,
đầu với nửa người cũng hiện lên
theo. Tôi quay lại, trên cái bục cao, dưới tượng
Đức Mẹ, một người đàn ông mặc áo
chùng đen đang đứng giơ cao ngọn đuốc.
Một ông thầy, một linh mục. Tất cả
mọi tiếng khóc rấm rứt, những tiếng th́
thầm vụt biến mất. Tôi nghe phía đó
cất lên một giọng nói:
“Tắt hết đèn cầy đi, tôi sẽ đặt
ngọn đuốc này ở đây. Mọi người
b́nh tĩnh và t́m chỗ ngủ đi. Chúa sẽ che
chở cho chúng ta.”
Ngọn đuốc chiếu những đầu người
ngồi lổm chổm lên tường, nhưng
chiếc bóng của ông linh mục ngắn dần,
rồi biến mất.
Mời
xem tiếp phần 2
|