Chương
6
Đi về trong lửa đạn
Chúng tôi chạy qua mấy cánh đồng bỏ không,
ngập nước, qua vài khoảng đất trống
cây cỏ mọc hoang vu th́ dẫn tới một xóm
nhỏ. Vài mái nhà thưa thớt ven đường. Thái
mừng rỡ kêu lên:
“Có quân đội ḿnh đóng đây rồi.”
Thấp thoáng sau đoàn người chạy loạn, tôi
nhận ra bóng một vài quân nhân đang đeo súng
đứng lấp ló trước một cổng rào. Thôi,
thế là thoát nạn, chúng tôi đă đến vùng b́nh
yên. Má tôi trong một cái quán chạy ra:
“Má đây ń, má đây ń.”
Thái kéo tôi vào hàng hiên của cái quán. Quán bỏ không,
ở giữa quán một cái hầm cát to tướng,
choán hết cả gian nhà. Bên cạnh chiếc quán là
một cái nhà gạch bỏ không, lính Mỹ và lính
Việt đang gác ở đó. Người lính Mỹ
và hai anh lính Cộng Ḥa đi soát giấy từng người.
Tôi không nhớ là cái thẻ căn cước để
ở đâu nữa, nhưng rồi cũng t́m ra.
Vợ Bé đặt gánh xuống, ngồi ôm đứa
con nhỏ thở dốc:
“Thôi, sống rồi.”
Nhưng Thái và Bé vẫn có vẻ e dè lắm. Một
toán người dừng lại ở quán, họ khiêng
theo một người đàn bà bị thương,
đạn phá tung cả nửa mảnh ngực, chỉ
c̣n thoi thóp thở. Mấy anh lính chạy tới,
rồi một người Mỹ khác chạy tới
dỡ chiếc chăn đắp kín người đàn
bà lắc đầu. Tuy nhiên người Mỹ cũng
vội vă đi trở ra, nói cho xe chở. Mấy người
lính Mỹ khác lắc đầu, đưa tay ra
dấu tuyệt vọng. Chiếc xe ḅ chở hai người
bị thương cũng đă tới nơi. Một
người đă chết, một người ngắc
ngoải. Người đàn bà vật ḿnh vật
mẩy khóc lóc. Bà ôm lấy xác chết, bà ḅ lê dưới
đất:
“Ông ơi, con chết, cháu chết, tui c̣n ḿnh ông, ông
cũng bỏ tui ông đi.”
Người đàn bà cùng đẩy xe ḅ với người
kia cũng khóc:
“Ông ơi, ông khoan chết, ông chết răng cho đành
ông ơi.”
Bà ta mở chiếu, sờ tay vào đầu kẻ
hấp hối, mở banh đôi mắt lờ đờ
đă khép kín, cứng lại:
“Đừng ông ơi, ông đừng bỏ tui.”
Hai tiếng khóc, một của người tuyệt
vọng, một của người c̣n bám lấy chút
hy vọng mong manh bật lên, người này cố gào
lớn hơn người kia. Cuối cùng, một trong
hai người đàn bà chạy tới cầm tay
một trong mấy người lính đứng coi cùng
mấy người Mỹ, lạy lục:
“Lạy anh, anh mần ơn chở chồng tôi
xuống dưới Phú Bài.”
“Không có xe. Xe mô mà chạy qua đồng dưới
nó là họ bắn liền. Chịu.”
“Cứu giùm chồng tôi ông ơi. ”
Bà ta lại nắm tay một người Mỹ. Người
Mỹ lắc đầu. Thái cũng lăng xăng:
“Hay có thuốc chi đem rịt vết thương cho
họ may ra...”
Người lính người Việt, như đă quen
với không khí này lâu lắm:
“Ôi, công cốc. Không kịp mô mà làm...”
“Th́ kệ...”
“Mà mần chi có thuốc. Thuốc tiên lúc ni cũng
chịu...”
Người đàn bà xô người Mỹ ra rồi
chạy lại chiếc xe. Bà dở chiếc chiếu,
rồi trợn mắt, nghiến răng và ngă vật
xuống:
“Thôi rồi...”
Bà đập đầu xuống đất, bà đập
tay xuống đất, bà ngẩng mặt lên trời:
“Trời cao, đất dày ń, chồng tui... trời
cao đất dày ń...”
Bà lăn lộn, rồi bà lại chồm dậy:
“Thôi đi, thôi đi đi mụ Tứ. Ḿnh lên thành
phố lại.”
Người đàn bà nọ đang khóc lóc muốn
ngất đi, nghe tiếng gọi, lau gịng nước
mắt:
“Đi lên phố hỉ?”
“Đi lên trên nớ chết chung với nhà với
cửa, với chồng với con luôn. Sống mần
chi nữa trời.”
Mọi người đổ lại khuyên can. Nhưng
không làm lay chuyển được ḷng hai người
đàn bà đă tuyệt vọng đến cùng
cực. Họ nh́n về phía súng nổ, lửa cháy,
chỉ tay la hét:
“Cháy hết. Cháy hết đi. Tui căm gan tím
ruột rồi đây. Trời ơi là trời.”
“Đi đi. Họ không thương ḿnh mô. Ai mà thương
ḿnh lúc ni, hả trời...”
Ông trời cũng đă động ḷng, sụt sùi.
Những hạt mưa bay lất phất, bầu
trời lam ch́ đă chảy nước.
Hai người đàn bà vừa đẩy xe trở
lại thành phố vừa khóc lóc. Họ không nh́n lui
nhưng tiếng khóc của họ c̣n quyện măi trong
làn mưa, trong không khí căng tràn buồn thảm.
Chiếc xe ḅ xa dần, hai bóng người ỳ
ạch đẩy xe nhỏ dần trên đường
dài, tiến măi với vùng lửa đạn. Một người
lính nói theo:
“Mấy mụ đó điên mất rồi.”
Không ai phê b́nh ǵ nữa. Hai người đàn ông khiêng
cái cáng có người bị thương chợt
hỏi một người lính:
“Trong làng có trạm cứu thương không?”
“Chở vô đi, có dân vệ trong nớ.”
Hai người đàn ông vội vă đứng dậy
khiêng cáng đi. Một đứa nhỏ chạy lúp xúp
theo. Một người đàn ông nói:
“Mai, đi cháu.”
Thằng nhỏ không trả lời, nó cắm cúi
chạy. Một giọng đàn bà cất lên:
“Chắc con của người đàn bà đó.”
“Thằng nhỏ chưa biết ǵ hết, tội ghê.”
Thái họp cả gia đ́nh lại bàn chuyện ăn
ở. Vợ chồng Bé nói sẽ đi bộ xuống
Phù Lương nhưng Thái ngăn lại. Trời
chiều rồi, đi cũng không kịp nữa. Đoàn
người dừng chân bên quán cũng đă tản mát
vào trong xóm hết. Tôi hỏi Thái đây là đâu, Thái
nói vô trong một chút nữa là thôn Thủy Dương
Hạ. Vợ chồng Bé điều đ́nh với
chủ quán xin ở đậu một hôm. Người
chủ quán nói:
“Ở đây th́ nằm ngoài hè chớ hầm
chật rồi.”
Bé sực nhớ có người quen. Thái nói:
“Em cũng có người quen, thôi ḿnh chia ra làm hai
để bớt phiền họ phần nào.”
Thái có ông cậu, ông anh của má nó. Vậy là má tôi,
chú tôi, tôi với Thái tách ra để đến nhà
cậu Giáo. Vừa thấy mặt chúng tôi, cậu Giáo
đă chạy ào ra:
“Trời đất ơi, răng chạy được
về dưới ni rồi. Nam mô A Di Đà Phật. Phước đức may
mắn quá. Vô đây, vô đây đă chị...”
Má tôi bật khóc:
“Tưởng chết hết rồi chớ mô nữa
anh ơi. Chuyến ni là hết rồi...”
“Ôi người c̣n là được. Chị vô đây,
vô đây đă...”
Tôi hỏi:
“Cậu, dưới ni yên không?”
“Ôi, có chi mà không yên. Mấy bữa ni, họ về dưới
ni biết cơ man mô mà noái cho hết. Họ chạy
ngang đây rồi họ về Phù Lương hết.
Về dưới Phù Lương, Phú Bài nghe yên
lắm.”
Má tôi lại đổi ư:
“Hay ḿnh về Phù Lương.”
Thái can:
“Không được, phải ở đây để ḍ
tin tức của anh Lễ, mần răng cũng có người
ở Từ Đàm về. Họ về tới là ḿnh
chận hỏi thăm liền. Bác để con.”
Chúng tôi vừa ngồi yên ở bộ phản th́
bỗng có tiếng nổ ́nh long trời lở đất.
Không ai bảo ai, má tôi, chú tôi, tôi và Thái cũng nhào
xuống đất. Nhưng ḱa, mọi người
vẫn ngồi im. Cậu Giáo cười:
“Chi rứa. Trên đồi họ bắn đi đó mà.”
Tôi chợt hiểu, ngọn núi phía trong ở bên kia
đường là nơi đặt đại bác
bắn vào thành phố. Những quả đại bác
bắn đi ở đây đă gây bao nhiêu chết chóc
ở trong thành phố kia. Nhưng tôi cũng hiểu là
không c̣n làm thế nào hơn được. Tôi leo lên
phản gỗ ngồi mà vẫn chưa hết run.
Một vài tiếng súng bắn lẻ tẻ trong xóm.
Cậu Giáo nói dân vệ đi tuần họ bắn. Tôi
hỏi ở đây Việt cộng có về tới nơi
không, mợ Giáo nói:
“Đêm họ về hoài, mà kệ họ, ḿnh ở
trong nhà, đêm đừng mở cửa. Họ đi
ngoài vườn kệ họ.”
“Họ có soát không?”
“Ở xóm dưới họ có về bắt, ở
đây th́ không. Đây gần đồn, có lính gác mà
sợ chi.”
Nhưng cậu Giáo cẩn thận:
“Kể ra ḿnh cũng phải để tâm chớ.
Đêm tuyệt đối đừng có nói chuyện,
cựa ḿnh chi hết. Họ vô đó.”
Thái đề nghị đào thêm hầm. Tối hôm
đó, mọi người lăng xăng sửa lại
hầm. Nhà dựng được thêm một cái
hầm nổi nữa. Trời chạng vạng là
cậu Giáo bắt mọi người không được
ra sân hay lấp ló ngoài cửa. Ngoài đường không
c̣n một bóng người đi lại, kể cả lính
Việt và Mỹ cũng rút vào những nơi an toàn. Tôi
bỗng linh cảm như sắp có chuyện ǵ xảy
ra. Giữa cảnh yên lặng như đang lắng ḷng
chờ đợi một chuyện ǵ đó.
Nhưng đêm đầu tiên ngủ ở Thủy Dương
Hạ không có chuyện ǵ xảy ra hết. Sáng sớm
hôm sau, ngủ dậy, tôi nghe tiếng chim hót. Tôi
lần ra sân rửa mặt súc miệng, rồi cùng
với người con dâu của cậu Giáo đi ra ngơ
coi t́nh h́nh. Mọi sinh hoạt vẫn b́nh thường,
trước cửa nhà, bên kia đường, nơi
đ́nh, chợ vẫn đông. Nhưng sự đông
đúc có một vẻ ǵ khác thường. Lài kéo tôi
sang phía chợ, nơi hàng bán cháo ḷng, người
đứng người ngồi, họ ăn uống xô
bồ. Bên cạnh đoàn người đang ngồi
đứng đó, c̣n những đống đồ cao
ngất, những thúng gióng. H́nh như họ mới
tản cư về sáng nay. Tôi lại hỏi thăm. Nhưng
ai cũng chỉ biết chuyện người đó.
Nhiều người ở An Cựu, nhiều người
ở tận dốc cầu Nam Giao, nhưng họ cũng
chả cho tôi biết ǵ hơn ngoài những tin tức
đă nhận được. Một người nói
cho tôi biết là ở trên kia, c̣n nhiều người
bị thương. Lài kéo tôi bảo lên coi. Cô nàng chưa
bị chạy loạn, từ hôm Tết đến nay,
ở Thủy Dương Hạ yên ổn quá, chả
biết sợ là ǵ. Nhưng tôi th́ khác, một
tiếng súng, một tiếng động lạ cũng
làm tôi giật ḿnh. Má tôi đứng ở trong sân,
thấy chúng tôi đi xa th́ gọi lại bảo đừng
có đi. Tôi nói vài câu cho má tôi an tâm. Câu mà má tôi
bằng ḷng nhất là khi tôi nói may ra ở trên đó
có người ở Từ Đàm về.
Trời vẫn mưa bay, nếu không phải chạy
loạn, những ngày đầu xuân mưa phùn thế
này thật tuyệt diệu. Nhưng lúc này tôi không c̣n
đủ sức để ngắm phong cảnh nữa.
Những đoàn người từ Huế tản cư
về vẫn là cảnh chính đập vào mắt tôi.
Tôi nôn nao, gặp ai cũng hỏi thăm dù biết là
những câu trả lời của họ giống nhau
hết.
“Bác ở mô về đó?”
“Ở An Cựu.”
“Bến Ngự.”
“Ở cầu Nam Giao.”
“Trên đó ra răng rồi chị? rồi mệ?
rồi bác? rồi anh?”
“Tan nát hết. Tan hết rồi.”
Câu nói chạy vút theo những bước chân. Đoàn
người nào cũng vừa đi vừa chạy như
sợ tiếng súng sẽ theo kịp. Lài kéo tay tôi:
“Thôi đi, hỏi ai cũng như nhau hết.”
Tôi đi theo Lài, nhưng hễ gặp là hỏi.
Kẻ trả lời, kẻ không buồn mở
miệng. Kệ, tôi như nhiễm một thói quen khó
bỏ và dù những câu trả lời rất giống
nhau mà mỗi lần nghe tôi vẫn c̣n bỡ ngỡ,
lạ lùng như khám phá thêm một điều lạ
nữa.
Chúng tôi đi qua một khoảng đất trống, cái
quán nhỏ và khu đồn binh hiện ra. Ở đây
thật là một cảnh hỗn độn, người
ngồi người nằm la liệt bên đường,
trong sân, trước quán. Mấy anh lính, mấy anh dân
vệ lăng xăng soát giấy người này,
hỏi thăm người nọ. Mấy người
Mỹ đứng ngắm đoàn người rồi
nhe răng cười vô duyên, chả hợp t́nh
hợp cảnh chút nào. Những người bị thương
được sắp một nơi và đă có mấy
y tá trong vùng ra băng bó. Hỏi thăm mới biết
là đoàn người này từ nhiều nơi đổ
về. Họ cho biết cầu Tràng Tiền đă
sập, cầu An Cựu cũng đă sập. Có người
ở bên phố thoát được nhờ mạo
hiểm đi đ̣. Mỗi chuyến đ̣ chở
một người sang sông phải trả trên năm ngàn
đồng.
Nhờ hỏi thăm những người mới
về sáng nay, mà tôi biết Huế đă đánh nhau
khắp nơi, bên phía Quốc gia chưa chuyển quân
mà mới bắn đại bác và thả bom. Máy bay
liệng suốt ngày. Máy bay c̣n kêu gọi dân chúng
cố dồn về phía hữu ngạn để thoát
tay Việt cộng nữa. Tôi được biết là
ở trường Đồng Khánh, Quốc Học và
trường Kiểu Mẩu đă trở thành những
nơi tạm cư cho đồng bào. Họ ở
những nơi này cũng như đùa giỡn với
tử thần v́ những trái đại bác bất
chừng hoặc bị kẹp giữa hai phe đánh
nhau, ngày nào cũng có người chết. Tôi cố
hỏi thăm tin tức vùng anh tôi ở, nhưng
họ lắc đầu hoặc cố ṃ đoán
trả lời th́ cũng càng bi quan hơn, chả
hạn như:
“Trên đó nát hết rồi, thành b́nh địa
rồi.”
Có người c̣n nói y như ḿnh đă chứng
kiến tận mắt:
“Trên đó th́ chỉ có Việt cộng chớ dân th́
c̣n ai nữa. Nội đại bác bắn ngày đêm,
mười mấy ngày nay cũng đủ chết
rồi, đừng nói súng đạn, đừng nói
chuyện họ đấu tố. Tui ở Bến
Ngự mà thấy mùi hôi bốc xuống ń. Chó nó lên
tha cả cánh tay, cả khúc chân c̣n đầy thịt,
rùng rợn lắm.”
Một người c̣n thêm:
“Trên nớ chết không ai chôn, không c̣n cái nhà mô nguyên
vẹn. Mấy hôm trước có người trốn
về nói cho tui nghe rứa đó.”
Thôi, như vậy tôi c̣n hy vọng ǵ gia đ́nh anh tôi
c̣n sống nữa. Cả cô em gái mà khi ba tôi từ giă
cơi đời, mắt vẫn dán chặt vào khuôn
mặt nó như muốn gởi gắm những người
ở lại. Mấy đứa cháu nhỏ nữa,
mấy năm nay tôi mới về, bận việc tang chưa
kịp bế kịp bồng.
Nước mắt tôi muốn trào ra, và ḷng tôi không c̣n
chút hy vọng nào nữa. Nhưng lúc đó, tôi lại
nghe một giọng khác trả lời một người
nào đó đang hỏi.
“Trên Từ Đàm hả? Cũng có người thoát
chớ. Họ đi lên ngả Tây Thiên, trên đó yên
lắm, nhưng khổ là ở đó lại đầy
quân giải phóng. Bộ chỉ huy của họ mà.
Nhiều người mắc kẹt nhưng mần răng
chẳng có người thoát được.”
“Bà đừng có lo. Tui ở dưới dốc mà cũng
thoát được ń, cái nhà của tui không c̣n ḥn
gạch mô c̣n nguyên hết.”
Tôi lại hy vọng:
“Nhất định là gia đ́nh anh tôi sẽ thoát
được.”
Nhưng nghĩ tới bà chị dâu yếu đuối,
một bầy cháu nhỏ với đứa em gái thơ
dại, tôi lại lo lắng. Ông anh tôi cũng yếu
đuối lắm, cuối năm, cái tang lớn làm anh
tôi chết đi sống lại mấy lần. Cả
mấy ngày đám, anh tôi không ăn được
một bát cơm và hôm đưa đám tang ba tôi, anh
đă ngất xỉu trước mộ.
Thấy tôi đứng lặng người, Lài kéo tay tôi:
“Thôi ḿnh về đi, ở đây trông ớn quá
trời.”
Giữa đường tôi gặp vợ chống Bé, nó
nói là nó ở lại đây đến ngày mai nó
sẽ đi xuống Phù Lương, ở đây mà yên
ổn ǵ. Tôi không trả lời. Thật ra, tôi cũng
không c̣n có thể đoán ra nơi nào yên ổn hơn
nơi nào nữa.
Má tôi đợi tôi ở đầu cổng, bà
hỏi:
“Có tin ǵ không?”
Tôi nói cho má tôi yên ḷng:
“Có người cho biết trên Từ Đàm họ
tản cư lên Tây Thiên, Trúc Lâm nhiều lắm.”
“Rứa anh con răng không tản cư, đi lên Trúc
Lâm rồi ṿng ngả núi Ngự B́nh về An Cựu
được chớ.”
“Chắc anh c̣n kẹt chuyện chi đó.”
Má tôi thắc mắc:
“Người ta tản cư hết, răng nó chưa
đi.”
Rồi bà nhất định ở lại đây để
chờ. Khi vào nhà, mợ Giáo mua cho tôi một tô cháo ḷng.
Tô cháo ḷng nóng hổi, thơm phức, nhưng khi
nuốt miếng cháo vào cổ họng, tôi lại
thấy đắng ngắt.
Lúc này mà tôi c̣n muốn ăn ngon, muốn sung sướng,
quả tôi là một người ích kỷ. Tôi đang
nhớ con tôi, chồng tôi. Tôi đang lo cho anh chị tôi,
em gái tôi cùng lũ cháu nhỏ. Tôi có thật được
sống rồi không? Và sống có mỗi ḿnh.
Nước mắt tôi trào ra. Lài hỏi:
“Răng không ăn đi, nóng há. Ừ, tô của ḿnh
nhiều tiêu quá, ăn nóng chảy cả nước
mắt đây ń.”
Lài lại cười. Tôi quay đi dấu đôi gịng
lệ. Má tôi vẫn c̣n ngồi ngẩn ngơ trước
tô cháo. Tôi lau nước mắt nói:
“Ăn đi má.”
Má tôi nói:
“Con ăn đi con. Tội nghiệp con quá, mười
mấy ngày nhịn đói nhịn khát.”
Tôi chớp mắt, màn nước mỏng nḥa dần và
tôi nh́n thấy rơ khuôn mặt má tôi. Bà đang nh́n tôi
chằm chặp. Bát cháo c̣n đặt trước
mặt và làn khói đă mỏng dần, sắp
nguội lạnh. Mấy miếng huyết heo nổi
lều bều.
Tôi bỗng rùng ḿnh, miếng huyết heo giống
những vết máu bầm mà tôi đă nh́n thấy. Tôi
đẩy tô cháo ra xa. Má tôi ôm mặt ̣a khóc:
“Ḿnh thoát về đây ăn sung sướng, c̣n con
cháu ra răng hở trời?”
Má tôi lại kêu trời. Không biết đă bao người
nhớ tới ông trời để mà kêu trong những
ngày biến loạn. Lài an ủi:
“Thôi bác, bác có khổ sở th́ chuyện đă
xảy ra. C̣n có may rủi mà bác.”
Thái đă ăn hết tô cháo của nó. Nó lại
đẩy tô cháo về phía tôi:
“Ăn đi chị. Có mà ăn, người ta
chết về súng đạn, chết đói đầy
đường.”
Tôi cố nuốt vài muỗng cháo cho má tôi và Thái vui ḷng.
Nhưng mỗi miếng cháo nuốt vào cổ, tôi
nuốt theo cả sự xót xa bất nhẫn. Lúc ở
ngoài đường, tôi đă nh́n thấy một
đứa bé nh́n chằm chằm vào bà hàng cháo, nó
đ̣i ăn nhưng bà mẹ cứ gạt đi,
bế chạy về phía con đường dài. Đứa
bé cḥi đạp hai chân và khóc nhưng tiếng nó
đă khản đặc, không c̣n ra hơi nữa.
Mợ Giáo kể chuyện ngóng được ở
những người chạy loạn cho cả nhà nghe.
Cậu Giáo lo lắng:
“Không biết ḿnh có lấy lại Huế được
không. Trên đó mất th́ dưới ni ḿnh cũng không
sống nổi!”
Mợ Giáo nguưt dài:
“Cái miệng của ông coi chừng đó. Túi qua
họ về họ bắt đi mấy người
đó tề. Có một hai người chỉ ở trên
Huế về trốn họ cũng bắt. Người
ta điềm chỉ đó nghe, cứ tin mà chết khi
mô không biết.”
Má tôi lo lắng:
“Rứa ḿnh ở nơi ni không được
rồi.”
Thái tin tưởng:
“Bác cứ yên trí đi, họ không biết ḿnh là ai
mô. Chạy đi mô cũng rứa hết, ở mô cũng
có họ rồi.”
Thái cố làm cho má tôi yên trí mà ở lại đây,
chớ đọc qua đôi mắt nó tôi hiểu là nó
đă quá mệt mỏi, liều đến đâu hay
đó. Cậu Giáo mắng nó ăn mặc sạch
sẽ, biểu lấy quần áo nhà quê mà mặc.
Mợ Giáo cũng đưa cho tôi bộ đồ
đen rộng thùng th́nh. Má tôi dặn tôi phải
bối tóc kiểu Huế lên cho cao, lỡ đêm
họ có vào hỏi th́ nói là dân làm rẫy. Tôi soi người
trong tấm kiếng và bỗng thấy ḿnh xa lạ
hẳn, tôi nh́n tôi cũng không c̣n nhận được
nét quen thuộc nữa.
Từ giờ phút đó cho tới trưa chiều, tôi
không rời mắt khỏi đường cái.
Những đoàn người chạy loạn về càng
lúc càng đông. Có hỏi họ chỉ khoát tay chỏ
lại đàng sau với một câu nói vội vàng:
Đánh nhau sau nớ, chết hết. Đến trưa
chiều th́ tôi thấy có người chở cả xác
chết trên xe đạp mà chạy về.
Một gia đ́nh ông bác sĩ ở đâu dưới
dốc Nam Giao chạy về được Thủy Dương
Hạ, họ đem theo được một chiếc
xe Honda để tải đồ. Mấy cô con gái
mặt không c̣n hột máu, ngơ ngơ ngác ngác
ngồi nghỉ chân bên lề đường. Ông bác sĩ
gọi gánh cháo ḷng, mỗi người ăn tới
bốn năm bát, vừa ăn vừa thở, nét
mặt đang khổ đau rạng rỡ dần.
Một gia đ́nh khác cũng chạy về tới
đây th́ kiệt sức, họ dọn dẹp một
góc đ́nh để ở tạm qua đêm. Bà mẹ
lên cơn suyễn, chiều hôm đó bà chết. Người
ta bu lại coi đông như kiến. Xác người
đàn bà to béo nằm ch́nh ́nh trên chiếc chiếu,
mắt trợn ngược, hai tay c̣n nắm chặt
gỡ không ra. Người chồng ngồi bên xác
vợ thở ra thở vô, lâu lâu lại nh́n về phía
thành phố Huế, những đụn khói cao ngất
đang đùn măi lên bầu trời màu ch́ như
chiếc lưỡi xám của con quái vật. Xế
chiều họ dọn đi đâu mất, khi tôi
trở ra th́ thấy nơi góc đ́nh chỉ c̣n
bỏ lại có chiếc chiếu. Tức th́ một gia
đ́nh khác thay ngay vào chỗ đó. Chiếc chiếu
thành nơi nằm ngồi của cả một gia đ́nh
mười mấy mạng người.
Lài kể cho tôi nghe một chuyện đă trông
thấy. Hắn nói, vẻ mặt vừa cảm động
vừa tức cười:
“Hồi chiều có một cô gái mặc đồ cao
bồi, ôm cái áo măng tô mà khóc sướt mướt.
Cô ta đi vô xóm, giơ áo măng tô ra đổi lon
gạo mà không ai đổi. Cô khóc. Ḿnh hỏi
chuyện cô nói cái áo măng tô của bồ cô mua bên
Mỹ, gửi về tặng. Cô đói quá, muốn
đổi lon gạo mà không ai đổi. Ḿnh định
vô lấy gạo đổi mà mạ ḿnh không cho. Nói
để cái áo nớ trong nhà lỡ họ vô họ nói
ḿnh thân Mỹ, họ bắn luôn. Cô nớ đi
gạ hoài, vừa khóc vừa năn nỉ mà chả ai
đổi hết.”
Thời buổi này cả vàng bạc, châu báu, ngọc
ngà cũng không quư giá ǵ hơn, miếng đất c̣n
có ích để chôn xác chết chớ vàng bạc
đâu có no được. Hột gạo lúc này là
hột châu, quư giá hơn tất cả mọi thứ
trên đời. Mợ Giáo đă dặn ḍ là nấu cơm
phải cho nhiều nước để ăn mau no và
nhớ hà tiện gạo.
Ngay chiều hôm đó, Thái đi vận động bà
con mua hoặc xin mỗi nhà năm ba lon, nó kiếm
được gần nửa bao gạo. Thấy Thái vác
gạo về, mắt má tôi sáng rỡ:
“Thằng ni tài quá.”
Thái vất bao gạo xuống đất:
“Ăn hết chừng ni mà chưa yên là chết đói
luôn. Không ai dám cho hay bán thêm một hột thóc.”
D́ Vạn của Thái chạy tới hỏi:
“Có ai mua vàng không? Ngoài đường, đoàn người
tản cư về, họ bán một lượng vàng có
mấy trăm bạc hoặc đổi lấy
gạo.”
Mợ Giáo cười cay đắng:
“Một cục vàng đổi một hột gạo cũng
không được. Có mà điên.”
Thái nh́n làn mưa bụi, than thở:
“Mưa ri khó đánh lắm. Bên ḿnh có hơi cay nhưng
mưa như ri làm răng mà thả được, nước
mưa sẽ làm trôi hết.”
Cậu Giáo lắc đầu:
“Thôi, có người ta có ḿnh, mi than thở làm chi.”
Mấy đứa con nít bỗng từ ngoài đường
chạy ùa vào, mặt mày hớt hơ hớt hải.
Rồi tiếng cả một đoàn xe rầm rộ kéo
tới. Tôi nh́n ra đă thấy một đoàn xe
Mỹ chạy từ phía Phú Bài lên. Nhiều người
Mỹ nhảy xuống xe, nằm sát hai bên đường
và bắn chỉ thiên ṛn ră. Họ bắn cả vào
rẫy, vào núi. Cậu Giáo hét mọi người vô
hầm. Tất cả các cửa ngơ đều
được đóng chặt lại.
Tiếng súng nổ như bắp rang từng loạt
rồi xa dần. Đoàn xe rần rật chạy qua, có
nhiều người chạy vào nhà, không kịp
nằm mọp ngoài sân nơi chiếc bể cạn
đợi đoàn xe chạy qua hết, tiếng súng xa
dần mới đập cửa rầm rầm. Má tôi
th́ thầm:
“Má thấy ở nơi ni cũng không yên chi hết. Răng
mà má lo quá con ơi.”
Má tôi lại có ư định đi tản cư
nữa. Lần này th́ chính má tôi đề nghị. Nhưng
tôi đổi ư. Tôi biết là có chạy đi đâu
th́ t́nh cảnh cũng chả khá hơn. Má tôi làm
thinh.
Ngoài đường đă hoàn toàn vắng vẻ. Bóng
tối ập xuống rất nhanh. Mưa bụi dày
dần và không khí lạnh toát. Má tôi ngồi bó
gối trong góc phản gỗ, nh́n ra ngoài bầu
trời đang đen dần. Bữa cơm hồi
chiều tôi ăn được lưng một bát, c̣n
má tôi ăn xong một bát th́ lại khóc, những
giọt nước mắt lăn xuống bát cơm và
má tôi vội vàng bỏ đũa.
Hai chiếc hầm nổi đầy nhóc người,
không có chỗ cựa quậy nữa. Tôi muốn qua bên
o U ngủ nhờ, nhưng không dám bước ra sân. May
quá, Hiền gơ cửa và gọi. Tôi theo Hiền qua nhà
bên cạnh. Hiền là một sinh viên mỹ thuật, bà
con bên ngoại của Thái. Căn nhà của Hiền
ở khuất mặt đường hơn và đă
đào được cái hầm sâu xuống nhà khá
rộng. Hiền đốt ngọn đèn chỉ cho tôi
coi mấy bức tranh mới vẽ. Nhưng tôi chả
thưởng thức được ǵ, chả nhận
được ǵ, đầu óc tôi căng thẳng
tột độ. Tôi đang lo sợ nay mai tiếng súng
sẽ tới đây, và chắc chúng tôi không c̣n
sức để chạy nữa.
Hiền nói:
“Có mấy thanh niên t́m chị, họ hỏi em mà không
biết ư chị ra răng!”
Tôi mỉm cười: Thôi, em tha cho chị, bây giờ
mặt mũi chị thế này, quần áo rách bươm
thế này. Để một dịp khác, nếu c̣n
được sống. Thủy Dương Hạ là nơi
chị ghi ơn trong những ngày chạy loạn. Tôi
nhớ tới những hột vịt lộn Hiền
bỏ trong túi giấm dúi đưa cho tôi ăn, tôi
nhớ một vài khuôn mặt trẻ nh́n tôi nửa thương
hại nửa buồn cười. Phải, tôi buồn
cười lắm. Nhưng điều đó đâu có
quan trọng ǵ, miễn là tôi sống được.
Đêm đó, tôi không nằm hầm mà nằm nơi
chiếc giường rộng với o U, với cô con dâu
của o U và đứa cháu nhỏ. Trời lạnh
buốt, tôi trùm chăn kín đầu. Chiếc áo măng
tô của ba tôi, tôi vẫn mang kè kè bên ḿnh, kể
cả lúc ngủ.
Thôn xóm im vắng một cách khác thường, không có
cả tiếng chó sủa. Không có một tiếng súng
nhỏ. Chỉ có tiếng đại bác trên ngọn
đồi nhỏ bắn đi đều đều và
tiếng ́nh ́nh một nơi xa vọng lại. Nơi
xa đó là thành phố Huế, là Thành Nội, Từ
Đàm, An Cựu, Nam Giao... Mỗi tiếng ́nh như xoáy
tim tôi, tôi biết rằng, khi tôi được
nằm yên ổn ở nơi đây th́ trong thành
phố đó, bao nhiêu người đang chết súng
chết đạn, chết đói chết khát. Bao
nhiều lồng ngực muốn vỡ tung, bao nhiêu
giọt nước mắt ḥa lẫn với máu.
Thao thức măi rồi tôi cũng thiếp đi. Tôi ch́m
vào một cơn mơ dữ dội. Tôi thấy tôi
chạy loạn cùng khắp các ngả đường
trong thành phố. Những khuôn mặt các anh giải phóng
như những người khổng lồ, luôn luôn
muốn nuốt chửng tôi. Những trái đạn rơi
đằng sau lưng, rơi đằng trước
mặt. Và tôi cứ chạy, y hệt như những
cảnh tôi sống qua. Sau lưng tôi những xác
chết bật tiếng khóc đuổi theo, cả
những bàn tay, khúc chân cũng chạy theo níu nữa.
Dưới chân tôi máu chảy như suối. Nào xác
Việt cộng, xác trẻ em, xác lính, xác Mỹ, xác bà
già nằm ngổn ngang bít kín đường. Mặc,
tôi bước qua xác họ và chạy tới đằng
trước. Nhưng tôi bị kẹt giữa hai đụn
khói khổng lồ. Trước mặt tôi cháy, sau lưng
tôi cháy. Những đoàn người chạy loạn xuôi
ngược, đạp bừa lên nhau. Tôi nhận ra
trong đoàn người có cả đoàn người
cầm cờ trắng chạy qua sông một ngày nào. Có
cả má tôi, em Thái, anh Lễ, bé Hà chạy tít đằng
xa và bỏ cách tôi.
Ở bên này cầu, một anh lính giải phóng bắc
tay làm loa: Đồng bào hăy ở trong nhà, đừng
ra đường. Ở bên kia, một anh lính quốc
gia gào lớn: Hăy về phía hữu ngạn. Tản cư
về phía hữu ngạn. Tôi không c̣n nhận ra phương
hướng nào nữa. Nơi nào là hữu ngạn? Nơi
nào là tả ngạn? Những ḍng máu đă chảy ra
tới bờ sông và mặt nước lạnh buốt
có những làn chỉ hồng. Đống khói đằng
sau lớn dần, đống khói trước mặt
lớn dần. Khói bao bọc tôi, che kín mắt tôi,
rồi những tiếng súng lớn nhỏ bắt đầu
thi nhau nổ. Đoàn người kêu khóc, kẻ vượt
chạy, người ngă xuống. Tôi cũng chạy
theo. Nhưng không kịp nữa rồi. Một tiếng
nổ lớn. Cả thành phố nổ tung theo. Người
tôi như tan trong những mảnh gạch cát. Tôi c̣n
kịp nghe tiếng kêu của tôi rú lên, bay vút lên
bầu trời màu ch́ xậm.
Có bàn tay kéo tôi dúi xuống đất: Chạy vô
hầm. Mau lên. Tôi chợt tỉnh. Một tiếng
nổ rất gần rung chuyển cả căn nhà,
mấy cánh cửa sổ bị bật tung cứ đánh
ra đập vào liên tiếp. Tôi lăn tṛn dưới
đất mấy ṿng th́ tới miệng hầm.
Mời
xem tiếp phần 9
|