Đi về trong lửa đạn
(tiếp)
Có lẽ tôi là người
xuống hầm chậm nhất. Một tiếng nổ
nữa tiếp theo. Mái nhà kêu rạt rạt như muôn
ngàn mảnh vụn đang trút xuống trên mái tôn. Th́
ra tiếng nổ trong cơn mơ của tôi kéo đổ
một thành phố trùng hợp với tiếng nổ
giữa đêm nơi làng quê này. Bàn tay ai bên sườn
tôi run lập cập. Một tràng súng nhỏ nổi lên
khắp nơi. Họ đánh nhau tới nơi rồi.
Tôi nắm chặt lấy tay o U. Tay o U cũng run lập
cập. Tôi nghĩ tới má tôi, chú tôi và Thái ở bên
nhà cậu Giáo. Chắc má tôi cũng đang run lên như
chúng tôi ở đây. Giọng Hiền nói nhỏ:
“Chắc đánh nhau rồi.”
Có tiếng đập cửa. Mọi người im
lặng, nín thở. O U bỗng càu nhàu: Tổ cha con chó,
nó ra sân rồi. Tiếng con chó sủa lên từng
hồi, tiếng súng nổ lẻ tẻ rồi
tiếng chân chạy khắp vườn. Tôi nằm
rạp xuống sát mặt hầm. Họ đi lùng
bắt dân làng rồi. Số phận tôi rồi sẽ
ra sao? Tôi nhớ tới lời Hiền bảo lúc
tối là có mấy thanh niên đă nh́n ra tôi. Không, tôi
đă sợ quá rồi nghi ngờ bậy, không thể
ai c̣n đủ sức để hại ai lúc này. Tuy
vậy, ḷng tôi không xua đuổi hết sự
ngờ vực.
Tiếng chân chạy ngang vườn rầm rầm
rồi có tiếng hú, tiếng gọi nhau: Khai hỏa
rồi. Quới ở đầu non. Lục ở
cuối sông. Tiếng hô bắn. Đó là những ám
hiệu. Nhưng không biết họ có soát nhà không.
Đó là mối quan tâm nhất của tôi lúc này.
Tiếng chân dừng lại ở sân. Rồi tiếng
chân lại chạy đi. Tiếng hô xa dần rồi
im lặng hẳn. Lúc này những tiếng súng lại
nổi lên. Tiếng Hiền gắt gỏng một ḿnh:
“Đợi đi hết mới bắn. Thiệt đồ
ngu.”
Một lát sau, có tiếng dân vệ la hét ngoài
đường: Đuổi theo, anh em ơi. Nhưng
chỉ mấy phút sau lại hoàn toàn im lặng. O U
bắt chúng tôi ngồi suốt đêm dưới
hầm, không cho lên nhà ngủ nữa.
Sáng sớm, tôi chạy sang nhà cậu Giáo trong lúc chưa
có một nhà nào hé cửa. Tôi đập cửa th́nh
thịch. Bên trong nghe ngóng một hồi rồi cánh
cửa hé ra chỉ vừa một người lách vô
rồi gài chặt lại ngay. Mọi người
vẫn c̣n ở trong hầm. Má tôi đưa tay ôm
chặt lấy tôi khóc vùi.
Thái th́ thầm:
“Đêm qua bác lo cho chị quá, bác khóc cả đêm.”
Tôi ôm chặt má tôi hơn và không biết nói một
lời nào để má tôi yên ḷng. Chắc má tôi
chẳng c̣n phút nào yên ḷng nữa. Thái chỉ cánh
cửa sổ bay mất từ bao giờ:
“Túi qua nổ mấy tiếng, mấy cái cửa bay
hết rồi.”
Tiếng d́ Vạn:
“Th́ bom nó rơi đâu sát nhà ḿnh ń. Tao nghe một cái
rạt, tưởng cái hầm bay luôn. Tao cứ ôm cái
đầu, tưởng cái đầu cũng tiêu luôn
rồi.”
Mợ Giáo gắt:
“D́ răng hay noái bậy rứa thê.”
Túc, con trai cậu Giáo, đùa:
“Bay đầu c̣n hai chưn c̣n chạy được
mà d́.”
“Nói răng mà nói tào lao tứ đế. Ở nơi
súng đạn mà cái miệng chạch chạch.”
Một lát sau thấy không có ǵ lạ và ngoài
đường đă có người đi. Cậu Giáo
mở cửa. Một mảnh bom nằm ch́nh ́nh ở
trước sân. Mọi người chạy ra coi ngó
một hồi. Thái đi ra đường một lúc
rồi về cho biết là tối hôm qua Việt
cộng đă giật cái cầu vực nơi cống.
Nhưng giật luôn hai ba quả ḿn mà không sập
hẳn, chỉ lủng một lỗ lớn, xe không
đi được nhưng đi bộ và xe gắn máy
qua được.
Thái nói thêm:
“Túi qua họ về làng nhưng rồi rút đi
hết. Chắc họ tưởng cầu sập
rồi.”
Ngoài ngơ có tiếng gọi. Chúng tôi nh́n ra. Vợ
chồng con cái Bé đang gánh gồng bồng bế nhau
đứng ở đó.
Tôi chạy ra:
“Đi mô vậy?”
“Đi xuống Phù Lương, ở đây không yên
rồi.”
“Xa không?”
“Xa, người ta đi được ḿnh đi
được chớ.”
“Biết ở dưới đó có yên không?”
“Người ta đi rần rần.”
Bé nói:
“Hỏi bác với chị có đi th́ đi, không
tụi em đi.”
Thái lắc đầu:
“Ở mô cũng rứa, biết mô ra răng mà đi.”
“Anh xuống dưới nớ, anh t́m đồn lính
tŕnh diện luôn. Tức quá.”
Thái làm thinh một lúc, suy nghĩ rồi hỏi:
“Anh có tin tức chi không?”
“Nghe nói thằng đồn trưởng của mi
bị cắt cổ rồi. Cô cán bộ chạy về
nói lại.”
Thấy Thái yên lặng, Bé tiếp:
“Mi ở đây răng họ cũng về lùng họ
bắt. Họ biết là nhiều người tản cư
về đây rồi.”
Má tôi đă ra tới nơi. Chú tôi đ̣i đi theo
vợ chồng Bé. Thế là gia đ́nh tôi lại chia
thêm một lần nữa. Thái đứng nh́n vợ
chồng Bé đi khuất khỏi cầu vực,
thở dài:
“Ḿnh vô đi bác.”
“Thái nhất định ở đây?”
Thái mím môi:
“Ở đây.”
Má tôi rưng rưng nước mắt:
“Dù răng đi nữa, ở nơi ni cũng gần
An Cựu. Không biết trên ra răng rồi...”
Tôi biết má tôi đang nhớ tới căn nhà,
tới bàn thờ ba tôi và ngôi mộ mới trên núi Tam
Thái. Hôm đi tản cư xuống Thủy Dương
Hạ, ngang qua đồng, má tôi nh́n lên phía núi hoài.
Nhưng cũng như tôi, má tôi không thể phân
biệt được mộ nào là mộ ba tôi. Nơi
sườn núi là khu vực của người
chết, và ngôi mộ nào cũng giống nhau như
hệt.
Mấy ngày đầu ở Thủy Dương Hạ
thật yên ổn. Nhưng từ hôm bắt đầu
có tiếng nổ ở cầu vực th́ ban đêm
đại bác lại câu tới làng này. Tối nào chúng
tôi cũng chui vào hầm thật sớm. Qua đêm
thứ hai th́ mấy tiếng nổ tiếp nữa,
cầu vực hư hại hoàn toàn. Ban ngày Mỹ lên làm
cầu, nhưng ban đêm th́ họ rút về hết,
nhường phần cho mấy anh giải phóng. Đến
ngày sau nữa th́ trong làng đă có vài nhà bị trúng
đạn đại bác. Sáng nào cũng nghe người
ta bàn tán xôn xao về những trái đại bác
bắn ra ngoài sông, rơi vào nhà dân cư. Một hai nhà
đă bị trọn. Ban đêm các anh giải phóng
về lục soát bắt dân. Phía cầu vực đă
bị chận lại, lính canh gác không cho dân đi
về Phù Lương nữa. Chúng tôi bị kẹt
ở Thủy Dương Hạ và lại chờ đợi
sự rủi may.
Một vài người trên Huế tản cư về
cho biết là ở An Cựu đă được
giải tỏa. Quân Mỹ và lính quốc gia đă
chiếm đóng, làm chủ hoàn toàn. Vài người
trở lên để chở của nhưng họ
trở về khóc lóc thảm thiết. Nhà cửa nào không
bị sập th́ cửa đă bị mở tan hoang và
đồ đạc không c̣n ǵ hết. Cầu An
Cựu đă bị giật sập ngay khoảng
giữa, sự qua lại hết sức khó khăn. Má tôi
hỏi thăm kỹ càng lắm, họ cho biết tuy
đă giải tỏa được, nhưng lính
quốc gia và Mỹ chỉ lên có ban ngày, ban đêm rút
trở lại Phú Bài hết. Trong làng lại có tin
giặc sắp tới đây, ở trên phố thua,
thế nào họ cũng rút về quê. Người ta
sửa soạn để tản cư. Má tôi và Thái
quyết định trở lại An Cựu.
Mấy ngày liền, tôi nh́n thấy những đoàn xe
chở đầy xác chết và binh sĩ bị thương
chạy trở về, qua làng. Nhưng người ta
vẫn ùn ùn kéo nhau trở lại Huế.
Nhưng đồng thời, cũng có đoàn người
ùn ùn từ Huế kéo về. Kẻ chạy lên, người
chạy xuống. Má tôi cho Thái đi ḍ đường
trước. Nó đi khoảng chừng nửa buổi
th́ trở về:
“Nhiều người về An Cựu rồi bác. Ḿnh
về đi.”
Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An Cựu. Má tôi
dặn ḍ cậu Giáo nếu ở đây đại bác
dữ quá th́ lên trên đó. Mợ Giáo chia thêm cho má tôi
ít gạo: Dù răng đi nữa ở dưới ni cũng
c̣n có thóc, giă ra mà ăn, trên nớ kẹt là chết
đói. Mợ Giáo, cậu Giáo và cả nhà đưa
chúng tôi ra một khoảng đường rồi
mới trở lui. Thấy nhiều đoàn người
gồng gánh kéo nhau về Phù Lương, má tôi lại
do dự. Thái phải nói măi má tôi mới thở dài:
Th́ thôi cũng đành. Thái nói ở lại Thủy Dương
Hạ hết sức nguy hiểm, nó nghe phong thanh: đêm,
Việt cộng đă vô xóm bắt những thanh niên
đi.
Tôi thấy hơi yên tâm khi thấy có nhiều người
đi trở lên, họ mang theo những thúng, gióng không.
Tôi hỏi, họ cho biết là quân Quốc gia đă
chiếm An Cựu họ đang kiểm soát trên đó,
lên xem c̣n chi th́ chở đi không bị trộm
cắp lấy hết.
Tiếng đại bác vẫn nổ ́nh ́nh nơi phía
thành Huế. Mặt má tôi tái xanh, môi bà run rẩy:
“Mần răng chừ, trên đó c̣n bắn nhau.”
Thái quả quyết:
“An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên
miệt Bến Ngự, Từ Đàm.”
Quả đúng như lời Thái nói, lên tới Mù U, tôi
nh́n thấy bóng những quân nhân thấp thoáng. Họ
vác súng đi thành từng hàng, hoặc lẻ tẻ
đứng gác ở hai bên đường. Lên tới
đồn Trường Bia th́ tôi càng vững ḷng hơn
nữa. Lính ở trong đồn rất nhiều. Phía
ngoài, họ đứng gác cẩn thận lắm. Khi chúng
tôi đi ngang qua, bắt gặp những tia mắt
họ nh́n, tôi muốn cười mà không cười
nổi. Tôi chắc họ cũng thế, những đôi
mắt nh́n chúng tôi cho tới khi chúng tôi đi xa.
Một vài nhà hai bên đường hé cửa. Vài người
tḥ đầu ra hỏi:
“Về lại hả?”
Má tôi gật gật đầu, hỏi lại:
“Yên chưa?”
“Ồ, được rồi. Đào hầm trốn
đạn. May rủi biết mô bác ơi.”
Một tiếng nổ lớn như xé rách màng tai. Chúng
tôi vội vă nằm dạt xuống đường.
Một tiếng nói trong sân nhà nào nói vọng ra:
“Đạn ḿnh bắn đó. Sau đồn Trường
Bia bắn đi mà.”
Tôi đứng dậy, ngượng nghịu phủi
đất rồi kéo má tôi đứng dậy theo. Bà
nh́n quanh nh́n quất:
“Vắng quá, chưa có mấy người về.”
Rồi bà hỏi một đầu người trong
một cửa nhà vừa ló ra:
“Mới về?”
“Không, tui ở nơi ni từ mấy bữa ni.”
“Không can chi hả?”
Người đàn bà tḥ đầu ra nhiều hơn,
giơ hai ngón tay rồi chỉ về phía góc sân:
“Chết hai người.”
Tôi nh́n theo tay người đàn bà chỉ. Hai nấm
mộ đất đắp sơ sài nơi góc sân
lạnh lẽo không có một que hương. Tôi kéo
chặt hai vạt áo măng tô rồi quay mặt đi
nơi khác. Người đàn bà vẻ mặt
choắt lại, không biết sự khắc khổ
từ lâu hay mới biến đổi khuôn mặt bà
ta. Nhưng bà không có vẻ ǵ bi thảm hết. Tôi rùng
ḿnh, mười mấy ngày rồi, họ chừng như
đă quen với máu, với sự chết chóc bi thương.
Gần đến nhà, chân tay tôi run rẩy quá. Tôi
vừa mừng vừa sợ. Tôi tỏ ư lo lắng ngôi
nhà đă đổ nát, không c̣n toàn vẹn nữa. Hôm
đi xuống Thủy Dương tránh nạn, ngang qua
đường cái, tôi đă cố nh́n vào ngôi nhà, nhưng
đạn đằng sau lưng như xô tôi chạy
tới, và những hàng cây loáng thoáng che khuất khu vườn.
Trong những ngày ở Thủy Dương, biết
đâu ngôi nhà đă sập. Người ta chả
đồn đăi vài câu chuyện hết sức thương
tâm và khôi hài là ǵ. Đoàn quân Mỹ lên An Cựu
thấy ngôi nhà nào c̣n nguyên lành hoặc t́nh nghi là
bắn bừa vào, bất kể bên trong có người
hay không. Hoặc họ tràn vào nhà, đứng ở
miệng hầm mà bắn tràn vào hầm. Họ sợ
Việt cộng núp trong đó. Càng gần nhà, chân tôi
càng bước mau hơn. Thái và má tôi cũng thế.
Khi đi th́ gia đ́nh tôi thật đông, khi về
chỉ c̣n má tôi, tôi với Thái. D́ Vạn với cô
con gái đang sửa soạn, nói sẽ lên sau. Vợ
chồng Bé về Phù Lương rồi. Thu cũng
bỏ đi theo.
Khi sắp bước vô ngơ, khu vườn của chúng
tôi khuất ở đằng sau một khu nhà khác và
con ngơ đi vào dẫn tới cổng trồng hoa
cẩn và chè tàu, tôi bỗng nghe tiếng gọi đằng
sau. Th́ ra chú tôi đang tất tả đi theo. Vợ
chồng Bé bàn tính như thế nào mà bỏ ông ở
lại. Tôi đẩy cánh cổng sắt khép hờ. Ngôi
nhà bỗng bừng sáng lên như chào mừng chúng tôi
với những dấu hiệu mới mẻ. Mái ngói
bị trụt hoặc lủng lỗ v́ đạn
rốc két, v́ bom chơm. Trước nhà, bức tường
nứt một khoảng lớn và những cánh cửa
sổ bị sức dội của bom đạn mở
toang hoang. Tuy vậy, hai cánh cửa chính vẫn đóng.
Thái nhảy lên thềm trước tiên. Nó đặt
bao gạo xuống, quay lại nh́n má tôi rồi móc túi
lấy ch́a khóa. Tôi thấy tay nó run rẩy và mặt nó
tái đi. Cánh cửa mở, ánh sáng tràn vào căn nhà.
Những đèn nến thắp dở, những liễn
đối, những bông hoa cườm đập vào
mắt tôi. Tôi chạy ào vào nhà, gục đầu nơi
bàn thờ ba tôi. Má tôi ngồi bệt xuống đất
cất tiếng khóc. Và Thái, tuy đă theo công giáo và
rửa tội từ lâu, nó vẫn t́m hương
thắp lên bàn thờ ba tôi ở gian trên, rồi
cầm nắm hương c̣n lại thắp các lư hương
ông bà, những người thân đă chết. Tôi nh́n
lên bàn thờ ba tôi, tấm ảnh phủ vải đỏ
cùng tất cả lư trầm, bàn nến đều
phủ một lớp bụi dày. Mắt tôi chợt
bắt gặp những lỗ thủng trên mái nhà và má
tôi đang gọi Thái, tay cầm một mảnh bom hay
đạn ǵ đó, sần sùi, xám ngoét màu kẽm.
Một lát, chúng tôi đi lục soát xem có mất mát ǵ
không. May quá, những thứ chúng tôi bỏ lại
đều c̣n nguyên, chỉ những thứ đem đi
mới mất. Thái quả quyết là chưa ai vô nhà.
Kể ra cũng chả ai thèm vào ngôi nhà này làm ǵ, ba tôi
vừa mới chết xong, khu nhà lại bỏ hoang không
người ở từ lâu, hôm đám ba tôi xong,
liễn đen trắng hoa cườm, vàng hương
đầy nhà, trông vào như một khu nhà mồ.
Nếu ai lạc vào khung cảnh tang tóc, tiêu điều
thế này, chắc cũng hoảng lắm. Nhưng v́
đây là nhà chúng tôi, nơi kia là bàn thờ tổ tiên,
nơi nọ là bàn thờ vừa thiết riêng cho ba tôi,
tôi mới có được cảm giác ấm cúng và b́nh
yên như thế này.
Má tôi bảo đóng bớt cửa sổ lại,
cửa lớn cứ khóa bên ngoài trừ khi có việc
ǵ cần đi ra ngoài, để họ lầm tưởng
là nhà bỏ không. Tôi nh́n ra cửa sổ quan sát xung
quanh hàng xóm. Bên khuôn tịnh độ Nam An thật
vắng vẻ, những nhà xung quanh đó cũng
thật vắng vẻ. Nhưng một lát, tôi thấy
một ông già đi ra trước sân, dừng lại nơi
cột cờ thường treo cờ Phật giáo khi
lễ lạc, ông đứng ngó ra con đường
vắng vẻ, hai tay chắp sau lưng. Tôi muốn
gọi ông già hỏi chuyện nhưng má tôi đă kéo
tôi trở vào. Thái nói:
“Ḿnh phải làm hầm lại. Hầm này có chắc
chi mô.”
Hai chị em tôi cùng với ông chú phụ nhau sửa
lại hầm. Ngay chiều hôm đó, Túc và Lài từ
dưới Thủy Dương Hạ lên. Túc cho
biết dưới đó không yên và lên đây ở
tạm. Một lát Hiền cũng đi xe Honda vào. May
thay, chúng tôi vừa bỏ Thủy Dương đúng lúc.
Cũng trong chiều hôm đó vợ chồng Bé trở
lại nữa. Đi giữa đường chúng nó
đă bị chặn lại, nghe đâu dưới xa
kia có xe bị bắn và tấn công, đoàn xe Mỹ
bị kẹt lại, đêm nay chưa chắc đă
về dưới Phú Bài được. Nhờ đông
người, chúng tôi mở cửa bếp. Dưới
bếp, hồi trước ba tôi có cho một ông giáo
viên thuê. Hôm Tết, vợ chồng con cái về quê
ăn Tết và khóa cửa lại. Dưới bếp có
sẵn một cái hầm nổi bằng bao cát, chúng tôi
khuân tạm lên nhà làm một cái hầm nổi ở
phía sau bàn thờ. Thái vừa làm vừa hỏi tôi có
thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi
đi vô nhà, ngay qua cổng nhà đằng trước
xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái thấy nơi
nhà đằng trước có một ngôi mộ trước
sân. Trên mộ có nén hương và một nải
chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng
trước đă bị đạn và bốc cháy ngay sáng
mồng hai, có mấy người bị thương
chắc một người đă chết. Thái nói
nhỏ:
“Bác gái đằng trước chết chôn ở
đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.”
“C̣n mấy người bị thương nữa mà.”
Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái cũng như
tôi, làm sao biết thêm ǵ hơn nữa. Chúng tôi
lại lăng xăng làm hầm. Ở trước khuôn
có hiệu đồ mộc, Thái ra khiêng được
mấy tấm ván khá tốt, đem vào kê hầm.
Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó chia
làm hai ngăn. Ngăn trong dành cho má tôi và mấy
chị em. Ngăn ngoài dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi
vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn cầy,
thắp tới mấy tháng chắc cũng không hết.
Thái lại t́m ra một thùng dầu hỏa. Ba tôi
dạo c̣n sống vẫn ưa tích trữ đồ,
ông sắp về hưu và định dùng khu vườn
cùng nhà thờ họ này làm nơi an dưỡng
tuổi già.
Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn cơm rất
ngon. Cơm gạo giă tay, ăn với thịt kho
mặn. Món ăn này do mợ Giáo đài thọ từ
lúc c̣n ở dưới Thủy Dương. Chúng tôi
ăn thật nhiều cơm. V́ làm việc mệt và
đói nữa, chắc má tôi phải nhường
mất một nửa phần của bà.
Đêm đến, trước khi gài cửa ngơ cẩn
thận và chui vào hầm, d́ Vạn đốt hương
trên bàn thờ ba tôi, lâm râm khấn nguyện. Rồi
đi ra sân thắp hương vái bốn phương.
Cây mai nơi bể nước vẫn c̣n lơ thơ
mấy bông, d́ đem hương cắm ở gốc cây
mai đó. Chúng tôi nằm đất, lèn sát nhau mà
vẫn không đủ chỗ. Lài với Túc không
chịu nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà.
Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những ngày sắp
đến. D́ Vạn càu nhàu nói, dù sao đi xuống dưới
Phù Lương vẫn yên hơn là ở đây. Nhưng
má tôi nói chạy đông chạy tây đă hết
rồi, giờ về đây có chết cũng không c̣n
tiếc chi nữa. Ở đây c̣n mong được
biết tin con cháu.
Vợ chồng Bé và chú tôi th́ lên nhà của họ phía
trên đường rầy từ chiều. Bé cho
biết trên đó người ta về cũng đông
lắm rồi. Nhiều gia đ́nh khi chạy c̣n nguyên
lành, khi về thiếu mất vài mạng. Họ đă
chết dọc đường. Má tôi dặn: ban đêm
ai gọi cửa đừng mở. Thái khôn khéo ra ngoài
khóa cửa lại rồi leo cửa sổ mà vào. Nó nghĩ
rằng làm như thế có ai gọi họ tưởng
là nhà bỏ không. Mà đúng như vậy, nửa
đêm có nhiều tiếng súng nổ nhỏ, rồi
tiếng chân đi ngoài vườn. Tiếng chân đi
mạnh bạo không thèm dấu diếm ǵ hết.
Tiếng chân dừng lại ở trước cửa nhà
rồi có tiếng gơ cửa. Tiếng đàn ông nói:
“Có ai không. Mở cửa. Mở cửa.”
Có tiếng khác gắt:
“Đồng chí chỉ hoài công, tối nào cũng gơ.
Họ bỏ nhà hoang mà.”
“Khu vực này người ta về đông lắm
rồi. Biết đâu chủ nhà đă về.”
“Nhưng nhà này có tên trong danh sách không đă
chớ?”
“Có tên, nhưng ông già làm công chức đó đă
chết rồi.”
“Vậy th́ thôi. Con cháu họ ở kệ họ. Tôi
đoán chắc chưa có ai về đâu. Nhà này ai mà
dám ở.”
Tiếng chân xa dần. Có tiếng chó sủa trong xóm
ra. Một lát có tiếng đại bác nổ gần. Lài
chui tọt vào hầm. Chúng tôi phải ngồi dậy
mới đủ chỗ. Tiếng đại bác rơi
đều đều, xa có, gần có. Có tiếng quá
gần, dội tức ngực làm chúng tôi co rúm người
lại. Lài nắm tay tôi hỏi: Vân ngồi mô. Đây
ń. Ở nơi ni dễ sợ rứa hỉ. Tiếng d́
Vạn nói:
“Im đi, đừng có ŕ rào.”
Xa xa tiếng súng lại nổ ran. Đánh nhau ở
đâu có vẻ lớn lắm. Chúng tôi thao thức lo
lắng một vài giờ rồi cũng mệt quá
ngủ thiếp đi.
Sáng ngày, d́ Vạn dậy trước nhất. D́ ngóng
ở cửa nghe động tĩnh rồi mới
mở hé cửa. Ngoài đường vắng ngắt,
nh́n nhà nào cũng hoang vắng đến dễ sợ.
Thái chui ra sân trước tiên, rồi tới tôi,
tới Lài. Buổi sáng trời vẫn lất phất mưa
và lá cây trong vườn xanh một cách kỳ lạ.
Qua những đám mây lam sà thấp, tôi bỗng h́nh
dung được phía sau một bầu trời xanh lơ
và ánh mặt trời rực rỡ. Má tôi, d́ Vạn cũng
chạy ra: Nam mô A Di Đà Phật, một đêm yên
ổn đă qua. D́ Vạn chấp tay vái bốn phương
trời. Chúng tôi nh́n nhau, mừng mừng tủi
tủi. Lâu nay chúng tôi vẫn sát nhau kề cận bên
những nguy hiểm mà không nh́n thấy nhau hay sao mà bây
giờ, đứng trước sân lại mừng
tủi như sau bao ngày gian nguy mới gặp nhau,
thấy nhau vẫn c̣n lành lặn.
Nhưng cơn mừng tủi chưa dứt, ngoài
quốc lộ, một đoàn xe Mỹ chạy từ Phú
Bài lên, súng bắn rát vào hai bên ruộng. Chúng tôi không
ai bảo ai đều chạy vào nhà đóng chặt
cửa. Đoàn xe Mỹ qua một lúc th́ Thái lại nói:
“Có lính ḿnh lên.”
Nó đứng bên cánh cửa sổ hé mở và nh́n ra
ngoài. Má tôi nói:
“Phải sửa lại cái hầm. Thằng Thái
nhớ đào thêm đất đổ lên cho dày
nghe.”
Mặc dù cố gắng hy vọng nhưng chúng tôi chưa
thấy dấu hiệu ǵ chứng tỏ ḿnh là người
sẽ sống sót trong thành phố này, sau biến
cố.
Đêm thứ nhất trở lại thành phố,
mặc dù có tiếng đại bác, có tiếng súng
nổ ran ở xa xa, chúng tôi vẫn c̣n được
ngủ yên được mấy tiếng đồng
hồ trong chiếc hầm chật hẹp.
Không may cho chúng tôi, chiếc hầm được
sửa sang mới ba bốn hôm th́ người thuê căn
nhà bếp là một giáo viên tiểu học dạy trường
An Cựu trở về.
Thấy cửa bếp bị mở tung, ông có vẻ không
bằng ḷng. Ông vội vàng bỏ hết đồ
đạc vào mấy cái giỏ lớn, ngỏ ư đ̣i
mấy bao cát lại để xây hầm đưa
vợ con về tạm trú, xong ông ta lại lên xe Honda
đi mất. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lại dỡ
hầm, mang bao cát xuống bếp trả lại,
rồi cùng nhau làm tạm một cái hầm mới không
lấy ǵ làm kiên cố lắm. Người thuê căn
nhà bếp trở về sửa sang lại cái hầm,
nhưng ông chỉ đưa vợ con về có một
hôm để lo thu dọn chở đồ đi nơi
khác. Chiếc hầm dưới bếp bỏ không, Thái
lại ṃ xuống lấy thêm bao cát lên chất cho dày.
Mấy ngày sau, quốc lộ một nối vào An
Cựu có vẻ tấp nập hơn trước, người
tản cư đi, người hồi cư về có
vẻ đông đúc hơn. Một vài gia đ́nh
tạm trú lại một buổi hoặc một ngày nơi
sạp mộc, rồi họ lại tiếp tục
đi về Phù Lương, Phú Bài.
Mỗi ngày, vợ chồng Bé xuống cho chúng tôi ít
tin tức. Nào đêm qua Việt cộng về đầy
ở ngoẹo Hàng Xay. Nào sáng nay quân ḿnh đi gỡ
cờ treo trước đồn vận tải.
Hoặc: Bác ơi, sắp đánh tới nơi rồi.
Họ sắp đánh chiếm lại An Cựu.
Tôi không thể nào hiểu được việc ǵ
sẽ xảy ra nữa. Nhưng khu vực An Cựu th́
có vẻ b́nh yên hơn. Một hai ngày đầu, chúng
tôi không thấy ǵ lạ, nhưng vợ chồng Lài th́
đêm nào cũng nghe tiếng chân đi qua vườn.
Vài ba hôm, Hiền, Lài và Túc về dưới Phù Lương.
Nhiều gia đ́nh tản cư về dưới đó
v́ nghe dưới Phù Lương, Phú Bài có lập
trại tỵ nạn. Vợ chồng Bé gan ĺ ở
lại cho tới một hôm có mấy quả đại
bác không hiểu v́ tính sai tọa độ hay cố ư
rơi trúng vùng An Cựu vào đêm khuya. Lúc đó chúng
tôi đang nằm trong hầm, mỗi người đều
bị dội bật lên và túm chặt lấy nhau. Hai ba
tiếng nổ liên tiếp thật gần rồi im
lặng hẳn. Sáng ra Thái đi ngóng t́nh h́nh, thấy
ngoài đường người ta khiêng mấy người
bị thương đặt bên đường, t́m cách
đưa đi bệnh viện Mỹ. Gần chín
giờ sáng, một đoàn xe lính đi lên, nhưng không
chiếc nào dừng lại. Rồi tới mười
giờ, những người lính biệt động quân,
nhảy dù, từ dưới Phú Bài đi bộ lên. Không
có phương tiện nào nữa, mấy người
bị thương đă chết. Hai căn nhà hoàn toàn
hư hại, mái tôn của nhà trúng đạn văng
tuốt ra tận sau đường rầy. Rồi
đêm hôm sau lại nổ nữa, lần này xa hơn
một chút, và sáng hôm sau, vợ chồng Bé hớt hơ
hớt hải bế bồng nhau xuống nhà chúng tôi:
“Không ở được rồi. Lính ḿnh ở Sài G̣n
ra, đánh lớn lắm. Đang chiếm lại nhà bưu
điện. Dân dồn về hết nơi trường
kiểu mẫu. Đêm qua bom chơm rơi trên xóm con,
mấy cái nhà nữa bị sập.”
Má tôi thở dài. Thái lo lắng:
“Có ai bị thương không?”
“Không, may người ta đều ở hầm
hết. Đêm qua anh tưởng nguy rồi chớ.”
Và không đợi hỏi ư kiến ai, vợ chồng Bé,
Thu cùng mấy đứa nhỏ gồng gánh, bồng
bế đưa nhau về Phù Lương.
Má tôi thấy t́nh h́nh gay go quá, nửa muốn đi
nửa muốn không. Má tôi vẫn ngóng đợi tin
tức ở Nam Giao, Từ Đàm. Nhưng có được
chút tin tức nào th́ chỉ toàn là những tin tức
làm chúng tôi thêm tuyệt vọng.
Trong những ngày trước, dân chúng Huế chết v́
đại bác, v́ bom máy bay, v́ bị đấu tố,
điểm chỉ. Chúng tôi ở An Cựu, coi như giáp
với ngoại ô thành phố, có chạy loạn th́ cũng
chạy v́ sợ bị Việt cộng bắt, hoặc
bị trúng đạn chết oan. Nhưng lần này, ác
chiến đă diễn ra khắp cùng thành phố.
Một vài nơi quân quốc gia đă chiếm lại
được, những lá cờ giải phóng đă
được gỡ xuống. Ở đồn Trường
Bia đă thấy thấp thoáng lính ra vào, nhưng ở
đồn vận tải vẫn bỏ không. Cầu An
Cựu ban ngày được Mỹ lên canh gác và
sửa chữa. Phải nối xong mấy cái cầu, quân
đội mới dàn qua bên phố được. Phía
bên hữu ngạn mới chỉ yên ổn có mấy vùng.
Tin tức đưa về thành nội, phố Trần
Hưng Đạo vẫn do họ chiếm giữ.
Ở Nam Giao, Bến Ngự, Từ Đàm vẫn là nơi
họ đóng quân.
Chúng tôi về lại thành phố đúng lúc phe
quốc gia cố giành lại từng tấc đất
thật là một tṛ đùa nguy hiểm. Nhưng
chạy thoát thân một ḿnh để một nửa
gia đ́nh bị kẹt lại, quả trong ḷng chúng tôi
không ai muốn thế.
Giữa lúc chúng tôi được trú ngụ ở
một phần đất tương đối ít nguy
hiểm th́ thành phố Huế rơi vào lúc ngập súng
đạn, máu đổ. Và nhờ có một người
thoát từ phố về, chúng tôi biết được
những tin tức kinh hoàng bên kia sông Hương.
Một buổi sáng, Thái thấy một đoàn xe đi
lên, tới cầu rẽ lên phía Phú Cam, rồi rất
nhiều đoàn lính dù, biệt động quân đi
bộ từ dưới Phú Bài lên. Một lúc sau
lại thấy Mỹ tới sửa tiếp cầu An
Cựu. Thái kêu tôi ra đường:
“Người ta đi lại nhiều rồi chị.”
Má tôi dặn:
“Đừng có ra đường nghe tụi bây. Quân ḿnh
lên là sắp đánh nhau lớn rồi đó.”
Quả như lời má tôi đoán. Chỉ chừng
nửa tiếng đồng hồ sau khi đoàn lính
đi qua, là tiếng súng lớn nhỏ nổi lên
ở miệt Phú Cam, Bến Ngự. Và một số dân
chúng bồng bế nhau chạy loạn về An Cựu
để xuống Phù Lương.
“Đánh nhau lớn rồi.”
Má tôi kêu chúng tôi chui vào hầm hết. Nhưng
gần tới trưa chúng tôi mới nhớ ra là nhà chưa
có ǵ ăn, chỉ c̣n ít gạo.
Thái nói:
“Hồi năy con thấy dưới Mù U có bán thịt
heo. Dưới đó với chỗ ḿnh ở yên
rồi, thuộc vùng quốc gia rồi.”
Má tôi làm thinh. Thái lại nói:
“Để con với chị Vân đi mua thịt.
Họ bắn nhau ở trên Bến Ngự lận mà bác.”
Tôi cũng muốn ra đường coi t́nh h́nh nên nói
vô giúp Thái:
“Con với nó chạy ra mua một chút về liền mà
má.”
Má tôi thở dài:
“Ừ, mà đi mau nghe.”
Tôi theo Thái chui ra khỏi hầm. Má tôi dặn:
“Tránh đạn mà đi nghe con.”
Câu nói của má tôi làm tôi vừa thương vừa
buồn cười. Làm sao tránh đạn được.
Nhưng tôi cứ dạ cho má tôi yên ḷng. Tôi với Thái
không đi xuống Mù U mà rủ nhau đi ra thẳng phía
cầu An Cựu.
Thiệt chúng tôi đă gan cùng ḿnh. Ngoài đường
không có một người đi, lính Mỹ lính
Việt xuôi ngược tíu tít chuyển quân.
Họ chả buồn chú ư tới chúng tôi nữa. Chúng
tôi ra tới cầu An Cựu, thấy cầu nổi
đang được công binh Mỹ làm gần xong, chúng
tôi không dám đi đường cái mà ṿng lối sau
đi theo con đường nhỏ sau ruộng mà
về nhà. Nhiều hố bom đào những hầm
lớn, trời mưa, nước đọng thành
từng vũng. Ngang qua một khu vườn bỏ không,
chúng tôi nghe thấy tiếng động sau một
bụi tre.
Thái kéo tôi:
“Đi nhanh chị.”
Tôi ṭ ṃ ngoái lại nh́n qua những nhánh tre thưa, tôi
nh́n thấy những ngôi mộ đất đắp
vội vàng, ở trên mộ cắm thẻ kiểm tra và
cạnh đó, một chiếc hầm cá nhân, một xác
lính Bắc Việt đang nằm vắt nửa trên
nửa dưới miệng hầm, không biết bị
thương hay đă chết, cạnh đó một
hố bom và những cành cây khô, những nhánh tre ngă găy
tả tơi. Qua mấy ngôi vườn bỏ hoang, chúng
tôi tới một thửa ruộng nhỏ vuông vắn,
ruộng bỏ không và nước lúp xúp. Tôi không
biết đường nên cứ đi sau Thái. Có
tiếng máy bay tới gần, Thái kéo tôi nằm
mẹp xuống đường, đợi cho máy bay
khuất mới tiếp tục đứng lên đi
lần về nhà. Khi tôi đứng dậy, tôi bỗng
nghe tiếng rên rỉ. Tôi dừng lại th́ Thái đă
kéo tay tôi: Đi chị. Thái nói nhỏ:
“Bọn họ bị thương, không khéo họ
bắn ḿnh. Đi ngả tắt ni thiệt dại
hết sức.”
Thái cầm chặt tay tôi và lôi tôi đi theo nó. Nhưng
tiếng rên một lúc một rơ và một van nài hơn.
Cứu tôi với. Cứu tôi với. Cứu tôi
với. Tôi không thể làm ngơ được, rơ ràng
là tiếng người sắp chết. Tôi nh́n quanh
quất và chợt nhận ra một thanh niên đang
gục bên một chiếc hố nông, h́nh như người
ta đào rồi bỏ dở nửa chừng, hay
một miếng bom nào cày lên cũng nên. Thanh niên
mặc một chiếc áo măng tô màu xám, dính đầy
máu. Thái nh́n thấy và nó biết không phải quân
giải phóng. Tôi kéo Thái lại gần:
“Chắc là sinh viên hay học sinh chi đây.”
Chúng tôi đă đứng bên cạnh. H́nh như
nhận ra tiếng chân người, khuôn mặt bê
bết đất ngẩng lên, một gịng máu rỉ
chảy bên mép. Thanh niên đưa tay ôm ngực và
muốn gục xuống. Thái vội nhảy xuống
hố đỡ thanh niên dậy:
“Tôi chết mất,” người thanh niên rên rỉ.
“Anh ở mô tới?”
Thái cúi tai sát người thanh niên. Anh ta cố gắng
đưa tay chỉ về phía, phía trước là
những vườn cây. Tôi không hiểu. Thái hỏi:
“Anh ở bên phố thoát sang?”
Thanh niên gật đầu.
Vừa lúc đó lại có tiếng máy bay tới
gần. Lần này h́nh như tới mấy chiếc và
bay liệng ngay trên đầu chúng tôi. Người
thanh niên ra dấu chúng tôi nên lánh đi và cho biết
Việt cộng c̣n ẩn núp trong nhiều khu vườn
nơi này nên Thái đưa tay ra dấu cho tôi đi trước
rồi d́u thanh niên đứng lên. Tiếng máy bay như
sắp hạ xuống trên đầu, Thái hét lớn:
“Chạy vô nhà trước mặt.”
Tôi chạy thẳng vào chiếc ngơ mở sẵn, Thái
đă tới sát lưng. Chúng tôi bước qua mấy
bực thềm là vào nhà. Căn nhà bỏ không, có
một hầm cát nhưng Thái vừa nh́n vào đă
bụm miệng lùi lại:
“Có người chết.”
Tôi định chạy ra nhưng bên ngoài đă có
tiếng súng nổ. Một loạt đạn trên máy
bay bắn xuống. Tiếng rốc két như rơi ngay
trên đỉnh đầu. Thái đành kéo tôi chạy
xuống bếp, ở đây có chiếc bể cạn.
Thái đặt thanh niên ngồi dựa nơi bể nước
rồi kéo tôi bắt nằm sấp xuống đất.
“Đừng có ngẩng đầu lên. Có đạn
ngoài vườn đó.”
Tôi nằm sát xuống đất, hai tay ôm lấy đầu.
Thái b́nh tĩnh hơn, nó xé áo lau vết thương
cho thanh niên và băng bó lại. Người thanh niên
đă bớt sợ và tỉnh táo hơn. Anh cho biết
anh ta tên là Khâm, ở trong thành nội. Anh đă thoát
được bằng cách giả làm đàn bà,
chạy theo đoàn người tràn ra cửa thành và vét
hết tiền đem theo để thuê một
chuyến đ̣ qua sông. Anh mở hé chiếc áo măng
tô ra, bên trong là vạt áo dài màu xanh nhuộm đầy
máu. Chiếc khăn trùm trên đầu đă rơi
mất tự bao giờ.
Tiếng máy bay vẫn lượn ṿng, mặc tiếng
đạn từ dưới đất bắn lên như
mưa, và cứ mỗi ṿng tṛn lượn trở
lại là những loạt rốc két bắn xuống
xối xả. Tim chúng tôi đập liên hồi.
Chắc giờ này má tôi ở nhà lo lắng lắm,
theo phương hướng th́ tôi đoán ở phía nhà
tôi không việc ǵ, mé này gần Phủ Cam. Nằm
ở nơi đây tôi thấy bấp bênh quá, có
thể trúng đạn bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ
tới chiếc hầm ở trên nhà nhưng Thái cho
biết là có người chết. Tôi ṭ ṃ hỏi Thái:
“Em thấy ǵ trong hầm vậy?”
“Có một người chết ở trong đó.
Dễ sợ lắm, em nh́n vô thấy một người
nằm ngửa, tay chân khô queo, hai mắt như c̣n
mở và hướng về miệng hầm. Bên
cạnh đó có những vũng máu đặc, em nh́n
thấy mấy con chuột đang chạy lui chạy
tới lăng xăng, có con đang ngậm vào đầu
ngón tay ngón chân của xác chết.”
Tôi rùng ḿnh, muốn bỏ ngôi nhà chạy ra ngay. Nhưng
bên ngoài lúc này đầy rẫy sự nguy hiểm.
Tiếng súng dưới đất nhỏ dần
rồi rút về miệt xa hơn. H́nh như họ
đă bỏ những hố cá nhân để chạy
thoát khi tiếng máy bay c̣n lượn ṿng. Và khi
tiếng máy bay quành trở lại th́ không c̣n nghe
tiếng bắn trả ở xung quanh nơi chúng tôi núp
nữa. Khâm có vẻ tỉnh táo hơn, anh đă
tựa được lưng vào thành bể cạn, Thái
lấy cái lon múc nước ở bể cạn cho Khâm
uống nhấp nháp. Anh ta mất máu nhiều quá, khuôn
mặt xanh lè và hai mắt sâu, chứng tỏ nhiều
đêm mất ngủ. Mặc dù tiếng đạn dưới
đất không c̣n bắn lên nữa, nhưng máy bay
vẫn lượn ṿng trên đầu, chúng tôi biết
là chưa thể thoát ra khỏi ngôi nhà này được.
Khâm nói, giọng yếu ớt:
“Mấy ngày trước chỉ sợ bị giải
phóng bắt, xử tử. Chỉ sợ chết bom. Nhưng
lúc này sao tự nhiên tôi chẳng sợ ǵ nữa. Tan nát
hết rồi.”
Và Khâm bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về
cuộc chạy trốn của Khâm. Chuyện của
những người kẹt ở bên kia ḍng sông Hương.
Mời
xem tiếp phần 10
|